Phụng Vụ Chư Thánh

THÁNH TÊ-RÊ-SA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU

Các bạn muốn được lên thẳng thiên đàng ?
Hãy theo đường lối của
THÁNH TÊ-RÊ-SA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU

Thật khiêm tốn, tự đặt mình vào chỗ thấp nhất, làm những điều bình thường nhỏ bé bằng đường lối phi thường:

Với tất cả tình yêu thương Tư tưởng của Thánh Teresa       

Một Cuộc Sống Rất Bình Thường

Sự thánh thiện của Thánh Têrêsa không phải từ hiện tượng phi thường nào. Đây là vấn đề:” làm những điều bình thường bằng đường lối phi thướng”.

Rất nhiều người khó có thể nhận thức rằng Therese Martin đã có một cuộc sống rất bình thường. Bởi vì bây giờ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê Su, được cả thế giới biết đến và được vinh danh với nhiều tước hiệu: ( Quan thầy các đoàn truyền gíao, Quan thầy thứ hai của nước Pháp, Tiến sỹ Giáo Hội v..v..) chúng ta quên rằng ngài đã ra đi không được chú ý trong gia đình ngài, giữa bạn hữu, trong tu viện Carmelite, ngay cả vị linh hướng của ngài cũng ít chú ý đến ngài.

Dù thế, Lisieux người ta đã nói với nhau rằng một cô gái đã dám nói với Đức Giáo Hoàng Leo XIII trong một cuộc triều kiến ở La Mã ( một tờ báo quốc gia đã tường thuật truyện này ). Sau đó ngài vào tu viện Carmel ở 15 và 3 tháng tuổi. Nhưng ngài qua đời âm thầm trong tu viện Carmelite và chỉ có khoảng 30 người hiện diện trong đám tang ở nghĩa trang thành phố Lisieux. Đã có 500.000 người hiện diện trong buổi lễ phong thánh của ngài tại Nhà thờ Tháng Phê-rô ở La Mã ngáy 17 tháng 5 năm 1925.

Vâng đó là một cuộc sống bình thường và âm thầm.

Ở Alencon- Lisieux ( 1873-1888)

Trong một gia đình Thiên Chúa Giáo ở Alencon: Ngưòi cha là ông Louis Martin, một thợ làm đồng hồ và thợ kim hoàn, và người mẹ bà Zelie Guerin , là thợ làm đăng ten. Ông bà có 8 người con: bốn người con đã mất khi còn nhỏ. Còn lại 4 chị em gái và bà mẹ lại mang thai lần nữa ở tuổi 40: 

Therese sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873. Cô là một bé gái rât  là linh hoạt. Cô về sống với gia đình một năm rưỡi sau đó sống với bà vú vì bà mẹ cô không thể cho cô bú. Cô sống rất hạnh phúc trong gia đình với tình thương mến của bó mẹ và các chị. Cô thừa hưởng một đức tin mạnh mẽ từ gia đình cô.

Mọi sự tốt đẹp cho đến khi biến cố đau lòng xảy ra: bà Zelie Martin qua đời vì bệnh ung thư vú vào năm 1877, lúc đó bé Therese mới 4 tuổi rưỡi.

Bé Therese bị xúc động mạnh. Cô chọn chị Pauline là người mẹ thứ hai, nhưng vết thương qúa sâu phải mất mười năm mới nguôi ngoai được. Vì phải nuôi 5 cô con gái nên ông Martin đã theo lời khẩn khoản của người em trai rể dọn về Les Buissonets, Lisieux.

Bé Therese tìm thấy một không khí ấm cúng tại đây, tuy vậy 5 năm đi học tại trường Benedictine lại trở nên “buồn bã nhất trong đời”. Bé là một cô học trò nhút nhát cho nên không chịu nổi cuộc sống ở trường học. Khi chị Pauline rời nhà để nhập tu viện Carmel, vết thương của cô đau đớn trở lại.

Ở tuổi lên 10, Therese đã mang một căn bệnh trầm trọng. Cô bị bệnh ảo giác. Các bác sỹ đã bó tay. Gia đình cô vàø các nữ tu dòng Carmel cầu nguyện rất nhiều.

