Trong cuộc đời Anh Charles, có những khía cạnh rất đáng ngạc nhiên và những yếu tố mà một số người lại cho là rất bình thường. Trong số những điều phi thường có thể được kể ra là việc Anh xuất thân quý tộc nhưng lại thích sống phiêu lưu thám hiểm. Điều thông thường có thể bao gồm việc anh sống phóng túng và mất đức tin thời trẻ, nhưng cuối cùng Anh đã trở lại.
Tuy nhiên, tất cả những gì thực sự quan trọng là Anh đã vượt qua những tai ương trong cuộc đời và trong những thời điểm mà Anh đã sống và đã tiến tới một sự hiểu biết sâu sắc về Đấng đã trao ban cho Anh cuộc sống đó. Giáo hội mà Anh yêu mến và phục vụ sắp xác nhận điều đó. Vatican đã tuyên bố rằng Chân phước Charles de Foucauld sẽ được phong thánh.
Trong lễ phong chân phước năm 2005, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng: với tư cách là một linh mục, Anh Charles “đã đặt Bí tích Thánh Thể và Tin Mừng làm trung tâm của cuộc sống Anh.” ĐTC Bênêđictô nói: “Anh đã khám phá ra rằng Chúa Giêsu – Đấng đã đến để hợp nhất chính Ngài với chúng ta trong bản tính nhân loại – mời gọi chúng ta hướng tới tình huynh đệ phổ quát mà sau này Anh đã trải nghiệm ở Sahara, và tình yêu mà Chúa Kitô đã nên gương mẫu cho chúng ta.”
Sinh ra tại Strasbourg, Pháp, vào ngày 15 tháng 9 năm 1858, Charles de Foucauld mồ côi mẹ từ năm sáu tuổi, theo một tiểu sử chính thức trên trang web của Vatican [1], Charles và em gái của Anh, Marie, được ông của họ nuôi dưỡng, người ông mà Anh đã tiếp bước trong sự nghiệp quân sự. Khi còn là thanh thiếu niên, Anh Charles đã mất niềm tin. Tại trường quân sự, Anh sống một cuộc sống nổi loạn, mê muội trong những hành vi ngang ngược và lập dị – theo trang web của Huynh đoàn Linh mục Jesus Caritas [2] một huynh đoàn được thành lập dựa trên cảm hứng về cuộc đời và việc làm của Foucauld. Một lần nọ, khi đang làm nhiệm vụ canh gác, Anh đã rời bỏ chức vụ của mình, ăn mặc như một người ăn xin.
Sau hai năm ở trường quân đội, Anh trở thành một sĩ quan, ở tuổi 20. Ông nội Anh qua đời và Charles được thừa kế toàn bộ tài sản của ông. Anh đã phung phí số tài sản đó và sống cuộc sống thượng lưu.
Năm 1879, khi đóng quân ở Pont-à-Mousson, người ta thấy Anh ở cùng với một người đàn bà xấu tính tên là Mimi. Năm sau, trung đoàn của Anh được gửi đến Algeria, và Anh đưa Mimi đi cùng, Anh khai gian là vợ của Anh. Khi người ta phát hiện Anh nói dối, quân đội đã ra lệnh cho Anh ta gửi cô trở lại. Charles từ chối, Anh bị đình chỉ và bị bãi nhiệm. Anh về Pháp và định cư ở Evian. Nhưng khi nghe tin trung đoàn của mình tham gia vào một chiến dịch nguy hiểm ở Tunisia vào năm 1881, Anh đã bỏ Mimi và xin được phục chức. Gia nhập một trung đoàn mới ở khu vực phía nam Oran, Anh đã tỏ ra là một sĩ quan xuất sắc, được cấp trên cũng như cấp dưới khen ngợi.
Bị mê hoặc bởi miền bắc châu Phi, Anh đã xuất ngũ và định cư tại Algiers để chuẩn bị cho một cuộc thám hiểm Ma-rốc. Đó là sự nghiệp mà Hiệp hội Địa lý Pháp cuối cùng sẽ trao cho Anh một huy chương vàng. Anh học tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái. Trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 5 năm sau, Anh bí mật đi khắp Ma-rốc, cải trang thành một rabbi . Mặc dù Anh lâm vào cảnh nguy hiểm nhiều lần, nhưng Anh đã rất ấn tượng với đức tin và sự mộ đạo của người Hồi giáo.
Sau khi khám phá các ốc đảo của Nam Algeria và Tunisia, Anh trở về Pháp và gặp gia đình vào năm 1886. Anh đã tự chất vấn chính mình về những vấn đề của đời sống nội tâm và tâm linh. Anh đi vào nhà thờ, đức tin trống rỗng, và lặp lại lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa con, nếu ngài hiện hữu, xin hãy cho con biết Chúa” (theo trang web của Jesus Caritas.)
Sự chào đón nồng hậu, tôn trọng mà Anh nhận được cách sâu sắc từ gia đình Kitô hữu đã khuyến khích Anh trong cuộc tìm kiếm, và dưới sự hướng dẫn của một linh mục, Anh trở lại với đức tin và các bí tích. Lúc đó, Anh 28 tuổi.
“Ngay khi tôi tin vào Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm điều gì khác hơn là sống cho một mình Ngài mà thôi,” Anh viết.
