Chưa được phân loại

Hạnh các thánh ngày 5.6

THÁNH BONIFATIO

    Giám mục tử đạo.

Thánh Boniphatio có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Cređitôn gần Exeter, năm 673. thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo.image001

Winfrid rất thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng, nên thánh nhân rất mến mộ việc giảng đạo.

Một ngày kia Winfrid hỏi “phải làm gì để được cứu rỗi?

Các vị thừa sai trả lời: “Phải nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình”.

Nghe những lời này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận cho ngài vào tu viện. Khi mạnh lại, ngài vào đan viện ở Exeter, vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học kinh thánh thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làn tu viện trưởng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia, vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.

Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai dòng sông Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chuẩn nhận của Đức giáo hoàng.

Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho người mọi quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng. Rời Rôma, Người rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được một nhà nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.

Ngài thường nói: “Ta hãy đứng nơi trận chiến trong ngày của Chúa, vì những ngày gian truân đau khổ đang ập đến trên ta. Nếu Chúa muốn thì chúng ta hãy chết cho các thánh luật của cha ông chúng ta, để được dự phần gia nghiệp cùng với các ngài. Ta đừng như những con chó câm, những người canh nín thinh, những kẻ chăn thuê bỏ chạy khi sói đến, nhưng hãy là mục tử thao thức canh phòng đoàn chiên của Đức Kitô, giảng cho mọi người lớn nhỏ, già trẻ, biết được ý định của Thiên Chúa bao lâu. Người còn cho phép ta làm được, dù gặp thời thuận lợi hay không, y như thánh Gregorio đã viết về nhiệm vụ mục tử.”

Nhưng như lời Chúa phán: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ”. Chúa là Thầy, là Chủ mà còn bị bắt bớ giết hại thì môn đệ Chúa không thể tránh khỏi.

Ngài xuống thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội- Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bonifatio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bonifatio quay về với các bạn và nói: Can đảm lên, khí giới này không làm gì được linh hồn.

Các lương dân xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay. Ngài trút hơi thở cuối cùng ngày 5.6.754. Xác thánh nhân được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.

Lạy Chúa, nhờ ơn Chúa, thánh Bonifatio. Giám mục đã dùng lời nói mà rao giảng đức tin và lấy máu đào để minh chứng. Vì lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con giữ vững lòng tin, và lấy lòng can đảm mà tuyên xưng lòng tin đó. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Thánh Luca Vũ Bá Loan

Linh mục tử đạo.

Truyện tử đạo thánh Luca Vũ Bá Loan, vị niên trưởng trong số 117 vị tử đạo Việt Nam được tôn phong, là một trong những bằng chứng cụ thể nhất về sự phi lý của các bản án tử đạo. Ngài bị giết chỉ do án lệnh của triều đình, trong khi tại địa phương mọi người đều kính yêu vị linh mục già 84 tuổi râu tóc bạc phơ, hiền lành đôn hậu.

image002

Ngày xử tử 2 người lính tình nguyện cáng cha ra pháp trường. Cả mười lý hình được lệnh chém đầu cha đều bỏ trốn dù biết sẽ bị phạt, và viên đao phủ thứ mười một chỉ dám thi hành phận sự sau khi xin lỗi và nói rằng mình bị bó buộc miễn cưỡng mà thôi.

Đức tin kiên vững là sức mạnh chiến thắng mọi gian lao thử thách. Sở dĩ các anh hùng tử đạo chịu nổi mọi cực hình, tù ngục chết chóc là vì các ngài tin tưởng Chúa mạnh mẽ, kiên cường. Các ngài tin chắc rằng: qua những hình khổ tạm bợ này, các ngài sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời bất diệt; sau cái chết chóng qua này, các ngài sẽ được sống mãi mãi ngàn thu. Luca Vũ Bá Loan sinh năm 1756 tại họ Bút Quai, xứ Bút Đông, thuộc địa phận Tây Đàng ngoài. Ngay từ nhỏ, cậu đã được Chúa gọi dâng mình giúp việc Chúa. Cậu tu học ở Phú Đa và Kẻ Bèo. Sau khi mãn khóa thần học, thầy Loan được thụ phong linh mục, và đi giúp xứ Nam Sang, rồi đến xứ Kẻ Vời. Và năm 1828 Đức cha sai đến giúp xứ Kẻ Sở và ở đó cho đến khi bị bắt.

