“ Thủa xưa , nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ và đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” ( Dt 1 : 1-3)1
– Mặc khải là gì ?( Revelatio, revelation)
Sách Giáo lý Công Giáo giải thích về mac khải như sau:
“ Trong sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Ngài, Thiên Chúa đã vui lòng đích thân tỏ mình ra và cho biết mầu nhiệm của thánh ý Ngài , nhân đó và nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể , con người có thể đến gần Đức Chúa Cha , trong Chúa Thánh Thần và được trở nên thông phân bản tính thần linh của Ngài.” ( SGLGHCG, số 51)
Như thể, hiển nhiên có nghĩa là nếu Thiên Chúa không tự tỏ mình ra ( tự mạc khải) bằng nhiều cách mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây, thì chắc chắn con người không có cách nào biết được Thiên Chúa là AI cũng như không thể hiểu được thánh ý của Chúa cho con người từ muôn thủa cho đến ngày nay và còn cho mãi đến ngày cánh chung tức là ngày hết thời gian.
Sở dĩ chúng ta không thể biết được Thiên Chúa vì Ngài quả thật siêu vượt ra khỏi mọi khả năng hiểu biết của trí tuệ con người.
Thật vậy , Thiên Chúa là Đấng “ẩn mình” như ngôn sứ I-saia đã nói :
“ Lậy Thiên Chúa của nhà It-rael, Lậy Đấng cứu độ
Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình ( hidden)” (Is 45: 15)
Thánh Phaolô cũng được soi sáng để nhận biết Thiên Chúa là Đấng “ngự nơi ánh sáng không ai đến được”, vì :
“ Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử
Ngự trong ánh sáng siêu phàm
Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy.” ( 1 Tm 6: 16)
Không thể biết và không thể thấy đối với mọi khả năng trí khôn và giác quan của con người, cho nên, nếu Thiên Chúa không tự tỏ mình ra thì không bao giờ con người có thể biết được gì về Ngài .Đó là sự thật không ai có thể phủ nhận.
II – Vậy Thiên Chúa đã tự mạc khải hay tỏ mình ra cho con người biết phần nào về Ngài qua những phương cách nào ?
1- Trước hết , Thiên Chúa tỏ mình cho con người qua công trình Người sáng tạo trong vũ trụ thiên nhiên hùng vĩ mà con người có thể quan sát thấy:
“ Tôi quả rõ, CHÚA thật là cao cả
Chúa chúng ta trỗi vược trên hết chư thần
Muốn làm gì là Chúa làm nên
Chốn trời cao cùng nơi đất thấp
Lòng biển cả và đáy vực sâu
Từ cùng tận địa cầu xa tắp
Chúa đẩy lên từng đám mây trời
Làm cho chớp giật mưa rơi
Mở kho thả gió khắp nơi tung hoành.” ( Tv 135(134) : 5-7)
Hoặc :
“ Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
Không trung loan báo việc tay Người làm
Ngày qua mách bảo cho ngày tới
Đêm này kể lại với đêm kia
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh
Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
Và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” ( Tv 19 (18) : 2-5)
2- Qua các giấc mơ hay chiêm bao khi con người ngủ:
a- Cụ thể là trường hợp vua A-vi-ma-lec( Abimelech) đã sai người đến bắt bà Xa-ra ( Sarah), vợ ông Ap-raham. Nhưng ban đêm, khi vua A-vi-ma-lec ngủ, Thiên Chúa đã cảnh cáo ông trong giấc mơ là “ Này ngươi sắp phải chết vì người đàn bà mà ngươi đã bắt, bởi người ấy có chồng.”( St 20: 3). Vì lời cảnh cáo này của Chúa, vua A-vimalec đã trả bà Xa-ra về cho ông Ap-raham và được tha chết.