Vào này 13 tháng 5 năm 1883, bức tượng Đức Trinh Nữ đã mỉm cười với cô và cô đã khỏi bệnh tức thì.
Năm sau đó, vào ngày 8 tháng 6 năm 1885, Therese được Chịu Lễ lần đầu.

Từ đó cô đã nghĩ tới việc nhập dòng Carmel. Sau đó người mẹ thứ ba là Marie lại nhập tu viện khiến cô lại một lần nữa khô đau về sự chia lìa.

Cô đã phải vượt nhiều khó khăn trong việc đi tu. Cô đã phải tranh đấu với ông chú, vị tu viện trưởng , vị Giám Mục địa phương và ngay cả với Đức Giáo Hoàng Leo 13. Cô đã cương quyết theo đuổi nguyện vọng được ” yêu Chúa Giê-Su và làm cho Người được yêu”

Được biết việc một kẻ giết người đã giết 2 người đàn bà và một bé gái 12 tuổi ở Paris, Therese đã cầu nguyện thật nhiều và làm nhiều việc nhân đức cho anh ta, cầu xin cho anh Henry Pranzini, kẻ giết người, được ơn cứu độ. Anh ta đã bị xử trảm nhưng giây phút chót anh đã hôn tượng Chúa Chịu Nạn.

Therese đã khóc lên sung sướng, việc câu nguyện của cô đã được nhậm lời, cô gọi anh Panzini là ” đứa con đầu tiên”
Trong một cuộc hành hương đi nước Ý, cô xin được có phép của Đức Giáo Hoàng để nhập tu viện ở tuổi 15. Cô chỉ nhận được sự trả lời một cách thoái thác. Dù vậy vào ngày 9 tháng 4 năm 1888 cô đã lìa xa cha, chị Celine, chị Leonie và con chó Tom mãi mãi.

Therese đã thật hạnh phúc nhập dòng Carmel mãi mãi, một “tù nhân” với Chúa Giê-Su và với 24 nữ tu khác. Cô nhiệt thành chấp nhận cuộc sống cầu nguyện ở tu viện .

Sự đau khổ lớn nhất của Therese vào lúc đó là bệnh tình của cha cô, ông đã phải nhập viện tâm thẩn ở Caen. Sau đó ông qua đời và người chị cô là Celine, người săn sóc ông đã cũng nhập tu viện, như vậy trong tu viện đã có 4 chị em: Therese, Leoni, Pauline, Celine.

Sau nhiều năm tìm kiếm Therese đã thấy được linh đạo. Cuộc đời của cô đã đổi hẳn. Cô nhận được ơn thông hiểu về Thiên Chúa. Cuộc sống Ki-Tô hữu không gì khác hơn cuộc sống một em nhỏ với Người Cha Nhân Từ, bắt đầu từ Lễ Thanh Tẩy và tiếp tục trong sự phó thác trọn vẹn. ” Nếu anh em không trở nên như trẻ em thì anh em sẽ không được vào Nước Trời.”

Ngày 9 tháng 6 năm 1895 trong ngày Lễ Chúa Ba Ngôi, một linh cảm đột nhiên nổi lên trong Therese: cô phải tận hiến làm vật hy sinh toàn thiêu cho Tình Thương Xót Chúa. Sau đó Therese bị bệnh lao, tuy vậy cô đã dùng hơi sức trong hai năm còn lại đểû dạy dỗ cho 5 tập sinh và linh hướng cho 2 sư huynh truyền giáo một ở nước Trung Hoa, một ở Phi Châu.

Therese lại bị kiệt sức về bệnh đau cuống họng, tuy vậy cô đã vâng lời viết những dòng hồi ký cuối cùng.
Therese đã viết: cô ngợi ca Tình Thương Xót Chúa trong cuộc sống ngắn ngủi của cô.

Cô đã cầu nguyện rằng:” sẽ làm điều tốt cho trái đất sau khi cô chết, cho tới ngày tận thế”. Cô đã khiêm nhượng tiên tri rằng sứ mạng của cô sau khi chết là hướng dẫn Linh Đạo Nhỏ cho các linh hồn. Cô qua đời ngày 30 tháng 9 nam 1897.