Đời linh mục ướp nồng bằng kinh nguyện. Cha là một linh mục gương mẫu về đức mến Chúa yêu người, luôn luôn nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ các tín hữu. Ngoài ra việc ban phát các bí tích cho giáo dân, cha rất chuyên cần cầu nguyện và giảng dạy. Cầu nguyện đối với cha là điều kiện tối cần cho việc tông đồ. Có cầu nguyện và sống kết hợp với Chúa thì lời giảng dạy mới đánh động được lòng người, mới cải hóa tâm hồn. Song song với kinh nguyện cha thường xuyên thăm những người nghèo khó bệnh tật, cha tận tâm nuôi dạy một vài em hiền lành nhanh nhẹn để chuẩn bị linh mục cho tương lai. Cha nhiệt thành hướng dẫn, giúp đỡ các tín hữu sống thân ái với mọi người dù có đạo hay không, cha khuyến khích an ủi các tín hữu bê bối trễ nải. Đức cha Jeantet Khiêm ca tụng cha: “Thầy xét các việc cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục cho đến ngày tử đạo, thầy thấy có lẽ trong số linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh bằng”.

Lúc đó ở Kẻ Sở có hai người ngoại giáo tên là Đỗ Cang và bá hộ Kiểng đã vi phạm luật nhà nước đang chờ ngày xét xử. Họ biết vua Minh Mạng cấm đạo, nên bàn tính với nhau bắt cha Loan nộp cho quan để lập công chuộc tội. Thế là ngày 10.1.1840, họ giả vờ đến thăm cha rồi bắt cha xuống thuyền chở đi. Giáo hữu nghe tin cha bị bắt, thì vội vàng thu góp tiền đi chuộc cha. Nhưng họ đòi tới 2000 quan, các tín hữu không chuộc nổi, nên họ đem nộp cha cho quan huyện Phú Xuyên. Quan huyện thấy cha quá già yếu thì không nhận, nên họ phải điệu cha thẳng đến Thăng Long.

Ở Thăng Long, vừa đến công đường, quan đầu tỉnh chỉ thẳng mặt 2 ông mắng rằng: “Quân dại dột sao ngươi đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, lại đáng tuổi cha ông chúng bay thế này ?” các quan thấy cha tuổi già sức yếu thì rất kính nể, nhưng vì vua đã ra lệnh cấm đạo và việc cha bị bắt đã công khai, nên đành phải cho giam vào ngục, nhưng căn dặn lính gác “Cụ già cả, tuổi cao sức yếu, phải đối xử tử tế, không được vô lễ hành hạ cụ, cũng chớ cấm người ta thăm viếng chăm sóc cụ”.

Nhờ đó trong những ngày tháng tù ngục, cha Loan luôn được giáo dân ra vào thăm nuôi giúp đỡ. Nhưng cha không dùng hết các quà biếu cho riêng cha, mà cha rộng rãi chia sớt cho lính canh và các bạn tù, nên họ rất quí mến cha và càng đối xử dễ dàng hơn.

Hai lần cha bị điệu ra tòa, nhưng thay vì tra khảo đánh đập, các quan chỉ hỏi qua lý lịch và khuyên bảo cha bước qua Thập Giá để thả cha, nhưng cha nói :“Các quan biết rõ tôi là đạo trưởng, và tôi đã phụng sự Chúa đến tuổi già này, làm sao tôi có thể bước qua Thánh Giá mà chối bỏ Chúa tôi cho được ?” .

