Ngày 15/10: Thánh Têrêsa Avila – Trinh nữ, Tiến sĩ Hội Thánh (1515-1582)
Lễ nhớ buộc
I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thánh nữ Têrêxa Avila qua đời tại Alba de Tormes, Tây Ban Nha, ngày 5 (theo lịch cũ Julien) hay ngày 15 tháng 10 năm 1582, ngày bắt đầu lịch mới Grégoire. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grégoire XV phong thánh năm 1622, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên dương là tiến sĩ Hội Thánh năm 1970.
Têrêxa Giêsu, gọi là Avila (tên Tây Ban Nha là Teresa de Ahumada y Cepeda), sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515 ở Avila (Tây Ban Nha), trong một gia đình quí tộc gồm 8 cậu con trai và 3 cô con gái. Được thấm nhiễm những câu truyện và những bài đọc đạo đức, lúc 8 tuổi, cô bé trốn nhà đến sống “giữa người Maures” với hi vọng được tử đạo để “thấy Thiên Chúa”. Sau khi bị bắt về nhà, cô đã sống những năm hạnh phúc trong gia đình. Rất xinh đẹp và có duyên, cô cũng phần nào thích làm đỏm và vướng vào một chuyện rắc rối ngây thơ với một người anh họ. Bấy giờ – cô khoảng 16 tuổi – cha cô phải gửi cô đến ở nhà dòng thánh Augustine ở Avila; tại đây cô đã có quyết định trở thành nữ tu. Vì thế, sau khi trở về nhà, cô bị cha chống đối ơn gọi, nên cô đã trốn nhà để đi vào dòng Carmel Chúa Nhập Thể ở Avila ngày 2 tháng 11 năm 1537. Tại đây cô đã tuyên khấn trọng thể ngày 3 tháng 11 năm 1537, lúc 22 tuổi.
Tư chất thông minh nhưng sức khoẻ lại yếu kém, chị Têrêxa Giêsu gặp nhiều thử thách nghiêm trọng về sức khỏe; sau này chị nói với cha Diego: “Thưa cha, con nghi ngờ không biết có cơ thể sống nào lại chịu nhiều đau khổ hơn con.” Cũng thế, đời sống thiêng liêng của chị, trong khoảng hai mươi năm, cũng chỉ tỏ ra bình thường không có sự sốt sắng đặc biệt nào, cho tới mùa chay 1554, khi chị đọc quyển Tuyên Xưng (Confessions) của thánh Augustinô và suy ngắm trước hình Chúa chịu đánh đòn, chị đã hoán cải để bước vào một đời sống sốt mến nồng cháy. Từ đó, tình yêu Thiên Chúa của chị sẽ trở thành một “ngọn lửa thiêu đốt”. Sáu năm sau, “thị kiến” hoả ngục làm chị hiểu được giá trị của các linh hồn và mối nguy mất linh hồn. Lúc ấy chị quyết định làm mọi sự để cứu rỗi các linh hồn. Thế là bắt đầu thời kỳ thứ hai của cuộc đời Têrêxa Giêsu. Lúc ấy chị 40 tuổi.
Khao khát sống theo Tin Mừng hơn, và nhận thấy sự lỏng lẻo về kỷ luật tu trì trong tu viện của chị cũng như trong các tu viện khác của dòng Carmel, chị quyết định hiến mình cho việc cải cách Dòng. Được thánh Phêrô Alcantara và thánh Phanxicô Borgia nâng đỡ, năm 1562, chị Têrêxa lập tu viện cải cách đầu tiên của các chị dòng Carmel “đi chân không”, tu viện Thánh Giuse ở Avila. Tại đây, các nữ tu nghiêm ngặt tuân giữ bộ Luật Dòng Carmel nguyên thuỷ. Các ơn gọi tăng nhanh và sự sốt sáng của các chị em thật cao vời. Vài năm sau, năm 1567, chị được phép của Bề trên tổng quyền Carmel thiết lập thêm những tu viện cải cách khác. Thế là chị Têrêxa Giêsu bắt đầu một đời sống kỳ diệu, hầu như luôn luôn hành trình trong sự thiếu tiện nghi và nguy hiểm. Năm 1571, chị trở về làm bề trên tu viện Chúa Nhập Thể ở Avila (1571-1574) và tổ chức công cuộc cải cách ở đây, với sự trợ giúp của thánh Gioan Thánh Giá. Sau đó chị lại tiếp tục các cuộc hành trình để mở những tu viện mới. Năm 1567, bề trên tổng quyền dòng Carmel cho phép chị Têrêxa Giêsu lập những tu viện cải cách cho nam giới; chị trao nhiệm vụ này cho thánh Gioan Thánh Giá, cha giải tội của chị từ 1572 đến 1577. Như thế, đến khi chị mất năm 1582, chị đã lập được 16 tu viện nữ và 14 tu viện nam.