Cô đã viết rằng cô muốn trở nên: một linh mục, một phó tế, một tiến sỹ Hội Thánh, một nhà truyền giáo, một người tử đạo” có nghĩa là cô muốn tất cả.

Một năm sau khi cô qua đời, cuốn sách Một Tâm Hồn, trích đoạn những bài viết của Therese được phát hành.
Therese đã được phong Thánh ngày 17 tháng 5 năm 1925.

NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA THÁNH TÊ-RÊ-SA trích trong sách Một Tâm Hồn

Linh Đạo Nhỏ là gì?  Đó là phương cách dâng mình trẻ thơ, phương cách của một em bé nằm trong vòng tay của cha mình, em ngủ và không sợ gì cả.

It is the way of child-like self-surrender, the way of a child who sleeps, afraid of nothing, in its father’s arms.

Đó là linh đạo trẻ thơ, phương cách của tin cậy và hoàn toàn phó thác.

It’s the way of spiritual chilhood, it’s the way of confidence and total abandon.

Để ở trong tình trạng trẻ thơ: Đó là nhận ra sự hư vô, tầm thường của chúng ta, trông mong mọi sự nơi Chúa như một em bé kỳ vọng mọi sự từ người cha của em.

“Remaining a little child before God”: It is to regcognize our nothingness, to expect everything from God as a little child expects everything from its father.

Tình yêu tự nó phải chứng minh bằng việc làm, em chứng minh tình yêu của em bằng cách nào?… Em có thể chứng minh tình yêu của em bằng rắc những bông hoa, nghĩa là, không để buông trôi một dịp hy sinh nhỏ nhoi nào, một ánh mắt nhìn nào, một lời nói nào; bằng cách làm lợi trong những hành động nhỏ nhất, bằng việc làm những điều ấy vì tình yêu.

Love proves itself by deeds, and how I prove mine?… I can prove my love only by scattering flowers, that is to say, by never slip a single sacrifice, a single glance, a single word; by making profit of the very smallest actions, by doing them for love.

 Để trở nên người của Chúa, người ta phải trở nên nhỏ bé, bé như một gịot sương!

To be His, one must be small, small as a drop of dew!

Chúng ta sống trong thời đại của những phát minh, những ngưười giầu có không phải chịu khó khăn leo những bậc thang, họ đi thang máy. Đó là điều em phải tìm kiếm, tìm một thanh máy đưa em lên thẳng tới Chúa Giê-Su, bởi vì em quá nhỏ bé để leo những bậc thang dốc của sự toàn thiện…Đây là điều em đã tìm thấy: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”. ( Sách I-sai-a 66:12,13. Bản dịch do Nóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)

We live in the age of inventions now, and the wealthy no longer have to take the trouble to climb the stairs; they take the elevator. That is what I must find, an elevator to take me straight up to Jesus, because I am too little to climb the steep stairway of perfection. This is what I found:
” You shall be carried at the breast and upon the knees; as one whom the mother caresseth, so I will comfort you”. ( Isaiah 66:12,13.)

Chúng ta hãy nắm tay nhau chạy xuống chỗ cuối cùng, không ai còn tranh chấp với chúng ta nữa.

Let us take each other’s hand and run to the last place, no one will dispute with us.

Nữ tu Maria Thánh Thể muốn đốt những ngọn nến cho cuộc rước, chị không có hộp quẹt; tuy vậy, thấy một ngọn đèn nhỏ cháy trước di hài các Thánh, chị bước tới gần. Hỡi ơi, ngọn lửa đã gần tắt, chỉ còn một đốm sáng yếu ơt trên bấc đen.

Chị đã thành công châm ngọn nến trên ánh sánh yếu ớt ấy, và với ngọn nến này, chị đã thắp những ngọn nến khác của cộng đồng nữ tu.

Như vậy ngọn đèn nhỏ gần tàn, đến phiên của nó, đã có thể khơi nên nguồn vô biên của những người khác và ngay cả có thể thắp sáng toàn thể vũ trụ. Tuy thế, một ngọn đèn nhỏ luôn luôn là nguyên nhân đầ tiên của tất cả ánh sáng này. Làm sao những ngọn lửa đẹp đẽ có thể huênh hoang là đã gây nên ánh sáng này, khi mà chính chúng đã được thắp nên từ một tia lửa nhỏ như thế?