Quan lại hỏi “Sao cụ thờ Chúa của người Pháp ?”

“Tôi chẳng thờ Chúa của nước nào cả. Tôi chỉ thờ Chúa cả trời đất, Chúa của muốn dân muôn nước khắp cả hoàn cầu”.

Thấy cha cương quyết không bỏ đạo, các quan buộc phải lòng làm án xử trảm, gởi trình lên vua Minh Mạng.

Trong thời gian chờ đợi vua chuẩn phê bản án, cha vẫn bị giam giữ trong ngục. Vì tuổi già sức yếu, lại phải ở nơi chật hẹp dơ bẩn, nên cha ngả bệnh nặng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên làm cha kiệt quệ. Viên cai ngục sợ cha chết trong tù, nên xin quan cho giáo hữu họ đạo Chuồng Trung chăm sóc cha cho đến ngày được lệnh xử tử. Đó là ngày 5.6.1840. Hai ba giáo xứ xin thi hài cha cho xứ mình. Cha cười và nói: “Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh hôi cho dòi bọ rúc ria, các ông xin làm chi ?” thế nhưng cha cũng đồng ý cho họ Chuông Trung thuộc giáo xứ Kẻ chuông được lo liệu mai táng khi cha được Chúa cho lãnh phúc tử đạo.

Viên quan giám sát chủ trì phiên xử thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, giao cho một người lính rồi cùng đi ra cửa cầu giấy là nơi thi hành bản án. Đến nơi ông nói với cha: “Cụ muốn làm gì thì làm đi”. Cha Loan quỳ xuống cầu nguyện rồi vui vẻ đưa tay cho lính cột trói vào cọc. Mười người lính được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đi hết. Để giải quyết, quan liền sai một người lính nam bộ là anh Minh. Người lý hình bất đắc dĩ đến lạy cha Loan và biện bạch rằng: “Việc vua truyền chúng cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”. Cha Loan gật đầu và ra hiệu cho anh thi hành phận sự. Các tín hữu xông vào cởi áo thấm máu vị tử đạo như một chúng tích anh hùng của người cha tuy già yếu nhưng mạnh mẽ về niềm tin.

Ngày 27.5.1900, Đức Thánh Cha Lêô XIII đã suy tôn cha lên Chân Phước. Và Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô II tôn phong Hiển thánh cho cha ngày 19.6.1988.

Thánh ĐAMINH TOẠI và ĐAMINH HUYÊN

Ngư phủ, tử đạo.

Các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu nhiều hình khổ khác nhau. Ngoài ra gông cùm, tù ngục, đòn vọt, các ngài có thể bị chém đấu, xẻo thịt, thiêu sống. Trong số 117 vị Hiển thánh tử đạo, phần đông bị trảm quyết, chỉ có 6 vị bị thiêu sống. Đaminh Toại và Đaminh Huyên là hai vị đầu tiên chịu hình khổ này để được trở nên của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, như thánh Polycarpo xưa, hai vị đã tin tưởng rằng: “Đấng đã giúp tôi quyết định chịu đau khổ vì Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Ngài sẽ làm cho lửa dịu lại và cho tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách”.

image003

Đaminh Toại sinh năm 1812 và Đaminh Huyên sinh năm 1817. Hai ông là giáo hữu họ đạo Đông Thành, tỉnh Thanh Bình, thuộc giáo phận Trung Đàng ngoài. Cả hai đã có gia đình, là những gia trưởng đạo đức sốt sắng, luôn nêu gương mến Chúa yêu người. Các ông sống bằng nghề đánh cá, hằng ngày chài lưới trên sông Nhị Bình, ở gần cửa Ba Lạt. Tánh tình đơn sơ, lương thiện, hai ông đều được các bạn đồng nghiệp và mọi người thương yêu khen ngợi.