Trong một chuyến hành hương đến Thánh địa, Anh nghe một lời mời gọi theo Chúa Giêsu trong “Đời sống tại Nazareth”. Anh đã trao tất cả tài sản của mình cho em gái và đã trải qua bảy năm làm một đan sĩ Trappist, khởi đầu tại Pháp và sau đó tại Akbès ở Syria. Anh đã học một thời gian ngắn ở Rome, và sau đó bắt đầu sống một cuộc đời cầu nguyện và chầu Thánh Thể, một mình, gần một tu viện Clara Khó Nghèo ở Nazareth.
Được phong chức linh mục ở tuổi 43, vào ngày 9 tháng 6 năm 1901, Anh rời Sahara, điểm đến đầu tiên là Beni Abbès. Anh muốn trở thành một trong những người “bị loại trừ, bị bỏ mặc ở nơi xa nhất”. Anh muốn tất cả những ai đến với Anh sẽ tìm thấy ở Anh “một người Anh em của mọi người”. Thật vậy, Anh khởi sự thành lập một cộng đoàn Những Tiểu Đệ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Mãi đến năm 1906, một người nào đó tham gia cộng đoàn, nhưng người này đã rời đi ngay sau khi bị bệnh.
Năm 1902, Anh đã thu hút sự chú ý của bạn bè và chính quyền về thảm kịch nô lệ và Anh đã chuộc một số nô lệ.
Năm 1905, Anh chuyển đến Tamanrasset ở Hoggar và học ngôn ngữ của họ. Không có linh mục nào trước đây đã đi vào lãnh thổ của họ. Anh bắt đầu dịch Tin Mừng cho họ.
Anh Charles bắt đầu học ngôn ngữ Tuareg, học những bài hát và thơ văn vào năm 1907. Là Kitô hữu duy nhất ở đó, Anh không được phép cử hành Bí tích Thánh Thể. Nhưng Anh chọn việc ở lại, vì lợi ích của mọi người. Sau sáu tháng, Anh được phép cử hành thánh lễ một mình, nhưng không được phép lưu trữ Mình Thánh.
Đầu năm 1908, Anh ngã bệnh và suýt chết. Người Tuareg đã cứu mạng Anh bằng cách chia sẻ một ít sữa dê còn lại mà họ có, mặc dù đó là thời kỳ hạn hán. Charles, suy nhược, sống phụ thuộc vào những người láng giềng.
Năm 1909, Anh viết, “Sứ vụ tông đồ của tôi phải là tông đồ của sự tốt lành. Khi nhìn thấy tôi, mong rằng mọi người sẽ nói với nhau: ‘Vì người này rất tốt, nên tôn giáo của Anh ta phải là rất tốt.’”
Từ năm 1909 đến năm 1913, Anh đã thực hiện ba chuyến viếng thăm nước Pháp để trình bày kế hoạch của mình về một “Liên hiệp Anh em và Chị em Thánh Tâm”, một hiệp hội để cải đạo những người không tin. Anh định hướng “hiệp hội bao gồm các Kitô hữu nhiệt thành từ mọi tầng lớp xã hội, có thể cho mọi người biết đến, qua gương sống của họ, qua căn tính của Kitô giáo, và cho Tin mừng ‘được nhìn thấy’ trong cuộc sống của họ.”
Khi chiến tranh nổ ra ở châu Âu, Anh Charles vẫn ở Tamanrasset, một vùng sa mạc đang xảy ra tình trạng bất ổn, bao gồm cả các cuộc tấn công của dân Ma-rốc và Senoussites từ Libya. Để bảo vệ người dân địa phương, Anh Charles đã xây dựng một pháo đài nhỏ ở Tamanrasset và đã đến đó, chờ đợi để đón nhận họ từ khu vực xung quanh đến trong trường hợp nguy hiểm. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1916, một số người Tuareg, dưới ảnh hưởng của Senoussite, đã chiêu dụ Anh ra ngoài pháo đài và trói Anh lại. Trong quá trình cướp bóc, bất ngờ có người cảnh báo rằng binh lính đang đến. Hoảng loạn đã diễn ra, một phát súng nổ ra và Anh Charles bị sát hại. Anh được 58 tuổi.
Thi thể Anh được chôn trong một bờ hào bao quanh pháo đài. Vào giờ tử nạn, Anh Charles chỉ có một mình. Nhưng ở Pháp, 49 người đã gia nhập “Liên hiệp Anh chị em Thánh Tâm”, mà Anh đã đạt được sự chấp thuận của giáo quyền.
Charles de Foucauld đã luôn mơ ước được chia sẻ ơn gọi của mình với tha nhân và đi đến đúc kết rằng: ai cũng có thể bước theo linh đạo “Đời sống Nazareth”. Theo Vatican, “gia đình thiêng liêng của Chân phước Charles de Foucauld ngày nay bao gồm một số hiệp hội tín hữu, các dòng tu và tu hội đời, gồm cả giáo dân và linh mục.”
[1] Charles de Foucauld (1858-1916), tại https://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20051113_de-foucauld_en.html, truy cập 06/2020
[2] Chân phước Charles de Foucauld, tại https://jesuscaritasusa.org/charles-de-foucauld, truy cập 06/2020
John Burger (aleteia.org) / Tô Mã Linh chuyển ngữ / Nguồn: WHĐ