b- Đặc biệt là Giuse con ông Gia-cóp bị bán sang Ai Cập. Nhưng đã trở thành người cứu sống cho cả gia đình dòng họ sau này nhờ địa vị của ông trong triều đình vua Pharaon. Giuse có ơn giải mộng, nên một ngày kia vua Pharaon cho vời Giuse đến để giải mộng cho nhà Vua.Giuse đã nói với vua như sau : “ Không phải tôi mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả lời đem lại bình an cho Pharaon.”( St 41: 15-16)
c- Đặc biệt hơn nữa là Thánh Giuse, bạn thanh sạch của Đức Trinh Mữ Maria, đã được Thiên Chúa báo mộng trước hết là không được bỏ trốn khi biết Maria có thai, sau là phải đem Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập; và sau cùng là đem thánh gia thất về sống ở Nazaret.Tất cả những việc trên đều được báo mộng trước cho Thánh Giuse và Ngài đã hoàn toàn thi hành những gì đã được báo cho biết trong giấc mơ.Như thể đủ cho thấy Thiên Chúa cũng dùng giấc mơ để mạc khải cho con người biết về Chương Trình và Thánh Ý của Người.
3- Qua các Sứ ngôn ( Prophets) trong thời Cựu Ước và các Tông Đồ của Chúa Giêsu trong thời Tân Ước:
Đây là những người được Thiên Chúa đích thân kêu gọi để trao cho sứ mệnh loan truyền lại lời Chúa và thánh ý của Ngài cho con người ( cho dân Do Thái trước tiên, và cho các dân khác trên toàn thế giới sau này), như Ngôn sứ Amos đã nói rõ như sau:
“ Vì Đức Chúa là Chúa thượng không làm điều gì
Mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ của Người được biết.” ( Am 3:7)
Ông Mô-sê cũng nói thêm về ơn gọi và vai trò của các ngôn sứ như sau :
“ Từ giữa anh em , trong số các anh em của anh em, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy.” ( Đnl 18:15)
Lại nữa, qua miệng ngôn sứ E-de-kien( Êzekiel) Thiên Chúa đã nói với dân Israel như sau :
“ Hỡi con người , hãy đi đến với nhà Israel và nói với chúng những lời của Ta…( Ez 2: 4)
Mặt khác, cũng có khi chính Chúa Cha mạc khải trực tiếp cho con người như Chúa Giêsu đã nói cho Phêrô biết rằng: “ này anh Si-môn, con ông Giona, anh thật là người có phúc , vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh biết điều ấy ( biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống như Phêrô tuyên xưng (Mt 16: 16)) nhưng là Cha của Thầy Đấng ngự trên trời.” ( Mt 16:17)
Vì thể, sau khi Adam và Eva phạm tôi và bị đưổi ra khỏi địa đàng, cho đến khi có đông đảo con người trên mặt đất cùng với các sinh vật khác. Nhưng con người đã dần dần sa đọa và làm những sự dữ trái với ý muốn tốt lành của Thiên Chúa, nên Người đã nổi giận và quyết định tiêu diệt hết mọi người và sinh vật trên mặt đất, trừ ông Noe là người sống đẹp lòng Chúa.Cho nên, Chúa đã truyền cho ông:“ làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách” đủ sức chứa mọi loài sinh vật, mỗi loài một đôi cùng với gia đình con cái ông lên tầu, vì Thiên Chúa “ sắp cho Hồng Thủy, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời; mọi loài trên mặt đắt sẽ tắt thở.” Thiên Chúa đã giáng tai họa nước lụt,vi Người “ thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu”(St 6: 5) , nên Thiên Chúa đã tiêu diệt hết mọi loài, mọi vật , trừ những sinh vật và người trong gia đinh ông Nô-E đã lên tầu trước khi mưa tuôn đổ xuống địa cầu để cuốn đi mọi sinh vật bên ngoài con tầu này vào lòng đại dương.( St 6: 6- 22; 7: 1-5)