Thánh Têrêxa Avila đã để lại cho chúng ta một kho văn chương vô cùng phong phú, có giá trị tuyệt vời. Các tác phẩm của thánh nữ được xếp theo trình tự thời gian gồm: Sách cuộc đời (tiểu sử tự thuật); Con đường hoàn thiện; Các tư tưởng về Tình yêu Thiên Chúa; Các lời cảm thán; Hiến pháp Dòng; Lập các tu viện; Cách thức kinh lý tu viện; Lâu đài nội tâm hay Bảy nơi cư trú của linh hồn (hành trình của ân sủng trong bảy nơi cư trú của linh hồn); Các lời khuyên; Các tư tưởng và các bản văn ngắn khác; Các vần thơ; Thư từ (khoảng 650 lá thư). Tính cách của thánh Têrêxa Avila được phản ánh trong các tác phẩm của ngài mà ngày nay vẫn còn sức hấp dẫn đối với các tín hữu và người ngoại đạo. Những tác phẩm nay tạo cho thánh Têrêxa Giêsu một chỗ đứng độc đáo, không những trong lãnh vực tôn giáo, mà cả trong lãnh vực văn chương miền Castille và thế giới.
II. Thông điệp và tính thời sự
Những bản văn phụng vụ làm nổi bật những đặc điểm khoa linh đạo của thánh nữ Têrêxa.
Lời Nguyện của ngày gợi ra “con đường hoàn thiện” mà thánh nữ đã vạch ra cho Hội Thánh qua những tác phẩm và gương sáng của ngài, cũng như “học thuyết thiêng liêng của ngài” khiến ngài nhận được danh hiệu “tiến sĩ Hội Thánh”.
Theo thánh Têrêxa, thực sự Thiên Chúa là tất cả, nhưng loài người trong sự hư vô của mình không thể nào đạt tới Thiên Chúa nếu không có Chúa Kitô, “Đấng ban mọi điều lành cho chúng ta.” Chỉ mình ngài làm chúng ta nhận biết Thiên Chúa và chỉ mình Người cho chúng ta gặp được Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì Chúa Giêsu là “Người bạn và Người lãnh đạo tốt lành”, “Người bạn chân thực”. “Hãy nhìn ngắm cuộc đời Người, đó là mẫu mực hoàn hảo nhất.” “Thiên Chúa muốn chúng ta nhận được mọi sự nhờ bản tính nhân-thần này . . . và chúng ta phải vào qua cửa này nếu chúng ta muốn Thiên Chúa uy linh mạc khải những bí nhiệm vĩ đại của Người.” (Tiểu sử).