Sister Marie of the Eucharist wanted to light the candles for a procession; she had no matches ; however, seeing the little lamp which was burning in front of the relics, she approached it. Alas, it was half out,; there remained only a feeble glimmer on its blackened wick.

She succeeded in lightning her candle from it, and with this candle, she lighted those of the whole community. It was, therefore, the half-extinguished little lamp which had produces all these flames which, in their turn, could produce the infinity of others and even light the whole universe.

Nevertheless, it was always be the little lamp which would be first cause of all this light.

How could the beautiful flames boast of having produce this fire, when they themselves were lighted with such a small spark?

Đường lối của em là đầy tin cậy và yêu thương. Em không hiểu người ta lại có thể sợ một người bạn qúa dịu dàng như thế.

My way is all of trust of and love. I don’t understand souls who fear so tender a friend.

Em chỉ cần liếc vào Phúc Âm, lập tức hương thơm của cuộc đời Chúa Giê-Su đã tới với em, và em biết phải chạy về hướng nào; tới chỗ thấp nhất, không phải chỗ cao nhất!

I have only to glance at the Gospels; at once the fragrance from the life of Jesus reaches me, and I know which way to run; to the lowest, not to highest place!

Em đoan chắc với chị rằng Thiên Chúa còn dịu dàng tử tế hơn là chị tưởng. Người hài lòng với một cái nhìn, một tiếng thở dài của tình yêu…

Em nhận ra rằng người ta chỉ cần làm như vậy để chinh phục được trái tim Chúa Giê-Su. Hãy để ý một em nhỏ làm phật lòng mẹ của em băng nổi cơn giận dữ hoặc không nghe lời mẹ em, nếu em hờn dỗi trong một góc và hét lên vì sợ bị trừng phạt, mẹ em chắc chắn là không tha lỗi cho em.

Nhưng nếu em chạy tới với mẹ giang rộng tay, mỉm cười và nói” Hãy hôn con đi, con không làm việc ấy nữa”, chắc chắn rằng mẹ em sẽ ôm chặt em vào lòng, quên hẳn tất cả những việc em đã làm.

I assure you that God is even kinder than you think. He is satisfied with a look, a sigh of love… I have realized that all one has to do is taken Jesus by the heart.

Consider a small child who has displeased his mother , by flying into a rage or perhaps disobeying her; if he sulk in a corner and screams in fear of punishment, certainly his mother will not forgive his fault.

But he comes to her with outstretched arms, smiling and saying:” Kiss me, I don’t do it again”, surely his mother will immediately press him tenderly to the heart, forgiving all he has done.

Không ai có thể làm em sợ nữa, bởi vì em biết tin ở những gì về lòng thương xót và yêu thương của Thiên Chúa. Em biết rằng chỉ trong một chớp mắt tất cả hàng ngàn tội lỗi sẽ được thiêu đốt như một gịot nước rảy vào ngọn lửa đang rực cháy.

No one can make me frighten any more, because I know what to believe about His mercy and love; I know that in a twinkling of an eye all those thousands of sin would be consumed as a drop of water cast into a blazing fire.

Vui sướng biết bao khi nhớ lại rằng Thiên Chúa của chúng ta thật công minh, rằng Người dung thứ tất cả những khuyết điểm của chúng ta, và biết thật rõ là chúng ta yếu đuối ra sao. Em còn phải sợ gì nữa? Chắc chắn rằng Thiên Chúa của sự công minh vô bờ bến , Người đã tha thứ cho Đứa Con Hoang Đàng với lòng thương xót như thế, chắc chắn sẽ công minh với em kẻ đã “luôn luôn ở với Người”?( Luca 15:31 )

What joy to remember that our Lord is Just; that He makes allowances for all our shortcomings, and knows full well how weak we are. What have I to fear then? Surely the God of infinite justice who pardons the Prodigal Son with such mercy will be just with me” who am always with him’? ( Luke 15:31)

Bài viết liên quan