Tháng 8 năm 1861, vua Tự Đức bắt đạo gắt gao. Nhà vua ra chiếu chỉ PHÂN SÁP, nhằm tận diệt người theo, đạo Công giáo. Theo chiếu chỉ này, quân lính và người ngoại giáo được phép vào các làng Công giáo tịch thu tài sản và bắt các giáo hữu đem nộp cho quan, để khắc hai chữ TẢ ĐẠO lên má.

Lúc đó, quân lính và người ngoại giáo kéo nhau vào họ đạo Đông Thành. Sau khi vơ vét tài sản của người Công giáo ở đây, họ bắt nhiều người đem nộp cho quan huyện, trong số đó có ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên. Ông Toại bệnh tật đi lại không nổi, họ bảo ông nộp tiền chuộc, họ sẽ thả ông về gia đình. Nhưng hai ông nghĩ đây là cơ hội tốt để xưng đạo thánh trước mặt thiên hạ, và vì ông muốn cùng các đồng đạo tuyên xưng danh Chúa dẫu phải trả giá bằng cuộc sống để làm chứng cho đạo Chúa là đạo thật.

Quân lính dẫn hai ông đến huyện Quỳnh Côi, và giam vào ngục, đợi ngày xét xử. Suốt chín tháng bị giam trong ngục, các ông phải đói khát, xiềng xích, gông cùm khổ sở, nhưng không bao giờ than thở buồn phiền, mà lúc nào cũng vui vẻ sẵn sàng chịu gian lao khốn khó, trước là để lập công nghiệp, sau là để nêu gương can đảm hy sinh cho các bạn đồng đạo cùng bị giam trong ngục. Chẳng những thế, hai ông còn thường xuyên an ủi, khích lệ các bạn bền tâm giữ vững đức tin: “Nào anh em can đảm lên, chúng ta chịu khổ vì Đức Kitô nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng và nếu cần sẵn sàng hy sinh mạng sống vì danh Chúa.

Trong thời gian bị giam giữ, nhiều lần hai ông bị điệu ra công đường, tra tấn đánh đập buộc phải bước qua Thánh Giá chối Chúa bỏ đạo; nhưng dù bị đòn đau đớn, các ông vẫn can đảm trung thành với Chúa. Các quan thấy cực hình không thể lay chuyển được lòng tin của các ông, thì tìm cách dụ dỗ, hứa trả tự do và ban cho nhiều tiền của, nếu các ông đạp lên Thánh Giá. Các ông nói: “Của cải đời này nay còn mai mất, không thể đem lại cho chúng tôi hạnh phúc vững bền. Chỉ có Chúa mới làm cho chúng tôi sống đời đời, được hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúng tôi quyết tin theo Chúa để được Người thương ban hạnh phúc vĩnh viễn đó”.

image004

Các quan nổi giận kết án thiêu sống hai ông. Án đó chẳng những không làm khiếp sợ, mà còn tăng thêm hân hoan phấn khởi cho các ông. Và các ông hết lòng cám ơn Chúa, vì Người đã thương cho các ông được trở nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa, để làm chứng cho Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Sáng ngày 5.6.1862, đúng ngày ký hòa ước Nhâm Tuất nước Pháp buộc triều đình Việt Nam phải cho tự do hành đạo, hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên vui vẻ bước lên giàn hỏa thiêu dâng hiến đời mình cho Chúa. Trong khi ngọn lửa bốc cháy bừng bừng, các ông hoan hỷ cất tiếng ngợi khen và cầu xin Chúa ban ơn thêm sức cho chịu nổi cực hình ghê tởm này, và các ông đã từ từ ngã gục trong đống lửa…

Ngày 29-4.1951, Đức Thánh Cha Piô XII tôn phong hai ông lên Chân Phước, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng các ngải lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988.

Lạy Cha, Cha đã ban cho Giảo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha vả trung kiên mãi đến cùng.

 

Bài viết liên quan