Nếu Thiên Chúa là viên đá chóp đỉnh của học thuyết thiêng liêng của thánh Têrêxa Giêsu, thì kinh nguyện là từ chủ chốt. Thánh nữ mô tả kinh nguyện như “một mối quan hệ tình bạn thân thiết nhờ đó một mình nói chuyện với Thiên Chúa mà chúng ta biết mình được Người yêu thương” (Tiểu sử). Lời cầu nguyện lấy chất liệu từ trong Tin Mừng, và theo thánh nhân nói, “những lời Tin Mừng luôn làm tâm hồn tôi lắng đọng hơn mọi cuốn sách tuyệt nhất” (Con Đường . . . ), và kinh nguyện cũng đòi hỏi những điều kiện thích hợp: thanh vắng, thinh lặng, nghèo khó, v. v… Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn kết hợp với Thiên Chúa trong thanh vắng và qua kinh nguyện, thì không phải vì một mục đích ích kỷ, mà phải vì vinh quang Thiên Chúa, vì muốn đem Chúa đến cho người khác, nói với Chúa về người khác. Mối quan tâm đến các linh hồn luôn hiện diện trong tâm trí thánh Têrêxa, khiến thánh nữ từng nói sẵn sàng hy sinh cả ngàn lần đời mình–nếu ngài có–để cứu dù chỉ một linh hồn. Chính vì thế thánh nữ đã viết, các nữ tu Carmel đi chân không của tư tưởng viện thánh Giuse đã “khấn hứa cầu nguyện cho các vị bảo vệ Hội Thánh, các nhà giảng thuyết và các nhà thần học.” (Con đường): “Kinh nguyện của những người phụng sự Thiên Chúa có tác động rất lớn” (Tiểu sử).
Lời Nguyện trên lễ vật bộc lộ rõ “quả tim hoàn toàn dâng hiến (cho Thiên Chúa)”của thánh Têrêxa. Không ngừng trò chuyện với Thiên Chúa, thánh nhân thường xuyên được lôi cuốn vào trạng thái xuất thần. Thậm chí ngài còn được in năm dấu thánh, như ngài kể trong Tiểu sử (29, 13) và đã được nhà điêu khắc Bernin tạc thành tác phẩm tuyệt vời bằng đá cẩm thạch (Thánh đường Đức Mẹ Chiến Thắng, Rôma). Tuy nhiên, thánh Têrêxa Giêsu không bao giờ cho rằng sự thánh thiện hệ tại những hiện tượng phi thường. Bản thân ngài “hoàn toàn cháy lửa mến Chúa nồng nàn”, thánh nữ khuyên dạy các chị em tu sĩ của mình đâu là điều cốt yếu của sự thánh thiện: “Ai có Thiên Chúa thì không thiếu sự gì: Thiên Chúa là đủ cho họ. Mọi của cải của chúng ta là ở việc chu toàn thánh ý Chúa … Là con người thiêng liêng đích thực, các chị em có hiểu điều đó nghĩa là gì không ? Đó là làm những nữ tỳ của Thiên Chúa.”
Với Lời Nguyện sau hiệp lễ, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta có thể ca hát tình thương Chúa đến muôn đời, giống như thánh nữ Têrêxa Avila.
Cả cuộc đời, nhất là sau “cuộc hoán cải”, thánh nữ giống như bị thiêu đốt vì lòng khao khát Thiên Chúa. Ca Nhập lễ (Như con nai khao khát nước sự sống . . . ), và thánh thi của Giờ Kinh Sách diễn tả niềm khao khát vĩnh cửu: “Chết vì không được chết / luôn luôn đeo đuổi ngài / đến nơi ở thứ bảy / tâm điểm của linh hồn / và ngài đến loan báo / Tình yêu gọi chúng ta.”
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêxa bộc lộ niềm khao khát Thiên Chúa bằng những lời đầy cảm hứng và nồng cháy: “Lạy Chúa và Hôn phu của con, giờ mong đợi đã đến. Đây là lúc chúng ta hội ngộ. Người Yêu của con, Chúa của con, đã đến giờ ra đi. Giờ đã đến. Xin cho ý Chúa thể hiện. Vâng, đã đến giờ con từ bỏ cõi lưu đày này và là giờ hồn con vui hưởng Chúa, Đấng con hằng khao khát.”
Thánh nữ Têrêxa ra đi về nhà Hôn phu, “khuôn mặt bừng cháy như mặt trời”. Ngài đã linh cảm được giây phút này và tả lại nó trong một tác phẩm của mình: “Con bướm vàng bé nhỏ đã chết trong niềm vui mênh mang là tìm thấy nơi an nghỉ, và Chúa Kitô sống trong nó . . . Nguyện cho Người được mọi tạo vật chúc tụng và tán dương đến muôn đời.” (Lâu Đài . . . VIII Dem. 3, 1 và 15).
Enzo Lodi