Sau đại hồng thủy, Thiên Chúa lại tỏ mình cho ông Abraham, cũng là người sống đẹp lòng Chúa, đã dám hy sinh con mình là Isaac theo lời Chúa thử thách ông và ông đã toan giết con làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa.Nhưng Chúa đã kịp thời can thiệp để cứu Isaac vì đã thấy lòng tin yêu đích thực của ông. Vì thế, Thiên Chúa đã phán bảo Abraham qua miệng Sứ Thần của Chúa như sau:
“ Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi , sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển..”( St 22 : 16-17)
Nhưng đặc biết hơn hết trong thời các Tổ Phụ, sau Đại Hồng Thủy, là Thiên Chúa đã tỏ mình cho ông Mô-Sê qua hình ảnh Bụi gai bốc cháy và từ giữa bụi cây Thiên Chúa đã nói với ông những lời sau đây:
“ Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ap-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-Ác,Thiên Chúa của Gia-cóp..” (Xh 3: 2-6)
Thiên Chúa đã gọi Mô-sê ( Moses) để truyền cho ông sứ mạng dẫn đưa dân Do Thái đang làm nô lệ và thống khổ trên đất Ai Cập trở về quê hương. Đưa họ bằng an trở về , vì Thiên Chúa muốn chọn Israel làm dân riêng của Ngài, như ông Mô-sê đã truyền lại cho dân thánh chỉ sau đây của Thiên Chúa:
“ Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ Giao Ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta.Vì toàn cõi đất là của Ta.Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh.” ( Xh 19: 5-6)
Ngoài các ngôn sứ như Abraham và Môsê ra, Thiên Chúa còn gọi thêm nhiều ngôn sứ khác trong thời Cựu Ước như Joshua, Samuel, Isaiah, Jeremiah, Ezekiel, Daniel…để qua họ, Chúa nói với Dân Israel những điều Người muốn họ nghe và thi hành để được chúc phúc hoặc đe dọa trừng phạt nếu họ bất tuân thánh ý của Chúa và làm những điều sai trái, những sự dữ đáng phải phạt. Chúa đã truyền cho các Ngôn sứ không những phải nói lời của Người cho Dân mà còn phải ghi lại những thánh chỉ của Người cho hậu thế như ngôn sứ Isaia cho biết rõ như sau::
“Bấy giờ trước mặt chúng
Ngươi hãy viết điều ấy trên một tấm bảng và ghi vào hồ sơ
Để lưu lại mai sau làm bằng chứng đến muôn đời.” ( Is 30:8)
Liên quan đến tệ trạng “hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) đang được đòi hỏi và đã được cho phép ở một vài tiểu bang Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới, Thiên Chúa đã phán từ ngàn xưa với ngôn sứ Giê-rê-mia như sau :
Đức Chúa phán thế này :
“ chúng tôi đã nghe tiếng kinh hãi
Báo hiệu khiếp đảm chứ không phải bình an
Cứ hỏi mà xem : có đàn ông nào đẻ con không ? ( Gr 30 : 5-6)
Vậy tạo sao lại cho hai đàn ông hoặc hai đàn bà kết hôn như người ta đang làm hiện nay ở Mỹ, Anh, Canada…? Thật là điều kinh tởm cho con người ngày nay sống trái với luật thiên nhiên , trái với trật tự mà Thiên Chúa đã qui định từ đầu khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho ho : “ hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đát và thống trị mặt đất.( St 1: 28)
Như vậy, cho hai đàn ông hay hai đàn bà lấy nhau thì làm sao sinh sản, hỡi những kẻ mê muội đang nhắm mắt chiều theo đòi hỏi của những người bệnh hoạn tâm sinh lý kia ???Họ bệnh hoạn thì mặc kệ cho họ sống, không cần phải hợp thức hóa cho họ vì làm như thế là đảo lộn trật tự và mục đích của hôn nhân trong xã hội loài người.
Trên đây là một vài thí dụ minh chứng sự kiên Chúa đã tỏ mình hay tự mạc khải mình cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Các Ngôn sứ lớn nhỏ là những phát ngôn viên của Thiên Chúa trong sứ mệnh truyền lại cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ biết và thi hành để được chúc phúc và tránh phải phạt.Các ngôn sứ cũng cầu khẩn Chúa thay cho dân để xin Nguời tha thứ mọi lầm lỗi của họ như ông Mô-sê đã làm khi dân Do Thái còn sống lưu đầy trong sa mạc, sau khi từ Ai Cập trở về :
“Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm cho dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai Cập cho đến đây.” ( Ds 14: 19)
Nhờ lời van xin tha thiết của ông Mô-sê thay cho dân mà Thiên Chúa đã nguôi cơn thịnh nộ định giáng xuống trên dân ngỗ nghịch đó khi Ngài phán với ông :
“Ta tha thứ như lời ngươi xin.” ( Ds 14: 20)
Một thí dụ nữa về việc các ngôn sứ cầu xin Thiên Chúa thay cho dân. Đó là trường hợp con cái Israel nói với ông Samuel: “ xin ông chớ ngưng cầu kêu lên Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi để xin Người cứu chúng tôi khỏi tay người Philitinh.” ( 1 Sm 7: 8)
Ông Samuel đã dâng lễ toàn thiêu và cầu xin thay cho dân theo lời van xin của họ, và họ đã đánh bại quân Philitinh. ( cf. Sm 7: 9-11)
4- Qua Chúa Giêsu-Kitô:
Sau hết, ngoài những phương thế trên đây, đến thời sau cùng, Thiên Chúa đã tỏ mình cách đẩy đủ nhất cho nhân loại qua chính Con Một Người là Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa , Đấng đã sinh xuống trần gian làm Con Người để thi hành Chương Trình Cứu Độ loài người đáng bị phạt vì tội lỗi như ta đọc thấy trong Thư Do Thái sau đây:
“ Thủa xưa , nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ và đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” ( Dt 1 : 1-3)1
Là hình ảnh hay hiện thân trung thực nhất của Chúa Cha, nên Chúa Giêsu đã trả lời môn đệ Philiphê như sau :
“ Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha
Sao anh lại nói : xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha.?” ( Ga 14: 9)
Hoặc rõ hơn nữa:
“ Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy
Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” ( Ga 14:7)
Là hiện thân của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã mạc khải trọn vẹn những gì Chúa Cha muốn nói với con người qua những lời giảng dạy trong suốt 3 năm Người đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nghĩa là : trong và qua Chúa Giêsu-Kitô, Thiên Chúa Cha đã mặc khải trọn vẹn thánh ý của Người cho nhân loại, và không còn nguồn mạc khải nào lớn và đầy đủ hơn nữa cho ai ngoài Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Do đó, ai nghe Chúa Kitô là nghe Chúa Cha, ai biết và đón nhận Chúa Con thì cũng biết và đón nhận Chúa Cha như Chúa Giêsu đã nói thêm với các môn đệ xưa như sau :
“ Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai khước từ anh em là khước từ Thầy;
Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” ( Lc 10: 16)
Như thế, các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô cũng được ơn mạc khải của Thiên Chúa để dạy dỗ trung thực , không sai lầm những gì các ngài đã nghe từ Chúa Giêsu-Kitô và lưu truyền lại cho các người kế vị là các Giám mục trong Giáo Hội của Chúa cho đến ngày nay và mãi về sau.Do đó, nghe Giáo Hội là nghe các Thánh Tông Đồ và nghe các ngài là nghe chính Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, hiện thân của Chúa Cha.
Tóm lại, Thiên Chúa đã tự mạc khải hay tỏ mình ra cho con người từ thời Cựu Ước qua các sứ ngôn đến Tân Ước, đặc biệt là qua chính Chúa Kitô, để con người biết Thiên Chúa là Đấng đầy yêu thương, “ Người có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.” ( Tv 30(29) : 6).
Nói khác đi, chúng ta biết được Thiên Chúa là Cha nhân từ, quá yêu thương và hay tha thứ là nhờ ơn mạc khải mà Thiên Chúa đã tỏ mình trọn vẹn qua Chúa Giêsu-Kitô, Đấng Cứu Thế, đã đến trần gian làm Con Người để thi hành Chương Trình Cứu độ nhân loại của Chúa Cha.Do đó, ai tin và thực hành những lời giảng dạy của Chúa Kitô thì cũng tin va thực hành thánh ý của Chúa Cha để được sống hạnh phúc muôn đời với Chúa trên Nước Trời như Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ Người như sau:
“ không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa,! lậy Chúa ! là được vào nước trời cả đâu; mà chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7: 21)
Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa đã cho chúng ta biết Người là Cha cực tốt cực lành,
Và cầu xin cho những người chưa biết Chúa được nhận biết Ngài là Đấng duy nhất đã vì yêu thương mà tạo dựng con người cùng mọi loài mọi vật, và quan trọng hơn hết, là “ Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 8) để hưởng hạnh phúc Thiên Đàng sau khi chấm dứt hành trình đức tin trên dương thế này.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn