Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT MÙA PHỤC SINH NĂM ABC

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT MÙA PHỤC SINH NĂM ABC

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, csf

CHÚA NHẬT PHỤC SINH- LỄ ĐÊM & LỄ CHÍNH NGÀY

(Chung cho các Chúa nhật II & III và chung cho tất cả các năm ABC)

  1. CANH THỨC VƯỢT QUA/VỌNG PHỤC SINH

 

  1. Đêm Hồng Ân– Đêm Mẹ của mọi Đêm- Đêm Vượt Qua

Đêm nay là đêm hồng phúc. Đêm chiến thắng tử thần. Chúa Giêsu đã đánh bại thần chết. Đêm nay, cộng đoàn Kitô hữu trước tiên nghe đọc Lời Chúa để ôn lại tất cả lịch sử cứu độ, từ buổi khai thiên lập địa và việc dân Israel ra đi khỏi đất Ai Cập, cho đến việc Chúa Giêsu sống lại và được tôn vinh trên trời. Trong khi nghe đọc Sách Thánh, cộng đoàn được Nến Phục Sinh soi sáng: Nến này tượng trưng đám mây sáng xưa đã dẫn dân Israel trên đường về đất hứa, và đặc biệt tượng trưng Chúa Kitô, là ánh sáng soi thế giới.

Đêm nay gợi lại lần dân Do-thái ra khỏi Ai-cập giữa đêm khuya, dưới sự hướng dẫn của Mô-sê. Chúng ta có thể tưởng tượng họ rầm rập bước đi làm sao, họ phở lở trong lòng như thế nào. Họ cảm kích trước điều Thiên Chúa thực hiện trước mắt họ ra sao, nhất là khi trông thấy xác quân Ai-cập nổi lềnh bềnh trên Biển Đỏ, như đoạn sách Xuất Hành kể lại. Nhưng chúng ta đang cử hành Cuộc Vượt Qua mới do Đức Ki-tô thực hiện cho cả nhân loại, còn kỳ diệu và lớn lao hơn gấp bội, bởi vì nó chứng tỏ tình thương cao vời và quyền phép khôn lường của Thiên Chúa và vô cùng hữu ích cho đời làm người của ta. Người vừa thi thố tình Cha một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết, vừa lật ngược tình thế một cách tài tình, qua việc xây dựng lại những gì đổ vỡ, đổi mới những gì cũ kỹ, thậm chí biến sự tội thành hồng phúc. Điều đáng mừng là ta đã có được diễm phúc này từ khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, tuy bề ngoài giống như những người khác, nhưng ta đã thuộc về doàn người Xuất Hành, cùng với Đức Ki-tô ra khỏi cõi chết, đặt chân vào cõi sống. Nhờ ơn Chúa giúp và với sự cộng tác phía ta, hiệu quả của cuộc Vượt Qua mới đã ngày càng được phát huy nơi ta. Là Môsê mới, Đức Giêsu dẫn đưa chúng ta vượt qua kiếp nô lệ tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ quyền năng Thánh Thần của Người.

Nghi lễ đêm nay gọi là lễ canh thức PS hay nghi thức vọng PS. Mặc dù gọi như vậy, nhưng đây là nghi lễ chính: suy tôn ĐKT PS. Đây là phụng vụ trung tâm của cả một năm. Tất cả những thánh lễ khác, kể cả sáng mai (sáng CN PS) đều hướng về đây hoặc dựa vào đây và chỉ là tiếp tục cuộc lễ của đêm thánh này. Như vậy, canh thức PS không phải là lễ thứ 7 Tuần thánh. Đó là lễ PS, là một cuộc suy tôn đặc biệt, là lễ tạ ơn và chính yếu trong toàn bộ mùa PS

Ngày trọng đại, vui mừng, mang nhiều ý nghĩa nhất của Kitô Giáo đó là ngày đại lễ Phục Sinh hôm nay. Nếu như Chúa không sống lại từ cõi chết hôm nay, tất cả nền tảng đức tin của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, vô ý nghĩa và cuộc khổ nạn, bị đóng đinh vào thập giá của Chúa Kitô, trở thành một tin buồn khủng khiếp, chứ không phải là Tin Mừng.

Biến cố Phục Sinh là niềm vui của sự sống mới, là sự chiến thắng vĩnh viễn trên thần chết – kẻ thù cuối cùng, và như thế là niềm vui lớn nhất của người tín hữu.

Chúng ta vui mừng, chúc tụng ngợi khen Chúa: Alleluia= Allelu: Hãy ngợi khen, Ya= Giave. Đây là tâm tình chúng ta phải có trong suốt cuộc đời chúng ta. Ngợi khen, tạ ơn vì Chúa đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, vì chúng ta sẽ được cùng chết và sống lại với Chúa.

Đêm canh thức nhắc lại việc Thiên Chúa đưa dân của Người ra khỏi Ai Cập và cũng là đêm Thiên Chúa đưa dân Người ra khỏi thân phận nô lệ tội lỗi. Đêm diễm phúc, đêm của mọi đêm báo trước ngày hừng sáng, Thiên Chúa vì yêu thương loài người đã tự phó nộp chính Con Duy Nhất của Người làm giá chuộc tội chúng ta. Đêm canh thức phục sinh như có một cái gì đó rất hồi hộp nhưng cũng rất vui tươi, phấn khởi và hạnh phúc. Hồi hộp vì trước ngôi mộ trống, trước sự ngạc nhiên của các người phụ nữ đạo đức, các tông đồ và mọi người đều chưa tin. Và, đứng trước sự kiện ấy mọi người đều mệt mỏi, không hiểu chuyện gì sẽ xẩy ra. Vâng, đêm canh thức như đánh thức mọi người, như thúc giục mọi người hãy mau mắn đi tới ngôi mộ trống để nhìn cho ra Con Thiên Chúa phục sinh.

  1. Biến cố Vượt Qua- Xh 12,1-14.

Để chuẩn bị lên đường, toàn dân Do-Thái đêm ấy mỗi nhà tự giết một con chiên hoặc cùng chung phần với một gia đình hàng xóm để cùng nhau giết một con chiên đực duới một tuổi để làm hy lễ dâng kính Chúa, xin ơn bình an trước khi lên đường vượt biên về Đất Hứa. Trong đêm Vượt qua, cần lưu ý đến hai chi tiết liên quan đến máu: 1) Máu chiên được bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt sẽ ăn ngay trong đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng (x. cc7-8); và 2) Khi thấy máu [bôi trên khung cửa], Đức Chúa sẽ Vượt Qua, nhà ấy không bị tai ương tiêu diệt khi Người giáng hoạ trên đất Ai cập (x. cc 12-14).
Khi dùng bữa Vượt qua cuối cùng với các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc Khổ nạn và Phục sinh, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Người đã biến bánh thành Mình Người và rượu thành Máu Người, với mục đích là “Máu Giao ước, đổ ra vì nhiều người” (x. Mc 14,22.24). Qua lời của Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết rằng Người thiết lập Giao ước mới bằng chính hy tế cuộc sống Người và vì muôn người. Đức Giêsu Kitô đã không tìm kiếm một vật hiến tế nào để thay thế, mà Người đã tự hiến dâng chính bản thân, trải qua đau khổ thập giá và sự chết một lần thôi, để làm của lễ Giao ước vĩnh cửu, hầu cho muôn người được sống đời đời. Ở đây, Chúa Giêsu chính là lễ Vượt Qua mới và là của lễ toàn thiêu mới, thay thế cho giao ước cũ và hy lễ cũ. Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, nhờ Người chúng ta mới được cứu độ. Như thế, toàn bộ con người, tình yêu, Mình và Máu Chúa Kitô chính là cốt lõi của Giao Ước mới. 

Bây giờ nhìn lại biến cố Vượt Qua nầy của người Do-Thái chúng ta mới thấy rõ Giavê Thiên Chúa đã quan phòng tuyệt diệu qúa. Đêm đó toàn dân Do Thái ăn mừng vội vã và cũng vội vã làm lễ-xuất phát rời khỏi Ai Cập ngay cho kịp thời gian. Họ nhắm hướng Biển Đỏ mà nhanh bước. Trong cuộc bôn hành ấy của toàn dân Do-Thái luôn có thiên sứ của Giavê đi trước dẫn đường hay khi cần thì lùi lại phiá sau để bảo vệ dân. Khi Quốc vương và chính phủ Ai Cập nhận ra thâm ý, liền ra lệnh cho quân đội hành quân truy đuổi dân Do-Thái, nhưng không còn kịp nữa. Khi quân đội hoàng-gia Ai Cập đến được bờ bên nầy của Biển Đỏ thì toàn dân Do-Thái đã vuợt biên an toàn sang bờ bên kia. Đêm ấy, toàn dân Do-Thái trong niềm tin tưởng và phó thác vào Giavê Thiên Chúa, theo thiên sứ dẫn lộ, đã Vượt Qua Biển Đỏ ráo chân. Quân đội Hoàng gia Ai Cập theo đường mòn trước mắt của người Do-Thái, họ lao vào Biển Đỏ, nhưng với thái độ trịch thượng, óc thống trị nên toàn quân đã bị nhận chìm và bỏ xác trong lòng Biển Đỏ.

Cũng chính đêm nay, ĐKT đã bẻ gãy xiềng xích sự chết và đã từ ngục hình tối tăm chỗi dậy, tiến lên, Vuợt Qua cõi chết mà sống lại trong vinh quang. Qủa thế, đêm nay nhờ máu Chúa Kitô (con chiên bị sát tế trên thập giá) loài người Vượt Qua biển sâu tội lỗi và sự chết, bắt đầu đặt chân lên con đường lữ hành mới của đức tin, của niềm hy vọng để bôn-hành đi về Đất Hứa đời đời mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những ai tôn thờ Ngài và tình nguyện chết đi cho những thói hư nết xấu, cho tội lỗi mỗi ngày.

  1. Lửa mới và Nến Phục Sinh – Tượng trưng chính Chúa Kitô, ánh sáng của nhân loại. Cả nhân loại trong màn đêm tăm tối, bây giờ đã chiếu lên một ánh sáng, đó là “Ánh sáng Chúa Kitô”.

Trong thánh lễ đêm canh thức, cây nến phục sinh được đề cao. Cây nến phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô sống lại vì trong bóng đêm âm u, cây nến phục sinh được thắp sáng, rồi được rước lên cung thánh, được xông hương và được đặt ở một chỗ thật trang nghiêm, thật trịnh trọng. Lửa cây nến phục sinh được thắp cho mọi cây nến trong nhà thờ, mọi ánh sáng được phát xuất bởi một nguồn là cây nến phục sinh. Do đó, ánh sáng của nến phục sinh và các cây nến nhỏ được thắp lên toả sáng giữa tối tăm âm u, tượng trưng cho Đức Kitô đã ra khỏi cõi chết để mang ơn cứu độ cho mọi người. Ngọn lửa của Đức Kitô là ngọn lửa không bao giờ tắt. Ngọn lửa vĩnh cửu thắp mãi trong đời. Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, Ngài là ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt.

  1. Hãy Mừng Vui Lên!

Hãy hân hoan trong đêm hồng phúc này, như lời tụng ca Exsultet vang lên trong đêm Thiên Chúa giải thoát. Thiên Chúa vì quá yêu thương loài người, tội lỗi, quyền lực tăm tối bị đẩy lui. Thiên Chúa vì yêu thương loài người đã tự phó nộp chính Con Duy Nhất của Người làm giá chuộc tội chúng ta. Trong đêm Vượt Qua, người Kitô hữu được nếm trước niềm vui của thành Giêrusalem trên trời. Vì thế, đêm nay vang dội tiếng hát “Allêluia”.

Hãy hân hoan, hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta. Hãy kín múc tận nguồn ân sủng, hãy bước đi trong ánh sáng vì ngày mới đã xuất hiện. Hãy Vui lên và reo hò lên mừng Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Hãy tán tụng bằng tất cả các âm điệu của trần thế, bằng tất cả những hỷ hoan trong ngày Chúa đoái thương, bằng những nhạc điệu trầm bổng và những Thánh Ca cùng Thánh Vịnh. Mừng vui lên !

 “Mừng vui lên” hỡi anh chị em, vì ánh sáng Chúa Kitô đang xé tan màn đêm của tà thần tội lỗi. “Mừng vui lên” vì Chúa đã sống lại vinh quang, khởi đầu cho cuộc sống mới. Hãy vui mừng luôn trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta.

Hãy cảm tạ Chúa, Đấng đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Kitô. Ngày hôm nay không còn việc sầu thương khóc lóc nữa. Ngày hôm nay là thời giờ để vui mừng và tạ ơn.   Ngày hôm nay, chúng ta đã bắt đầu được chia sẻ cuộc chiến thắng quyết định của Phụng vụ đêm nay đã tràn ngập lời Ha-lê-lu-ia ca tụng Thiên Chúa và tri ân cảm tạ Ngài : “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, và chính trong bài ca Exultet Mẹ Hội Thánh đã long trọng thốt lên: Thật là chính đáng và phải đạo khi chúng ta đem hết tâm hồn và muôn lời hoan hỷ để ca tụng Thiên Chúa vô hình là Cha Toàn Năng, và ca tụng Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa, và là Chúa chúng ta. Người đã thay chúng ta dâng lên Cha hằng hữu giá chuộc tội A-đam”.

Chúa Kitô, và mang lấy trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng này với mọi người. Sự Phục sinh làm biến đổi cách chúng ta nhìn về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không còn thất vọng khi phải đương đầu với thử thách và đau khổ nữa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy trước với niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang mà các thánh sẽ lãnh nhận trong ngày tận thế.

 “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu  Cho anh em dõi bước theo Người.  Người không hề phạm tội;  chẳng ai thấy miệng Người   nói một lời gian dối.  Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại,   chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;  nhưng một bề phó thác  cho Đấng xét xử công bình.  Tội lỗi của chúng ta,  chính Người đã mang vào thân thể  mà đưa lên cây thập giá,  để một khi đã chết đối với tội,  chúng ta sống cuộc đời công chính.  Vì Người phải mang những vết thương  mà anh em đã được chữa lành.” (1Pr 2,21-24)

Thánh Phaolô đã diễn tả sự chiến thắng của Đức Kitô như sau: Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết. Ngài sẽ không còn chết nữa và sự chết không còn quyền hành gì trên Ngài nữa. Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu ? Hỡi sự chết, sức mạnh của ngươi ở đâu ? Kể từ nay với Đức Kitô Phục sinh, dù chúng ta vẫn còn phải chết, nhưng cái chết không còn là một trạm cuối cùng để chấm dứt mọi sự, nhưng là một bước đi dứt khoát, để nhờ đó chúng ta được tiến vào vùng ánh sáng, được tiến vào cõi sống đời đời. Vì chúng ta đã được ghép, đã được tháp vào Đức Kitô. Hạt giống của sự sống vĩnh cửu đã được gieo trồng nơi con người chúng ta. Từ đó những tháng ngày hiện tại sẽ ngập tràn hy vọng, bởi vì cuộc đời chúng ta đang được dấu ấn trong Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, nó sẽ nẩy mầm, đâm bông và kết trái trong ngày sống lại, khi Đức Kitô ngự đến trong vinh quang. 

  1. Tội và ân sủng

Bài ca Exultets: “Ôi kỳ diệu thay, lòng Cha yêu thương đoàn con, nào ai hiểu thấu, để cứu kẻ nô lệ Cha đã nộp chính Ngôi Con. Ôi tội A-dam thật là cần thiết, tội đã được xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Kitô. Ôi tội đã hóa thành hồng phúc vì nhờ đó mà chúng con có được Đấng Cứu Chuộc cao sang. Ôi đêm thật diễm phúc, vì chỉ mình ngươi xứng đáng biết được thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh…”

Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên và khó hiểu khi nghe nhắc đến cụm từ “tội hồng phúc”. Sẽ là một nghịch lý nếu ta chỉ tham chiếu “tội” vào thực tế của đời sống tự nhiên. Vì thông thường, cái “tội” hay đi với hậu quả là “cái họa” với mức độ do những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, Đức tin Kitô giáo đã giúp ta khám phá sâu xa mối tương quan giữa tội và ân sủng. Trước tình yêu Thiên Chúa, chúng ta không thể là con người hoàn toàn xấu xa nhưng đang được bao bọc bởi lòng tha thứ và được biến đổi trở nên giống Đấng đã tận hiến cho sự sống của ta, vì “Chúa Cha yêu thương ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1Ga 3, 1). Chính nhờ ân sủng, con người mới có thể cải thiện tình trạng sa sút trong đời sống luân lý thường nhật và hy vọng đạt tới “hồng phúc” cứu độ viên mãn. Vấn đề là chúng ta biết đón nhận hồng phúc  được trao ban ấy với thái độ nào.

Do tội, con người đánh mất tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, tự tước bỏ ân sủng mà Người đã trao ban, dẫn tới tình trạng xáo trộn của bản tính con người, đặc biệt là sự hỗn loạn của ước muốn. Con người chỉ có thể nối lại tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa nhờ ân sủng của Người qua cái chết và cuộc Phục Sinh kỳ diệu của Đức Kitô. Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ điều này trong thư 1Cr 1, 30: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu chuộc chúng ta”. Nhờ ân sủng, chúng ta can đảm khước từ những nổi loạn bởi đam mê tội lỗi, để khôn ngoan bước đi trong đường lối Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương dẫn dắt ta đến chung hưởng hạnh phúc với Người. Nhờ ân sủng, chúng ta nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa có sức mạnh vượt trên tất cả và biến đổi tất cả những tà ố có nguy cơ làm hư hoại mầm sống thiêng linh đã được gieo cấy trong ta. Nhờ ân sủng, dấu vết tội nguyên xưa nơi ta được tẩy trừ, bản chất hư hèn nơi ta được thánh hóa để trở nên hoàn thiện cùng với Đấng đã tự hiến cho phẩm giá của ta.

Nếu những trang đầu của Kinh Thánh cho thấy tình trạng bất toàn của con người sa ngã phạm tội, thì sợi chỉ đỏ xuyên suốt Kinh Thánh là sự yêu thương săn sóc của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua tương quan ân sủng. Đức Kitô đã đến trong thân phận phàm nhân, cảm thông với đau khổ của kiếp nhân sinh và đã vực dậy nhân loại khỏi tình trạng tội lỗi của nó. Nhờ quyền năng, tình thương của Người, chúng ta được giải thoát khỏi ranh giới nô lệ tà thần và bước vào miền ánh sáng bất diệt của sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu.

Khi xét tương quan giữa tội và ân sủng, chúng ta hiểu được giá trị của giá máu cứu độ mà Đức Kitô đã mang lại cho con người nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh vinh hiển. Đây chính là lý do khiến tội A-đam trở thành “tội hồng phúc”.

Đêm vọng Phục Sinh, tâm tình hoan ca “tội hồng phúc” chính là niềm hoan lạc của tội nhân được cứu độ và được nối lại dây thân tình với Thiên Chúa. Chính lòng nhân từ của Thiên Chúa đã khai mở cho chúng ta con đường tự do đích thực để trở về với nguồn phúc ân thuở ban đầu.  Ân sủng đã đem lại cho ta nguồn sống kỳ diệu để trổ đơm nhiều hoa thơm thánh thiện do bởi tình thương của Thiên Chúa. Mang thân phận tội nhân, chúng ta ý thức được “hồng phúc” cứu độ trọng đại đã lan tỏa và tiếp sức cho ta trong những lúc nghi nan, thất vọng, đã khích lệ và mời gọi ta vươn tới chân trời tự do đúng nghĩa trong chức phận làm con Chúa. Khi mang “tội” trong mình, con người bị quyền lực sự chết thống trị, bị tước đoạt ơn thánh để nên trọn hảo. Nhờ quyền lực của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta được nhận lại sức mạnh thần nhiệm trên hành trình biến đổi nên công chính trong nguồn sống mới không bao giờ hư nát.

Khi cất lên lời ca “Tội hồng phúc !”, chúng ta bày tỏ tâm tình cảm tạ và ngợi ca công trình kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi bản thân mỗi người chúng ta qua Đức Kitô Phục Sinh. Cũng như Thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Nhưng để thực hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim chúng ta và làm cho chúng ta “nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 21).

“Hồng phúc” cho chúng ta, vì bến bờ hạnh phúc đã tỏ hiện trong bình minh của sáng Phục Sinh. “Hồng phúc” cho chúng ta, vì sức mạnh của Thập Giá đã trở nên vô địch bởi Đấng “đã yêu mến những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, thì Người yêu mến họ đến cùng” (Ga 13, 1b). “Hồng phúc” cho chúng ta, vì thân phận tội lỗi đã được biến đổi trong Máu Nước của Con Chiên vô tì vết. Nhờ Ánh Sáng của sự sống mới nơi Đức Kitô chiếu dọi vào tâm trí, chúng ta không thất vọng trước tình trạng tội lỗi của mình, nhưng biết phó thác cho lượng từ bi hải hà của Thiên Chúa, Đấng đã không ngại ban Con Một để cứu chuộc chúng ta.

“Tội hồng phúc”! Quả là không nghịch lý khi ta cảm nghiệm giá trị của ân sủng đã phục hồi và tái sinh chúng ta từ tình trạng tội lỗi đớn hèn trở nên nhân vị cao thượng, được tháp nhập vào thế giới siêu nhiên, cùng dự phần hạnh phúc vô tận với Đấng Toàn Năng.

Dẫu là tội nhân, nhưng ta luôn sống hy vọng, “vì đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6, 5 – 6).

“Ôi! Tội hồng phúc. Vì đã đáng được Ðấng Cứu Chuộc cao sang như thế!” Con cái Adong “đã đáng được Ðấng Cứu Chuộc cao sang” từ trời hạ mình xuống, mang lấy thân phận xác phàm, sống kiếp con người và chịu chết đền thay tội lỗi. Ðiều xem ra như bất hạnh lại trở thành niềm vui mừng, hạnh phúc nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu.

 Ôi lòng thương xót bao la cuả Thiên Chúa không sao hiểu được. Ôi tội hồng phúc!

Chính vì thế, Hội Thánh cử hành Đêm cực thánh nầy luôn luôn với tâm tình tri ân cảm tạ, cảm tạ tình thương cứu độ bao la của Thiên Chúa, cảm tạ cuộc Tử nạn hồng phúc và phục sinh vinh quang của Đức Kitô, vì chính nhờ biến cố lạ lùng nầy mà tất cả chúng ta được lãnh nhân hồng ân cứu rỗi, được thoát vòng nô lệ tội lỗi và sự chết để tiến vào cuộc sống của con cái trong Vương quốc vĩnh hằng.

  1. Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội: Khi lãnh nhận phép rửa, tín hữu được tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (GLGHCG, số1262). Đúng là cuộc Vượt Qua mới  đã đời đời thay đổi số phận đen tối của nhân loại, dẫn đưa ta từ miền thâm u cõi chết sang miền đất đầy tràn ánh sáng và sự sống. Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không ?

Đêm nay, chúng ta công khai và tự nguyện nhắc lại lời tuyên xưng khi chịu phép Thanh tẩy. Tin nhận Thiên Chúa là Cha, tin nhận Đức Giêsu Kitô đã giáng trần để cứu chuộc nhân loại hầu đưa con người trở lại làm con của Thiên Chúa, tin nhận Chúa Thánh Thần, đấng bảo trợ, nâng đỡ đời sống đức tin cho ta, tin nhận Hội Thánh Công giáo duy nhất và tông truyền, tin nhận con người sẽ sống lại với sự sống bất diệt.  Lặp lại lời tuyên xưng khi chịu Phép rửa: cùng chết với Chúa (chết đi cho con người tội lỗi) để được PS với người.

Đức Giê-su phục sinh đã dùng Bí Tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng ta vào thân thể Người, để chúng ta được nên một với Người, như cành nho tháp vào thân nho, nhờ đó Người chuyển thông sức sống thần linh của Người cho chúng ta. Giáo lý Hội Thánh ghi rõ điều nầy: “Bí Tích Thánh Tẩy làm cho ta trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giê-su” (GLHTCG số 1267). Thế là từ đây, máu của Chúa Giê-su lưu chảy trong huyết mạch chúng ta; giờ đây sự sống của Chúa đang được thông truyền cho chúng ta. Đây là ơn huệ vô cùng lớn lao và quý báu do Đức Giê-su phục sinh mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy vui mừng hân hoan! Chúng ta vui mừng hân hoan vì tuy chỉ là loại thụ tạo hèn kém, là những người tội lỗi đáng chết, thế mà Thiên Chúa đã thương đến thân phận khốn hèn của chúng ta, Người đã nâng chúng ta lên, cho chúng ta được kết hợp với Người, được trở nên chi thể, nên thân mình của Chúa Giê-su. Thế là chúng ta đang mang sự sống của Thiên Chúa trong con người chúng ta và nhờ đó chúng ta sẽ được sống đời đời. Nhưng muốn có được ơn huệ quý báu nầy, chúng ta phải gắn bó bền chặt với Chúa Giê-su như cành liền cây. Khi phạm tội trọng, chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa, chúng ta không còn là chi thể của Chúa nữa do đó sự sống của Thiên Chúa không thể chuyển thông cho chúng ta được. Thật là một tổn thất rất lớn lao.

Biến Cố Chúa Phục Sinh là “bước nhảy vọt” về phẩm chất trong lịch sử “tiến hoá”, là bước nhảy vọt của sự sống nói chung, tiến đến sự sống mới trong tương lai, tiến đến một thế giới mới; thế giới mới này, khởi sự từ Chúa Kitô, đã bắt đầu thấm nhập liên lỉ vào trong thế giới chúng ta đang sống, biến đổi thế giới này và lôi kéo thế giới này đến với thế giới mới. Nhưng thử hỏi làm sao điều này có thể xảy ra? Làm sao điều này thật sự xảy ra cho tôi và lôi kéo đời sống tôi đến với biến cố (Chúa Phục Sinh) và lôi kéo đời sống tôi lên cao? Biến cố Chúa Phục Sinh đến với tôi nhờ qua đức tin và bí tích Rửa Tội. Vì thế, bí tích Rửa Tội là thành phần của nghi thức Vọng Phục Sinh, như được nhấn mạnh trong buổi cử hành Vọng Phục Sinh này. Bí Tích Rửa Tội là thật sự Chết và Sống Lại, là sinh ra lại, là biến đổi thành sự sống mới.

Nhưng làm sao chúng ta có thể hiểu được điều này? Không còn là tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Tôi sống, nhưng không còn là tôi nữa. Cái “Tôi”, cái “căn cước thiết yếu” của con người đã được thay đổi. Câu nói của thánh Phaolô, như vừa trích lại trên đây, nói lên điều đã xảy ra trong bí tích Rửa Tội. Cái “Tôi” bị cất lấy đi khỏi con người tôi và được nhập vào trong một chủ thể mới và cao trọng hơn. Ðiều này có nghĩa là cái “Tôi” được ban lại cho tôi, nhưng đây là cái “Tôi” đã được biến đổi rồi, được bẻ ra, được mở ra, nhờ qua việc được tháp nhập vào trong chủ thể khác, trong đó “Tôi” có được sự hiện hữu mới.

Đổi mới bằng cách cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong ĐKT: “Hay anh em không biết rằng: hết thảy ta được Thanh Tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta được Thanh Tẩy? Vậy nhờ Thanh Tẩy, ta được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 3-4) Chúa Kitô đang thật sự “phục sinh con người tôi”, trái tim tôi, tư tưởng tôi, và biến tôi nên một con người mới. Ngài đang phục sinh cuộc sống vốn ích kỷ nhỏ nhen, lọc lừa gian dối nơi tôi thành một tâm hồn quảng đại khoan dung biết sẻ chia và phục vụ.

  1. Chúa đã Phục sinh:
  2. Lời Chúa

– Tin Mừng:

+ Trong chúa nhật thứ hai phục sinh, Chúa Giêsu hiện diện cách sống động giữa các tông đồ như chúa nhật phục sinh. Đây là ý nghĩa của ngày chúa nhật: ngày Chúa sống lại, và hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu hiệp nhất trong việc cử hành Lời Chúa và Thánh Thể. Ngài làm sáng tỏ ý nghĩa của Thánh Kinh, hướng dẫn kinh nghiệm (như Thánh Tôma) của sự phục sinh trao ban bình an.

Chúa nhật thứ ba tiếp tục cho thấy ý nghĩa của đại lễ Phục Sinh, là “ngày thứ nhất trong tuần”. Chúa Giêsu tỏ lộ mình trong việc bẻ bánh (năm A), trong việc cụ thể của việc ăn uống trong đời sống thường nhật (năm B) và trong việc chuẩn bị bữa ăn cho những ai thả lưới theo lời của Ngài (năm C).

Trong chúa nhật thứ bốn, Chúa Giêsu tỏ lộ chính mình là Thiên Chúa và là mục tử, Đấng lên tiếng và lắng nghe và gọi các con chiên của mình (năm A), cứu vớt chúng (năm B) và hy sinh mạng sống mình cho chúng (năm C). Ngày cầu nguyện cho ơn gọi được cử hành trong chúa nhật này.

Chúa nhật thứ năm phục sinh, Chúa Giêsu tỏ lộ chính mình “là đường, là sự thật và là sự sống” (năm A), là “cây nho thật” (năm B) tặng ban luật tình yêu (năm C). Nhờ thế, Giáo hội sống giới răn Yêu thương trong căn tính của mình.

Chúa nhật thứ sáu phục sinh Chúa Giêsu Phục Sinh ban tặng cộng đoàn tín hữu giới răn tình yêu (A-B-C), hứa ban Chúa Thánh Thần (năm A) cho tất cả mọi người (năm B); chính Người là Đấng hướng dẫn Giáo Hội (năm C). Đức Ái và Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội thành Giêrusalemme mới, là đền thờ của Thiên Chúa (năm C).

Lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu trước khi về trời, đã sai các tông đồ đi giảng dạy cho muôn dân, làm chứng về Ngài. Chúa Giêsu, vinh quang (năm A), luôn ở cùng các môn đệ cho đến ngày tận thế, làm cho họ thông dự vào ân sủng của Thiên Chúa, cầu nguyện cùng Chúa Cha để tất cả được bảo toàn trong sự thật (năm B) và trong sự hiệp nhất (năm C) nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống: Chúa Thánh Thần hoàn tất sự viên mãn của mầu nhiệm Phục Sinh Đức Kitô trong giáo hội. Nhờ quyền năng của Chúa Kitô Phục Sinh và nhờ đức tin vào Ngài, các tông đồ khởi sự sự mệnh của họ trong lòng thế giới.

+ Cả bốn Tin mừng đều thuật lại biến cố phục sinh, ngôi mộ trống, và những lần Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với họ. Ở Thánh sử Matthêu, chương cuối cùng,ngài đã thuật lại sự kiện ngôi mộ trống (Mt 28,1–8 ); Đức Giêsu hiện ra với mấy chị em phụ nữ trên đường các bà ra viếng mộ( Mt 28,9 –10); Tại biển hồ Ga-li-lê, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ (Mt 28,16 – 20). Tin mừng của thánh sử Marcô cũng nói về sự kiện ngôi mộ trống và các phụ nữ được thấy Chúa Giêsu Phục sinh (Mc16,1-8 ). Phúc âm của Marcô còn tóm tắt lại các cuộc hiện ra của chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại để minh chứng cho sứ điệp Phục sinh( Mc 16, 9–19). Còn Luca, ngòai những biến cố mà tin mừng Matthêu và Marcô đã ghi lại (ngôi mộ trống, hiện ra với các phụ nữ, với các Tông đồ ), Luca còn thuật lại một câu chuyện rất ấn tượng của hai môn đệ trên đường đi về làng Em-mau (Lc 24 ,13-35). Cũng như các Thánh sử khác, Gioan cũng ghi nhận sự kiện phục sinh qua Ngôi mộ trống (Ga 20 1-9 ), Đấng Phục sinh hiện ra với Maria Mác-đa-la (Ga 20 , 11-18 ). Khác với tin mừng Nhất lãm, Gioan thuật lại hai lần hiện ra sau cùng cũng vào ngày sabath, một lần Tô-ma vắng mặt và một lần có mặt Tô-ma (Ga 20,19 – 28).

– Các bài đọc 1 và 2 các ngày chúa nhật

+ Các bài đọc 1 được lấy từ sách Tông Đồ Công Vụ nhằm diễn tả đời sống của giáo hội tiên khởi: hình thành, tổ chức và truyền giáo. Cách cụ thể: việc hình thành cộng đoàn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu chết và sống lại (Cv 2; Cv 4: chúa nhật 2 PS); việc loan báo của các tông đồ tập trung vào chủ đề Đức Kitô chết và giờ đây đã sống lại (chúa nhật 3, 4 PS); tổ chức cơ cấu của cộng đoàn tín hữu: đặt tay cho các phó tế và bắt đầu sứ mệnh của Phaolo và Barnaba (chúa nhật 5 PS); nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, ơn cứu độ được loan báo đến dân ngoại (chúa nhật 6 PS). Sách Công vụ Tông đồ ghi lại những hoạt động rao giảng và làm chứng của các tông đồ sau khi Chúa PS. Toàn bộ Sách Công vụ Tông đồ mà chúng ta nghe đọc trong suốt mùa PS đều nói về hoạt động của các tông đồ làm chứng cho Chúa đã chết và đã PS. Bởi vì, ngay từ đầu sách Công vụ Tông đồ (1, 8), Chúa đã nói với các tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” Chính nềm tin vào Chúa PS và khi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và ban sức mạnh, các tông đồ từ những người dốt nát, sợ sệt đã trở thành những chứng nhân hùng hồn của Chúa PS.

+ Các bài đọc 2 công bố Đức Kitô Phục Sinh và sự hiện diện của Ngài giữa cộng đoàn tín hữu (từ chúa nhật 2 đến chúa nhật 5) và ân sủng Chúa Thánh Thần (chúa nhật 6 và chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống). Thư 1 Pr (năm A) là giáo lý về bí tích rửa tội của thánh Phêrô, trong đó thánh nhân nêu bật sự cần thiết của đời sống luân lý một khi lãnh nhận bí tích này. Thư thánh Gioan (năm B) về giới răn Yêu Thương. Sách Khải Huyền (năm C) về thị kiến vinh quang của Chúa Kitô.

Tắt một lời, các bài đọc trong ngày chúa nhật, cách đặc biệt là tin mừng và bài đọc hai nhấn mạnh đến các ý tưởng sau: ý nghĩa của ngày chúa nhật; Thánh Thể như là sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng giúp thấu hiểu Lời Chúa và cử hành thánh thể; Chúa Giêsu, mục tử tốt lành; lắng nghe và thực hành Lời Chúa; sống giới răn Yêu Thương; và sau cùng là viễn cảnh vinh quang của Chúa Kitô.

+ Trong suốt mùa PS, bài đọc 1- Sách CVTĐ, kể lại việc các tông đồ rao giảng và làm chứng về Chúa PS.

  1. Phụ nữ Do Thái vào thế kỷ thứ nhất Công Nguyên bị đối xử như công dân hạng hai trong xã hội. Bởi chỗ đứng thấp kém của người phụ nữ, vào thời Ðức Giêsu không ai dùng đàn bà, con gái làm nhân chứng cho những tranh cãi kiện tụng trong tòa án, hay là bất cứ vấn đề gì. Đối với người Do Thái, chứng từ của người phụ nữ hoàn toàn không có giá trị gì hết. Hiểu rõ vị thế của người phụ nữ Do Thái trong xã hội vào thế kỷ thứ nhất, bạn sẽ ngạc nhiên vô cùng khi khám phá ra một hiện tượng lạ, đó là, cả bốn thánh sử đều dùng phụ nữ làm những nhân chứng cho một biến cố vĩ đại đã thay đổi bộ mặt của toàn thế giới. Thêm vào đó, Maria Mađalêna, người phụ nữ đứng đầu danh sách và được nhắc tới trong cả bốn bản Tin Mừng Phục Sinh, lại là một nhân vật, mà theo như Máccô diễn tả, bà đã được Đức Giêsu trục xuất ra khỏi người bảy con quỷ (Máccô 16:9). Đây là một dữ kiện khá mất mặt cho Giáo Hội thời sơ khai. Chắc chắn những người lãnh đạo Do Thái chống đối Đức Giêsu đã bịt mũi cười khinh bỉ vào mặt Phaolô, Phêrô, và những người Kitô hữu thời tiên khởi mà nói, “Đúng là chuyện phường chèo”, khi biết rằng đàn bà phụ nữ là những nhân chứng cho một niềm tin về Đức Kitô Phục Sinh.

Phaolô và danh sách của những chứng nhân Phục Sinh trong lá thư gửi tín hữu thành Côrintô là một thí dụ cụ thể cho vấn đề chúng ta đang thảo luận, đó là, không ai lại dùng phụ nữ để làm nhân chứng cho đại Tin Mừng Phục Sinh. Khi nhắc tới tên của những người có diễm phúc được diện kiến với Đức Kitô PS, Phaolô không đả động hay nhắc nhở gì đến bất cứ tên tuổi của một người phụ nữ nào hết, kể cả Maria Mađalêna, người đứng đầu và xuất hiện trong cả bốn bản Tin Mừng Phục Sinh. Trong bản danh sách những nhân chứng Tin Mừng Phục Sinh của Phaolô, Phêrô đứng đầu, sau đó là nhóm Mười Hai, rồi tới hơn năm trăm người Kitô hữu (đàn ông), ông Giacôbê người anh họ của Đức Kitô tiếp theo sau, nối tiếp là các Tông Đồ, và sau cùng là Phaolô (1Cor 15:5-8). Tất cả những nhân vật nằm trong danh sách này đều là đàn ông (ct. 4).

Tại sao Chúa Giêsu Phục Sinh lại hiện ra với bà Maria Magdalene trước tiên mà lại không tỏ mình ra với ông Phêrô, Gia-cô-bê và Gio-an, những môn đệ đã từng chứng kiến Người biến đổi hình dạng trên núi Tabor trước mặt họ? (Mt 17:1-8). Và giao cho bà loan báo Tin Mừng PS cho các môn đệ?: “Tông đồ của các Tông Đồ.” Vì bà là người yêu Chúa nhiều nhất. Không giống như các môn đệ khác bỏ của chạy lấy người, bà là người đã theo Chúa Giêsu lên tới đỉnh núi Sọ, ở lại với Người lúc Người tắt thở, tham dự vào việc táng xác Người và sau khi mọi người ra về, bà lưu lại với Chúa Giêsu ngoài cửa mộ cho đến tối mịt mới đi về: “Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la… ở lại đó, quay mặt vào mồ” (Mt 27:61; Mc 15:47; Lk 23:55). Và sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần đã vội vàng ra mộ để viếng xác Chúa.

  1. Quá Tầm Cảm Nghiệm Của Người Phàm:

+ Một điểm nổi bật trong sự xuất hiện của Đức Giêsu vào ngày Phục sinh là người ta đã không nhận ra Người. Khi Đức Giêsu hiện ra với Maria Mađalêna, “bà ấy không biết” đó là Đức Giêsu (Ga 20:14). Khi Đức Giêsu hiện đến với các môn đệ, họ tưởng Người là “ma” (Lc 24:37). Hai môn đệ quê Emmau chỉ biết Người chỉ là một ngôn sứ, nên không nhận ra ý nghĩa và mưu ích của sự thụ nạn và tử nạn đó: chuyện Phục sinh mà họ nghe kể bởi một số các bà trở thành chuyện ngoài tai không đáng tin. Vì đeo đuổi theo cách suy nghĩ dự phóng phàm nhân của mình nên chi họ không nhận ra Tin Mừng siêu thế Phục Sinh. Vì thế khi “Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người”(Lc15-16). Khi Người xuất hiện trên bờ biển, các môn đệ đã “không biết” đó là Người (Ga 21:4). Điều này nói lên bản chất của sự phục sinh (resurrection). Đó là sự việc chưa con người nào cảm nghiệm được. Đó không phải là một sự tỉnh lại (resuscitation), một sự quay về lại với đời sống, nhưng là một bước nhảy vọt trong cuộc đời – và trong thân xác. Thân xác sống lại trong buổi sáng Chúa Nhật Phục sinh, trên căn bản, khác với thân xác được chôn cất buổi chiều ngày Thứ Sáu Chịu nạn. Phaolô so sánh thân xác trước khi phục sinh với hạt giống gieo vào lòng đất: “Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác, sẽ mọc lên. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế… Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí.” (1Cr 15, 36-37,42-44) Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.

+ Phải có một cái gì đó bất thường xảy đến với những con người nhát đảm và yếu tin, để thay đổi cả một não trạng sợ sệt của họ. Đức Giêsu chết đã đặt vào cuộc đời của họ một dấu kết, như trong phần kết của một bản nhạc. Nếu không có một cuộc gặp gỡ diện đối diện với Đấng phục sinh thì e rằng một dòng chữ để lại cũng khó chứ phương chi cả một kho tàng như bốn phúc âm của các ngài. Quả thực Đức Giêsu đã đụng chạm đến các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại. Có như thế các tông đồ mới đủ bản lãnh để công bố Tin mừng Phục sinh cho nhân lọai. Sách Công Vụ Tông Đồ chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó, bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã dẫn đưa hơn ba ngàn người gia nhập Hội thánh (Cv 2, 37-41). Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

+ Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có. Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Như Phêrô và Gioan trước ngôi mộ trống. Như Tôma được mời thọc tay vào cạnh sườn và lỗ đinh. Như hai môn đệ trên đường Emmau…Điều chung nơi các môn đệ là một khi họ đã tin thì lòng tin đó không hề thay đổi và họ nhiệt thành loan báo lòng tin đó cho người khác. Những người này, một khi đã tin cũng trở nên kiên định như các môn đệ trong xác tín của mình và sẵn sàng bảo vệ làm chứng cho xác tín đó bằng chính mạng sống của mình.

  1. Thân thể Chúa Phục sinh là thân thể của Người trước đó chứ không phải một cơ thể khác, như chủ trương của một số người. Khi Chúa Giêsu sống lại, trong thân thể phục sinh của Ngài có những dấu ấn về cuộc đời Ngài, về cuộc khổ nạn mà Ngài đã trải qua và đã chỉ cho Tôma thấy. Quả thực là những dấu vết được ghi khắc nơi cơ thể của Người, dọc dài toàn bộ cuộc đời dương thế của Chúa, vẫn xuất hiện vào ngày Người sống lại. Chúa Kitô vẫn có tay, có chân, và đã đưa con cá nướng các môn đệ trao cho Ngài lên miệng. Đó thực sự là Người, Người còn sống, đó là cơ thể của Người chứ không phải một cơ thể khác. Đó không phải là một sự luân hồi. Đó là một sự phục sinh! Làm thế nào để hiểu được mầu nhiệm phi thường này, một điều chưa từng có trước Chúa Giêsu, và sau Chúa Giêsu cũng chẳng có. Việc các môn đệ sợ hãi là điều dễ hiểu.

Các nhà triết học Hy Lạp coi thể xác là nhà tù của linh hồn. Đây là lý do tại sao thánh Phaolô buộc phải nhấn mạnh rất nhiều đến việc khẳng định sự phục sinh của thân thể Chúa Giêsu khi thánh nhân viết thư cho các tín hữu Hy Lạp ở Cô-rinh-tô, và đưa ra tất cả các bằng chứng, cũng như trích dẫn tất cả các nhân chứng về sự phục sinh của Chúa Kitô.
Ngài cùng ngồi ăn với các tông đồ cho người ta nhìn thấy để nhận ra. Ngài nói, Ngài nghe, Ngài kêu tên những ai Ngài gặp. Ngài đề nghị họ đến sờ những thương tích Ngài, để bảo đảm Ngài đang thực sự hiện diện. Nhưng sự sống của Ngài rất khác lạ. Ngài đang sống, nhưng đang lúc ứng xử như một người thường thì Ngài lại có thể hành động cách ngoại thường như thể Ngài đã thoát khỏi những điều kiện giới hạn của không gian và thời gian của kiếp người. Những định luật vật lý và những biên giới hữu hình của vũ trụ nhân sinh không còn trói buộc được Ngài nữa. Trong Đức Kitô phục sinh, bây giờ đã xuất hiện một con người hoàn toàn mới mẻ, một xác thân như chưa bao giờ gặp thấy. Ngài vừa là một con người đích thị, vừa là một tinh thần thuần túy (pur esprit). Thật khó mà diễn tả vì Ngài rất giống chúng ta nhưng cũng lại rất khác chúng ta. Ngài đạt đến một trạng thái mà Ngài đã hứa từ lâu nhưng chưa bao giờ thực hiện. Đó là trạng thái con người “đi ngang qua thế gian này mà về cùng Cha”.

Người không phải là hồn ma, vì ma không có thân xác, như Chúa đã bảo các môn đệ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây!” (Lc 24, 39). Thân xác phục sinh của Chúa cũng chính là thân xác chịu đóng đinh, vẫn mang vết tích cuộc khổ nạn. Các tông đồ đã được gặp chính Chúa, chính Giêsu Người Nazarét là Thầy của họ, vừa mới bị đóng đinh và chết cách đó mấy ngày, chứ không phải ai khác, không phải là một ảo tưởng, mà là sự thật. Nhưng Chúa Giê-su Phục Sinh lại có nhiều cái khác với Đức Giê-su Na-da-rét: Người vào nhà trong khi cửa đóng then cài (Ga 20:19); Người không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian; Người không cần ăn uống để sống….

  1. Bằng chứng về việc Chúa phục sinh

Từ hàng thế kỷ, rất nhiều triết gia lỗi lạc công kích Kitô-giáo cho là phi lý, mê tín và lố bịch. Rất nhiều triết gia đã chọn đơn giản bác bỏ vấn đề phục sinh. Một số khác cố gắng xuyên tạc điều ấy bằng nhiều giả thuyết khác nhau. Nhưng sự hiển nhiên lịch sử không thể bị coi nhẹ.

-Những giải thích của Tân Ước về sự phục sinh đã được lưu hành suốt cả đời của những đàn ông và phụ nữ còn sống cùng thời với sự phục-sinh. Những người nầy đã có thể xác nhận hoặc chối bỏ mức độ chính xác của những lời giải thích như thế.

– Các môn đệ cũng đã được Ngài loan báo cho biết Ngài sẽ lên Giêrusalem chịu khổ hình, chịu chết, nhưng ngày thứ 3 Ngài sẽ sống lại. Ngài loan báo không chỉ một lần mà đến 3 lần. Như thế, việc Đức Kitô Phục sinh như là biến cố hoàn tất các lời tiên báo về Ngài. Tuy nhiên cũng phải khiêm tốn nhìn nhận rằng Phục sinh vẫn là mầu nhiệm của đức tin, vì nó siêu vượt trên mọi chiều kích lịch sử.

-Những kẻ đi theo Đức Giêsu nói Người đã chỗi dậy từ kẻ chết. Họ thuật lại rằng Người đã hiện ra với họ trong thời gian 40 ngày, tỏ mình ra cho họ qua nhiều “chứng cứ không thể sai lầm được”. Thánh Phaolô tông đồ kể lại rằng Đức Giêsu đã hiện ra cùng một lúc với hơn 500 kẻ đã theo người, đa số  bọn họ vẫn còn sống và có thể chứng nhận điều Phaolô đã viết: “Quả vậy, mọi sự tôi đã truyền cho anh em, điều mà chính tôi nhận lấy là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo lời Kinh Thánh, Ngài đã bị chôn cất, Ngài đã sống lại ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh, và Ngài đã hiện ra cho Kêpha, rồi cho nhóm Mười Hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm người một lần, trong số đó phần đông vẫn còn sống, nhưng cũng có người đã qua đời; rồi Ngài hiện ra cho Giacôbê, rồi cho các Tông đồ hết thảy” (1Cr 15, 5-7). Trưng bằng chứng Chúa hiện ra cho các Tông đồ đã đành, còn hiện ra cho một số đông “trên năm trăm người” phần đông hiện còn sống lúc Ngài viết bức thư, nếu thánh nhân “nói dối” thì niềm tin Chúa sống lại bị sụp đổ ngay, kéo theo sự tan rã của các giáo đoàn. Thánh nhân còn nhấn mạnh những câu liên quan tới sự nghiệp của Ngài: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi thành hư không, và niềm tin của anh em cũng thành ảo tưởng. Và chúng tôi hóa thành chứng gian cho Thiên Chúa vì đã dám chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Ngài đã cho Đức Kitô sống lại… Nếu Đức Kitô không sống lại thì lòng tin của anh em cũng hão huyền và hiện anh em cũng còn trong tội lỗi của anh em… Nếu ta chỉ đặt hy vọng vào lúc sinh thời mà thôi, thì quả ta là kẻ khốn nhất trong thiên hạ” (1Cr 15, 14-18).

-Tin Mừng theo thánh Mátthêu 28:11-15 xác nhận một chi tiết khá lý thú, đó là, chính những người chống đối Ðức Giêsu cũng đã không hề phủ nhận, nhưng phải công nhận là ngôi mộ đá của Đức Giêsu, mặc dù đã được Quan Tổng Trấn Philatô sai người niêm phong đóng ấn, được quân lính La Mã binh khí ngập tới miệng canh phòng cẩn thận, đã trở thành ngôi mộ trống (Mátthêu 27, 62-66).  Chứng từ của các nhà lãnh đạo Do Thái về tính trung thực của ngôi mộ trống của Đức Giêsu do đó trở thành một chứng từ với giá trị rất cao. Và các truyền thống đối lập [với trình thuật ngôi mộ trống] không thấy xuất hiện bất cứ nơi nào, ngay cả trong luận chiến Do thái.

-Sự tăng trưởng như tia chớp của Giáo Hội cũng là một bắng chứng mạnh mẽ cho sự phục sinh của Chúa Giêsu: “Những người tiếp nhận lời ông (Phêrô) đều lãnh Phép Rửa, và ngày hôm đó có khoảng ba ngàn người được thêm vào số những người tin theo Chúa Kitô” (Cv 2:41).

Kết quả thứ nhất của việc chữa lành và bài giảng của Phêrô về Chúa Giêsu phục sinh là ông và Gioan bị bắt do lệnh của các thế lực đền thờ: tư tế, lãnh binh và nhóm Sađucêo. Hai ông bị tống ngục qua một đêm. Ngày hôm sau bị giải ra toà án tôn giáo Do thái. Phêrô lại có cơ hội rao giảng Chúa Giêsu phục sinh. Sự thông thái uyên bác của ông làm cho hội đồng ngạc nhiên. Công vụ ghi lại như sau: “Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và Gioan mạnh dạn và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu (Cv 4,13). Kết quả thứ hai là nhiều thính giả đã tin vào sứ điệp của hai ông: “Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng 5000.” (Cv 4, 4) Trong một thành phố chỉ khoảng 40.000 dân thì số 5000 quả là ấn tượng. Tỷ lệ là 1/8. Tức cứ 8 người thì đã có một người tin theo lời của Phêrô và Gioan. Tỷ lệ này ngày nay chúng ta không thể đạt được. Ngay cả “một nhóm Tư Tế tin vào Chúa Giêsu” (Cv 6, 7). Thực sự việc Đức Kitô sống lại đã biến đổi các Tông đồ một cách ngoạn mục. Phêrô can đảm nói với đám đông: “Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Cv 3,14). Mới mấy ngày trước các ông còn run sợ người Do thái, đóng kín cửa khi hội họp cầu nguyện. Bây giờ tuyên bố mình là nhân chứng. Bài Tin mừng Luca cũng dùng từ “nhân chứng”: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (24,48).

 -Điều gì khác hơn là sự sống lại đã dẫn người Do Thái tới chỗ chấp nhận một “tên tội phạm” bị xử tử một cách đáng xấu hổ như thế (Gl 3,13) như là Đấng Messia được hứa ban của họ, trong khi họ đang mơ về một Đấng giải thoát quân sự? Điều gì khác hơn đã đẩy những người Do Thái đến chỗ tách khỏi những xác tín độc thần của họ, để tôn thờ Chúa Giêsu như là Thiên Chúa Con (Ga 1,18) hoặc thay đổi ngày thờ phượng của họ từ thứ bảy sang chúa nhật (Cv 20,7)? Một chuyện tưởng tượng đơn thuần được bịa ra hẳn đă không bao giờ có thể lật đổ những hy vọng và những truyền thống như vậy.

Lại nữa, sự trở lại của Saolô người Tarse cho thấy một phép lạ cả thể. Khởi đầu như kẻ thù hung hăng của Giáo Hội (CV 8,3; 9,1; Gl 1,13), cuộc sống của Ngài đã thay đổi 180 độ, đến nỗi Ngài trở thành môn đệ Chúa Giêsu. Với việc chọn lựa chịu đau khổ (2Cor 11,23), Phaolô từ bỏ những gì Ngài có, chấp nhận bị bách hại và rao giảng Tin Mừng từ thành nầy sang thành khác cho tới khi Ngài đến Rôma, nơi Ngài chết tử vì đạo. Người ta đánh giá rằng Ngài có ảnh hưởng trên lịch sử đế quốc Roma hơn bất kỳ người nào khác ở thế kỷ thứ nhất ngoài trừ Chúa Kitô.

-Sự kiện các tông đồ của Chúa Giê-su tiếp tục từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con và nhất là từ bỏ cả mạng sống để làm chứng rằng Đức Giê-su sống lại, thì đó là một lời chứng hoàn toàn đáng tin. Không ai liều chết và đánh mất tất cả chỉ vì một điều bịa đặt bao giờ. Khi người làm chứng dám chịu chết để minh chứng mình nói thật, thì lời chứng của người đó là chân thật. Các tông đồ của Chúa Giê-su đã chấp nhận lãnh lấy án chết để minh chứng rằng Chúa Giê-su đã thực sự sống lại, vậy sự kiện Đức Giê-su sống lại là hoàn toàn chắc chắn. Có thể tưởng tượng được rằng những người nầy chấp nhận chịu chết một cách tự nguyện như vậy chỉ vì một chuyện hoang đường đơn thuần chăng?

-Vậy thì một nhóm người, quê mùa, dốt nát, nhát đảm, đóng kín cửa vì sợ, bỗng nhiên trở nên mạnh dạn, liều thân làm chứng Chúa đã phục sinh, không phải là dấu chỉ hay sao? Từ thái độ ẩn trốn, rút lui, lúc này họ bước ra công khai và can đảm đó không phải là một sự thay đổi lớn hay sao? Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu.

Các tông đồ đã trở thành chứng nhân phục sinh (Cv.10, 39-43), và có nhiều người tin lời rao giảng của các tông đồ. Họ là những Kitô hữu tiên khởi. Nếu Đức Giêsu chỉ là người, nếu Đức Giêsu phục sinh chỉ có ích lợi riêng cho bản thân Ngài, thì chắc người khác không phải quan tâm nhiều đến biến cố này như vậy, và các tông đồ cũng không cần phải đem cả sinh mạng ra làm chứng, vì điều đó đâu có ích gì cho các tông đồ cũng như cho người khác. Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh phải có thật quan trọng thì các tông đồ mới phải xả thân loan tin mừng phục sinh và dám đem chính mạng sống mình bảo đảm cho lời loan báo này. Thật vậy, theo những chứng nhân phục sinh, Đức Giêsu Phục Sinh là một sự kiện ảnh hưởng đến số phận tất cả con người, liên hệ đến sự sống và hạnh phúc của mọi người.

Đức Kitô của lịch sử (có sinh ra thật, có sống, có chết, có sống lại thật) và Chúa Kitô của niềm tin (là Thiên Chúa làm người, hiện ngự bên hữu Đức Chúa Cha và ở lại trong Hội Thánh) là một, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Ngài.

  1. Tôma: Có nhiều thái độ tin khác nhau.

– Có người thấy mới tin. Đối với những người này, tin phải là một kiến thức khoa học, nghiã là chân lý ấy phải đong đo đếm được, sờ mó được, chứng minh được như hai với hai là bốn. Cũng may cho ông Tôma là đã nhìn thấy và đã thọc tay được vào những vết thương của Chúa, và ông đã tin: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.” (Ga 21, 28)

– Nhưng có những người thấy mà không chịu tin. Qua các sách Tin Mừng, chúng ta được biết Chúa đã làm nhiều phép lạ: què đi được, mù được sáng, phép lạ hóa bánh ra nhiều, chết đi sống lại… nhưng nhiều người lại trở thành những người “ thấy mà không tin”, trở nên những người cứng lòng. Trước mộ trống, những người lính canh cũng đã thấy, nhưng họ không tin, con tim của họ đã chết thực, họ sợ cấp trên, họ sợ cho danh vọng, chỗ đứng của mình bị lung lay, họ tìm kiếm lợi lộc, hư danh, nên đã không hiểu được Chúa đã sống lại rồi. Con số những người thấy Chúa mà tin cũng chỉ là con số rất nhỏ, còn tuyệt đại đa số những người Do-thái dù thấy Chúa vẫn không tin. Các lãnh đạo tôn giáo Do thái khi được lính canh mồ báo tin Chúa của họ đã sống lại, đã ra khỏi mồ, họ ngang nhiên trả tiền cho lính, để lính thực hiện điều mà không bao giờ có thể thứ tha được: “Các anh hãy nói thế này: ban đêm trong lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã lấy trộm xác” (Mt 28,11-15). Các lãnh đạo tôn giáo Do thái do lòng ganh tỵ, họ không chỉ thủ tiêu Chúa của họ, giờ đây, họ còn thủ tiêu cả niềm tin Phục Sinh đang bừng dậy cho toàn thế giới: “Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ dàn xếp với quan, và lo cho các anh được vô sự”.

– Và có những người không thấy mà tin. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 21, 29) Họ là ai vậy? Họ là những người như chúng ta. Là những người tin vào Thiên Chúa toàn năng, hằng hữu, quyền phép vô song..  Ngày chịu phép Rửa tội, người đại diện Giáo hội hỏi : Anh chị xin gì?  Xin đức tin. Tin như thế là một nhân đức, một ân huệ: Đức tin. Đức tin không buộc phải chấp nhận như một sự kiện hiển nhiên. Đó là một ân huệ của Thiên Chúa đối với ai đang đi trong bóng tối tìm được ánh sáng của chân lý và đón nhận nó bằng một tâm hồn khiêm tốn và thành thật.

– Cách xử sự của Tô-ma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi một số người được hỏi tại sao không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau… họ trả lời thật đơn giản: “Có thấy đâu mà tin!” Thế nhưng, có vô số điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học, nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có. Hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường… Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững.

Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như “cóc ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy, đúng như nhận định của Saint Exupéry: “L’essentiel est invisible pour les yeux” [những thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được]. Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý.

Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi, nhờ nó, các nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy cả những siêu vi. Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng. Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát… Chúng giúp các nhà quân sự phát hiện máy bay địch từ xa, nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng. Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là ‘huệ nhãn’, giúp người ta thấy được những thực tại siêu hình. Đối với Đức Giê-su, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ Đức Tin, nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục…

Hai nhà khoa học đầu tiên lên không gian: Amstrong (người Mỹ) đã ngợi khen kỳ công của Thiên Chúa khi nhìn ngắm vũ trụ bao la; còn Gagarin (Liên Xô) lại tuyên bố rằng đã đi khắp vũ trụ nhưng không thấy Thiên Chúa ở đâu.

– “Nếu tôi không thấy… thì tôi không tin”. Câu nói của Tôma ngày xưa, chúng ta vẫn nghe hôm nay. Câu nói ấy là một thách đố nghiêm chính. Chúng ta phải có khả năng giúp con người hôm nay “thấy và đụng chạm” được Thiên Chúa qua việc SỐNG ĐẠO của mình, qua đời sống của một chứng nhân. Nhưng trước hết, chính chúng ta phải có cảm nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong đời thường. Chính chúng ta phải nói được như Maria Mácđala: “Tôi đã thấy Chúa” (Mt 20,18).

Tuy nhiên, nếu chỉ tin trên môi miệng mà trong lòng thì rỗng tuếch, cũng chưa thể kể được là tin, mà phải là “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 9-10). Thánh Gia-cô-bê Tông đồ còn xác quyết mạnh hơn: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24.26). Vì thế, hai khía cạnh đó (tin thật trong lòng + tuyên xưng ngoài miệng) phải được xem là “tuy hai mà một”, bởi “lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12, 35). Thật vậy, lòng còn hoài nghi mà miệng leo lẻo nói tin tưởng, hoặc giả trong lòng tuy có tin, nhưng bề ngoài thì sợ nọ sợ kia, sợ bóng sợ vía cứ “câm miệng hến” thì cũng kể như không.

Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.  Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

  1. Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót

– Giáo hội chọn Chúa Nhật II Phục Sinh, để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa. Cái chết đau đớn, nhục nhã của Chúa Giê-su trên thập giá là biểu hiện cao nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Chúa Thương Xót đối với nhân loại chúng ta. Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc khổ nạn đó. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn của Người: xem 2 bàn tay còn in những dấu đinh, xem cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm qua. Chúa còn nhắc nhở thánh Tôma: đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Tin vào tình thương của Chúa, tin vào sự chết và PS của Chúa để được lãnh ơn cứu độ. Những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Vì tình yêu mà không có hy sinh là tình yêu giả dối, hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa, hy sinh vô ích. Và hơn thế nữa, Chúa đã chết để làm chứng cho tình yêu , vì không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu. TC yêu chúng ta đến nỗi chết thay cho chúng ta. Những thương tích của Chúa nhắc nhở cho chúng ta nhớ đến những đau khổ mà Người đã phải chịu vì yêu thương chúng ta. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới.

-Gương tha thứ cao cả nhất mà chúng ta cần học hỏi chính là gương của Chúa Giê-su. Ngài đã tha thứ và tha thứ luôn mãi. Ngài đã tha thứ cho các môn đệ khi họ phản bội Ngài, chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ khi người ta xỉ vả, đóng đinh Ngài. Ngài vẫn tha thứ khi Ngài sống lại mà có người vẫn còn cứng lòng tin. Tình thương tha thứ hôm nay được thể hiện qua việc Ngài chúc bình an cho các môn đệ. Ngài không oán trách các ông. Ngài không để bụng tội các ông. Ngài không một lời trách móc các môn đệ dù các ông đã bán Thầy, chối Thầy, bỏ Thầy, cứng lòng tin,… Người không oán trách giáo quyền và các vị thượng tế đã mưu sát Người. Người không công kích chính quyền Philatô đã kết án Người cách oan ức. Trái lại, mỗi lần hiện đến, Người đều chúc bình an. Ngài hiện diện không phải để kết án mà để trao ban bình an của sự tha thứ.  Chính tình yêu tha thứ đó, Ngài đã củng cố niềm tin nơi các môn đệ để từ nay họ trở thành kẻ loan truyền tình yêu và sự tha thứ cho nhân trần. Ai không cảm thấy mình là người có tội, ai mất cảm thức về tội, sẽ không hiểu thấu lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa.

– Trái Tim Giêsu, một trái tim chan chứa yêu thương mà Tin Mừng không ngừng lặp đi lặp lại đã bao lần “Ngài chạnh lòng thương” trước cảnh cùng khốn của con người: Thấy dân chúng tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy người ta khiêng đi chôn con trai duy nhất của một bà goá, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy những người phong cùi tiến đến từ xa, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy hai người mù đang dò dẫm lại gần, “Ngài chạnh lòng thương”… Và chắc hẳn các tông đồ, kể cả Tôma, cũng đã ít nhiều cảm nhận cái thổn thức “chạnh thương” đó nơi Thầy mình. Cũng trái tim đó, bởi đã chạnh thương cho đến cùng nên bị đâm thâu, để giọt máu sau hết và chút nước cuối cùng nhỏ xuống mà có lẽ Tôma đã chứng kiến xa xa hay ít nữa đã nghe thuật lại chiều ngày thứ Sáu hôm ấy vì ông không dám lại gần.

– Như Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,16). Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại mang một tên mới là “Lòng Thương Xót”. Lòng Thương Xót Chúa chính là căn nguyên của mọi việc Thiên Chúa làm cho con người, từ việc tác tạo, gìn giữ, quan phòng đến việc cứu chuộc và thánh hóa họ.  Trọn cả con người và đời sống của Chúa Giêsu với những lời giảng dạy, các hoạt động, những phép lạ, và nhất là với Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh,  cho thấy Người chính là Hiện Thân của Lòng Thương Xót Thiên Chúa dành cho nhân loại.  Và như vậy, tin vào Chúa Giêsu là tin vào Tình Yêu hay tin vào Lòng Thương Xót Chúa dành cho nhân loại nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng, như Thánh Gioan xác tín: “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1Ga 4, 16).

Được Chúa tỏ hiện đầu tiên sau khi Ngài phục sinh là một vinh phúc. Cái vinh phúc này lẽ ra phải được dành cho các môn đệ của Chúa Giêsu, những người đã từng sát cánh, cùng rong ruổi với Chúa Giêsu trong những năm tháng đi truyền giảng tin mừng. Thế nhưng vinh phúc đó lại được dành cho bà Maria mac-đa-la, một Maria Mac-đa-la đã từng lầm lỗi, được Chúa tha thứ và trở lại yêu mến Chúa thật nhiều. Như vậy đã có hai sự kiện: sự kiện người trộm lành là người đầu tiên được vào nước trời và sự kiện bà Maria Mac-đa-la là người đầu tiên gặp được Chúa sau khi Ngài phục sinh. Hai sự kiện mang nét chung đều là người diễm phúc đầu tiên ấy, đã xảy ra rất gần nhau và lại xảy ra vào giai đoạn quan trọng nhất trong công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa; cho thấy có một tinh thần lớn mà dường như Thiên Chúa Ngài muốn bộc lộ. Tinh thần ấy chính là: Thiên Chúa Ngài luôn dành nhiều ưu ái tràn đầy và đặc biệt cho những tâm hồn tội lỗi tìm về với lòng xót thương của Ngài. Trong những năm tháng truyền giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính mà là người tội lỗi.”. Suốt ba năm truyền giảng tin mừng cho đến khi bị treo trên cây thập tự và cho đến khi Chúa phục sinh; tinh thần ấy đã được Chúa thực thi một cách trọn vẹn, vô cùng trọn vẹn.

Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay trừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ.

Lòng thương xót Chúa kèm theo chúng ta mỗi ngày. Chỉ cần biết để cho trái tim tỉnh thức thì ta có thể nhận ra. Chúng ta thường dễ cảm nhận gánh nặng hàng ngày mà chúng ta phải gánh vác. Nhưng nếu chúng ta biết mở rộng trái tim thì chúng ta có thể nhận rõ rằng Thiên Chúa tốt lành như thế nào đối với chúng ta. Lòng thương xót của Chúa thể hiện qua tình yêu của Ngài đối với mỗi người chúng ta. “Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng ở nơi Ngài”.
Chúa cũng bày tỏ lòng thương xót khi lập bí tích Giải tội. Biết con người yếu đuối, dù có được tẩy rửa sẽ tiếp tục tái phạm, Chúa đã lập bí tích Giải tội. Bí tích Giải tội là lòng thương xót của Chúa ở bên con người mãi mãi, để sẵn sàng tha thứ bất cứ khi nào con người cần đến. Bí tích Giải tội là cuộc Khổ Nạn liên lỉ để yêu thương tha thứ cho con người từng phút từng giây. Bí tích Giải tội là những vết thương không bao giờ lành của Chúa để tuôn dòng nước và máu chảy ra rửa sạch tội lỗi con người.

-Thế giới hôm nay có biết bao sự dữ, biết bao vấn đề đặt ra mà con người không thể giải quyết được. Vì thế, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nói: “Cũng như Thánh Faustina, chúng ta tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Ngày nay, hơn lúc nào hết, thế giới cần đến lòng thương xót của Chúa. Nơi nào chiến tranh gây đau khổ, nơi ấy càng cần đến lòng thương xót của Chúa. Nơi nào càng thiếu tôn trọng phẩm giá con người, nơi ấy càng cần đến lòng thương xót của Chúa “.

Hơn lúc nào hết, có lẽ mỗi người trong chúng ta hôm nay, dù ở đấng bậc nào, cũng đều cảm thấy cần đến lòng Chúa xót thương hơn bất kỳ ai. Vì chỉ có Chúa mới là Đấng xót thật và thương thật; chỉ có Chúa mới biết được mỗi người cần đến lòng Ngài xót thương biết bao; chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa lành, có thể hàn gắn, có thể băng bó, có thể đem về và trao tặng bình an, một sự bình an không ai lấy mất. Vì bình an của Chúa là chính Chúa. 

– ĐTC Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Với lời ban tặng Thánh Thần và quyền tha tội cho Hội Thánh qua các môn đệ nơi Bí Tích Giải Tội: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội Người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội Người ấy bị cầm lại” (Jn 20. 22-23), Chúa Giêsu đã biến các ông trở nên sứ giả và khí cụ của Lòng Thương Xót của Người. 

Tình thương của Chúa, lòng thương xót của Chúa phải đuợc loan báo cho mọi người, để họ tin mà được cứu độ. Bởi đó, sau khi cho các môn đệ xem những vết thương của Ngài, Ngài nói với họ: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Nghĩa là Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu thế nào, thì Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ như vậy. Các môn đệ là những người tiếp tục sứ vụ của Chúa. Họ cũng rao giảng, chữa bệnh và làm các phép lạ như Chúa đã làm. Nhưng mục đích của họ là để làm chứng cho cái chết và sự PS của Chúa, làm chứng về lòng thương xót của Chúa, mở rộng lòng thương xót của Chúa cho mọi người: “Các con hãy thương xót như Cha các con ở trên trời là đấng đầy lòng xót thương” (Lc 6:36).

LCTX thật là mầu nhiệm biết bao! Chúng ta được tận hưởng LCTX thì chúng ta phải thực thi LCTX với tha nhân: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:32). Thế giới, xã hội còn đầy vết thương do sự hận thù, tranh chấp, xáo trộn, chúng ta hãy đem lòng thương xót Chúa đến cho họ để chữa lành nỗi đau khổ thể xác và tinh thần giúp người ta tiếp tục sống và vươn lên. Đó chính là những sứ điệp và trách nhiệm Chúa gửi cho chúng ta trong mùa phục sinh. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.

Chính Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và là Thánh Thần Chân Lý, dẫn chúng ta trên đường đến với lòng Thương Xót của Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thế giới nhận ra tội lỗi, sự công chính, và “sự phán xét”(Ga16, 8).

  1. Gioan “đã thấy và đã tin. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm; còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề một cách logic và biện chứng. Thật vậy, đối với ông, chẳng ai có thể lấy xác Chúa đi mà còn tử tế xếp tất cả các băng vải lại cách gọn gàng như vậy. Với ông, cái chết đã thất bại, nó đã bị sự Phục sinh tướt đoạt. Người Thầy và là người bạn của ông chẳng bị ai lấy đi mà chính Người tự đi ra khỏi nơi Người đã được an táng mà các khăn liệm được xếp gọn gàng là một minh chứng.

Khi thấy khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng… Gioan đã tin: Khi yêu ai, chúng ta luôn tìm cách làm đẹp lòng người đó, luôn quan tâm, để ý, luôn nhớ đến người đó, luôn nghĩ về người đó, … Nhờ vậy mà thánh Gioan đã nhận ra Chúa. Có những điều mà chỉ 2 người yêu nhau mới hiểu được, còn những người ngoài cuộc thì không…), nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc hay kiểm chứng.

  Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gio-an lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.

Thánh Gioan, Tông đồ được Chúa yêu, chắc chắn ông đã yêu Chúa nhiều, nên mới được Chúa yêu đặc biệt. Yêu ai, yêu cả đường đi…Vì yêu nên Gioan đã để ý tới thói quen của Chúa khi Chúa xếp khăn, mền…, nên khi “thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi cùng với việc nhớ lại những lời Ðức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay……“Tôi đã thấy và tôi đã tin !” (x. Ga 20, 6-8) Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.

Chúa vẫn hiện diện nới chúng ta qua Mình và Máu Ngài, qua Lời Chúa, qua các biến cố xảy ra trong cuộc đời, qua những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người nghèo. Nhiều khi chúng ta không nhận ra, vì chúng ta không có Tình yêu, không quan tâm, thời ơ. Tình yêu làm nền tảng cho đức tin và dẫn đến đức tin. Nói cách khác, nếu không yêu thì không tin. Điều này được thấy rõ trong đời sống vợ chồng. Khi hai vợ chồng yêu nhau thì họ tin nhau mà không cần kiểm chứng. Vì yêu nhau, họ tin tưởng lẫn nhau, họ tự do hành động, tự do sống thật con người của mình mà không sợ hãi. Nếu như hai vợ chồng không yêu nhau, tất cả hành động đều đáng nghi và lo sợ, cuối cùng thay vì sống trong hạnh phúc họ sống trong hỏa ngục trần gian!

Tình yêu làm nền tảng cho đức tin và tình yêu lại là một cảm nhận cá nhân rất độc đáo, bởi vậy đức tin của mỗi người cũng rất khác nhau. Điều quan trọng là tình yêu đó phải có thật, phải được biểu lộ bằng hành động thì mới đưa đến đức tin. Có lẽ tất cả chúng ta ngày nay không ai được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng tất cả chúng ta, không ít thì nhiều đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta qua các biến cố đặc biệt, bất thường: có thể là thoát khỏi một tai nạn hiểm nghèo, hay được chữa lành một cách kỳ lạ, v.v. Cảm nhận đó là điều quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Chính cảm nhận đó đã giúp cho các vị tử đạo Việt Nam cũng như biết bao Kitô hữu ngày nay trong các quốc gia bắt bớ Kitô Giáo, vẫn can đảm rao giảng Tin Mừng, can đảm tuyên xưng đức tin và can đảm tử vì đạo.

Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin. Trên bờ hồ Galilê, chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7): “Chúa đó!” Gioan một lần nữa lại cho chúng ta thấy rằng để nhìn ra Đấng Phục sinh, người môn đệ cần phải nuôi dưỡng bằng tình yêu và bằng một trực giác chiêm niệm mà mắt thường không thể nào nhận ra được.

Gioan còn định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình yêu” (x. 1Ga 4,8). Khi diễn tả về một Thiên Chúa là Tình yêu, Gioan cho thấy đây không phải là một khái niệm trừu tượng khó hiểu nhưng là một sự diễn tả hết sức cụ thể và cô đọng. Tình yêu đó được thể hiện qua việc Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, trở nên của lễ đền tội và mang lại sự sống cho nhân loại.

Tin yêu Chúa thì mới có thể được “thấy” Ngài phục sinh. Cho nên sau này Gioan chỉ rao giảng có hai chữ thương yêu vì không thương yêu, chẳng đời nào người ta được phúc “thấy” Chúa sống lại. Còn nếu yêu mến Ngài thực sự thì thấy Ngài phục sinh trên mọi nẻo đường đời, mọi biến cố của cuộc đời. Bởi lẽ Chúa sống lại để biến đổi mỗi cuộc đời thành ánh sáng.

-“Anh có yêu Thầy hơn các anh em này không?” Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì điều kiện tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi: “Phêrô, anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Chúa hỏi Phêrô đến 3 lần về lòng mến, không ngoài ý muốn giúp ông lặp đi lặp lại chính lập trường về lòng mến của Phêrô. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,17). Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần. Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy Đã Yêu”.

Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Niềm vui phục sinh đã thực sự hiện diện trong Giáo Hội qua dấu chỉ yêu thương. Chính tình yêu nối kết mọi người chúng ta nên một. Và cũng chính tình yêu ấy thúc bách mọi chúng ta hướng tới sự phục vụ quên mình cho anh em. Phêrô được mời gọi để thực thi quyền bính phục vụ nhờ sức mạnh của tình yêu.

  1. LỜI CHÚC BÌNH AN

 Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi các môn đệ đang họp, Chúa Giêsu hiện ra, chúc bình an và cho họ xem tay và cạnh sườn còn mang dấu đinh. Ngài lại chúc bình an cho họ lần thứ hai và sai họ ra đi; đồng thời thổi hơi trên các ông để ban Thánh Thần, cho các ông quyền tha hay cầm tội.

Biết được tâm trạng lo âu, sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã trấn an họ: « Bình an cho anh em! » Không có cứu cánh, không có điểm tựa cho cuộc sống khác nào con thuyền bồng bềnh giữa biển khơi không biết sẽ đi về đâu, sẽ đỗ bến nào. Sống như thế là bất an, lo lắng, thất vọng. Sống không niềm tin là sống không có ngày mai.

Là người Kitô hữu, chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng quyền năng, sáng tạo vũ trụ. Tin vào Thiên Chúa là tình yêu. Tin vào Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế gian, mang thân phận con người để đánh đổi giữa sự chết và sự sống lại vinh quang. Chúng ta tin tưởng, an tâm và hy vọng như lời Thánh Phêrô đã viết trong thư thứ nhất (1Pet 1, 3-5) : “ Do lượng hải hà, Người cho chúng ta tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẫn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong ngày sau hết.” Bình an của chúng ta là đây. Hy vọng của chúng ta là đây.

Chỉ khi nào đặt tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta mới có bình an thật sự. Chúng ta có Chúa đồng hành, sao không an tâm! Cũng như khi kết thúc Thánh lễ, vị chủ tế chúc: Anh chị em hãy ra đi bình an. Chúa là cội nguồn bình an, bình an vượt trên mọi trạng thái, vì Chúa là Đấng Hằng Hữu, Đấng Hiện Diện đích thật, là Người và là Chúa.

Ngay cả sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra cũng cố đức tin và kiện cường niềm hy vọng, các ông cũng cần lắm bình an của Chúa để khởi đầu cho một sứ vụ mới, sứ vụ làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Sứ vụ mới nay bắt đầu chính thức. Nhưng trước hết các ông cần có cái tâm an bình đã, vốn là hoa trái của đức tin. Có cái tâm an bình thì mới có thể đem tin bình an đến cho người khác được. Dĩ nhiên sự bình an mà Chúa Kitô muốn trao cho các môn đệ của Ngài chắc chắn không phải là bình an theo kiểu của thế gian, như lời Ngài khẳng định: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Bình an của thế gian theo nghĩa là không có chiến tranh, không có tai ương hay xáo trộn. Đặc tính dễ thấy nơi bình an thế gian là giả tạo, chóng qua. Vì bình an thế gian thường đến từ các “ngôn sứ giả” như thời Cựu Ước; bình an đến từ tiền bạc, danh vọng, quyền lực và những tiện nghi vật chất. Thế bình an mà Chúa để lại cho các môn đệ là gì? Thưa đó là bình an có Chúa luôn ở cùng, bình an có Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác đó chính là bình an ơn cứu độ. Bình an đó còn là gì nữa? Đó còn là chính Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Người được Đức Kitô ban xuống trong tâm hồn các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Đây là thứ di sản bền vững mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ; không như di sản trần thế: tiền bạc của cải, cổ phần cổ phiếu… là những thứ rất bấp bênh, nay còn mai mất, nay được giá mai mất giá….Các môn đệ có được bình an vì đức tin của các ngài đã có đường vững chắc để đi, đức cậy của các ngài đã có lối rõ ràng để về. Bởi vậy sau này các ngài không còn lo âu xao xuyến sợ hãi nữa, dẫu cho bên ngoài có còn nhiều sóng gió thử thách.

Nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.

Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Cuộc sống con người ngày hôm nay đang cần lắm sự bình an của Chúa. Bản thân cần sự bình an. Gia đình cần sự bình an. Cộng đoàn cần sự bình an. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết mở lòng ra đón nhận sự bình an của Chúa Kitô. Đồng thời biết trở nên như khí cụ bình an của Chúa, nghĩa là biết đem sự bình an của Chúa cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Hoa quả của Bình An, nhưng phải là bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, đó chính là: yêu thương, là tha thứ, là bao dung, là quảng đại, là khiêm tốn, là nhẫn nại và nhịn nhục.v.v…Khi trong tâm hồn chúng ta có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng ta rất biết thông cảm với người làm chúng ta bực mình; khi tâm hồn của chúng ta có sự bình an của Chúa Giêsu, thì chúng ta rất dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến chúng ta, chúng ta sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói, trong cử chỉ thái độ của mình… Hoa quả của bình an là như thế, nó chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Hội Thánh và phục vụ cho đến “hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình…” .

  1. Thần Khí sự sống

Sự sống lại là công trình đặc biệt của Thần Khí. Như Thần Khí đã làm cho Ngôi Hai trở nên con người (x. Lc 1, 35), thì trong kế hoạch cứu độ, Thần Khí cũng làm cho Đức Giêsu “trở nên” con Thiên Chúa qua việc sống lại (x. Rm 1, 4). Phúc Âm cho thấy là Thần Khí chi phối toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu (x. Mc 1, 12; Mt 12, 18.28; Lc 10, 21), và cũng chính Thần Khí làm cho mầu nhiệm nhập thể thành tựu trọn vẹn với biến cố phục sinh.

Đối chiếu cuộc hiện hữu tạm thời của Đức Giêsu với cuộc hiện hữu bất tử hậu phục sinh, Tân Ước gọi Ngài trong giai đoạn đầu là Đức Giêsu theo xác thể, còn trong giai đoạn sau là Đức Kitô theo Thần Khí (x. Rm 1, 3-4). Qua Đức Kitô, nhờ Thần Khí, Chúa Cha đã biến những kẻ đã chết vì tội lỗi thành người sống: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Như vậy, qua nhân tính của Đức Kitô phục sinh, Thần Khí đã thâm nhập vào trong vũ trụ, khai mở thời đại mới, và khởi động cuộc “thần hóa” toàn bộ thụ tạo.

Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao, nhưng “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).

Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.

Ðức Giê-su sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây. Trước khi lãnh nhận Thánh Thần, các môn đệ còn đang co cụm, lo âu, sợ chết. Nhưng khi Chúa phục sinh trao ban Thánh Thần cho các ông, tất cả các môn đệ đều được biến đổi, các ông hăng say ra đi làm chứng cho Chúa phục sinh.

  1. Trên đường Emmaus

Hai môn đệ làng Emmau thực sự đã trải qua những ngày hết sức đen tối. Tuy không phải là thành phần nòng cốt thuộc Nhóm Mười Hai, các ông thuộc nhóm môn đệ khá gắn bó với Ðức Giêsu. Bằng chứng là các ông đã không bỏ cuộc khi thấy Thầy các ông bị bắt và bị giết chết. Lý do vì các ông vẫn tin Thầy các ông chính là Ðấng cứu chuộc Ít-ra-en. Mãi tới ngày thứ ba, sau khi các bà đi viếng mộ và thấy mồ trống trơn, còn chính Ðức Giêsu thì chẳng ai gặp, các ông mới thất vọng và bỏ về quê ở Emmau. Tuy nhiên, chính trong giờ phút đen tối đó, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện đến với các ông, nhưng các ông không nhận ra Người. Bằng việc cắt nghĩa Lời Kinh Thánh dọc đường, Người đã làm lòng họ bừng cháy lên; kế đó, bằng việc bẻ bánh trong bữa ăn tối, Người đã mở mắt cho họ nhận ra Người.

Sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài như hai môn đệ cùng đi với Chúa trên đường Emmaus. Nhưng hai ông đã nhận ra Chúa nhờ Lời Chúa làm cho lòng các ông bừng cháy lên và nhờ Phép Thánh Thể khi Chúa “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa.

Và đã có những lúc chúng ta không thể nhìn khuôn mặt Chúa với chính những người thân đang sống chung quanh.Nhưng Chúa vẫn ở cùng đấy. Vẫn sống cạnh bên. Vẫn hiện hữu như muôn đời vẫn hằng hiện hữu. Vấn đề là chúng ta dám xin Người nán lại. Vấn đề là chúng ta phải luôn luôn nhạy bén nhận thức đuợc sự hiện hữu đó: “Có những lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã găp Người, nhưng chẳng biết Người!”

Chúa Phục sinh vẫn luôn đồng hành trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có nhận ra sự hiện diện thực sự của Người trong đời sống của chúng ta hay không, để như hai môn đệ Emmau, chúng ta vui mừng và không ngừng ra đi loan báo Tin mừng Phục sinh cho thế giới này.

Từ đây, Ngài trở nên người bạn đồng hành, chia vui, sẻ buồn với mỗi người chúng ta trên khắp nẻo đường đời. Hơn nữa, Đức Giêsu Phục Sinh còn hơn cả một người bạn đồng hành bình thường, bởi lẽ không chỉ đồng hành, Đức Giêsu còn giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, đem lại cho chúng ta một sự tự do đích thực, tự do của con cái Thiên Chúa. Trong Lời Chúa, trong bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang hiện diện và chờ đợi để được đồng hành, nâng đỡ mỗi người chúng ta mỗi ngày trong đời sống.

Xin Ngài ở lại với chúng tôi”. Dù hoàn cảnh ra sao, chúng ta cũng hãy xin Chúa: Xin Chúa luôn ở lại với chúng con trên đường đời đầy chông gai và gian khổ này. Xin Chúa ở lại với chúng con trong cái thế giới nhiều hận thù và ghen ghét, còn muốn đóng đinh Chúa nữa này. Xin Chúa lưu lại đây với chúng con, để dạy chúng con biết sống như những Kitô hữu “hồi sinh” và “biết chết” như những kẻ thừa kế của nước trời.

Ðức Giêsu phục sinh đã ban lại cho họ đức tin và niềm vui, bằng hai cách: giúp cho họ hiểu Lời Chúa, cử hành lễ Bẻ bánh. Ðây chính là 2 phương tiện giúp mọi tín hữu được gặp Ðức Giêsu phục sinh. Sau cảm nghiệm được gặp Ðức Giêsu, hai ông trở về Giêrusalem và loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ khác.

Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không “cháy bừng lên”, và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không “mở ra”? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Ðức Giêsu chứ không phải đọc với Ðức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài. Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Ðức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.

III. Sống và Loan Tin mừng PS:

– Sách Tông đồ công vụ (Cv 2, 42) đã nêu lên những việc mà các tín hữu phải làm để nuôi dưỡng và phát triển đức tin: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” Tham dự Thánh lễ, đọc- suy gẫm- thực hành Giáo huấn của Chúa, tham dự các buổi sinh hoạt… là những hoạt động bồi dưỡng và phát triển đức tin.

– Chúa Giê-su chịu chết và sống lại là trung yâm điểm của đời sống Ki-tô hữu và đạo chúng ta là đạo xoay quanh hệ điểm cái chết và sự sống lại của Người. Hàng tuần, ngày Chúa nhật, lúc cùng nhau cử hành thánh lễ, để công bố chiến thắng của Chúa trên tội lỗi và sự chết là chúng ta loan truyền Chúa đã chết và sống lại. Vì thế, đạo của chúng ta phải là đạo chết và sống song hành với nhau: chết cho tội lỗi, tính mê nết xấu và sống cho Chúa, mặc lấy những tâm tình từ bi nhân hậu, vị tha, tôn trọng điều răn của Chúa, hành đạo vì yêu mến và hiểu biết chứ không phải vì bị ép buộc hay sợ hãi, bởi vì chúng ta là con cái của thiên Chúa (x. Gl 4,6; Rm 14,29). Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.

Lễ Phục Sinh là một đại lễ chính yếu và nền tảng của Kitô giáo. Chính các ngày Chúa Nhật trong năm – theo ý nghĩa thực sự của chúng – là việc lặp lại hằng tuần sự mừng kính biến cố Phục Sinh của Ðức Giêsu. Vậy, ngày Chúa Nhật có nguồn gốc từ đại lễ Phục Sinh hôm nay. Không có biến cố Phục Sinh thì không có gì cả. Bởi đó, thánh Phaolo đã xác quyết: «Nếu Ðức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng vô nghĩa. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Giêsu chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Thế nhưng bây giờ Ðức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu» (1Cr 15,14.19-20). Ðức Kitô là người đầu tiên trong số những người đã an giấc ngàn thu, được chỗi dậy. Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã báo trước (Mt 20, 17-19; Mc 10, 32-34; Lc 18, 31-34). Ngài đã sống lại và sự chết không còn quyền hạn nào nơi Ngài nữa, nhưng chính Ngài sẽ là Đấng thống trị sự chết. Chúng ta sẽ bước theo chân Người, chúng ta cũng sẽ được chỗi dậy như Người. Ðó là niềm xác tín của chúng ta. Bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải Thiên Chúa của sự chết. Sự sống phải dành được phần chiến thắng.

-Mầu nhiệm Phục Sinh trong tâm hồn mỗi người: mầu nhiệm Phục Sinh mang một ý nghĩa đặc biệt, chết đi cùng với Chúa Kitô để được sống lại với Ngài. Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu sáng đời sống con người: Mầu nhiệm Phục Sinh trả lời cho những vấn nạn của con người. Chúa Giêsu, với việc phục sinh, loan báo rằng tận cùng của con người không phải là cái chết, mà chính là sự sống. Thánh Phaolô viết rằng: “Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thi mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô thì cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,21-23). Quả vậy, “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ sống lại với Người: đó chính là niềm tin của chúng ta. Chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6, 8-9).

– Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Ðức Giêsu sống lại: Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới. Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới. Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta  niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu. Bao nhiêu Lễ Phục Sinh qua rồi, bao nhiêu lần niềm hân hoan phục sinh qua rồi nhưng liệu rằng lòng của ta như thế nào khi mừng biến cố ấy. Đừng để biến cố ấy chỉ trôi qua cuộc đời chúng ta như ký ức, như kỷ niệm, như dịp để ăn tiệc thật to, để chúc tụng nhau qua những chum rượu, những ly bia … Xin hãy để biến cố ấy như một lần nữa nhắc nhớ chúng ta rằng quê hương của chúng ta ở trên Trời nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và xin cho chúng ta hãy sống như thế nào để cởi bỏ con người cũ để hướng lòng về trời cao – quê hương đích thực của chúng ta – nơi mà Chúa Giêsu – Đấng Phục Sinh  đang chờ đợi chúng ta.

Vị Thánh Tông Đồ xác định một cách rất rõ điều mà ngài cho là “những điều thuộc về thượng giới “, mà người tín hữu Chúa Ki Tô cần phải tìm kiếm, và ” những gì dưới đất “, mà người tín hữu phải tránh xa. Trước tiên, “những gì dưới đất” là gì, mà cần phải xa lánh: “Anh em hãy giết chết những gì thộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu xa và tham lam, mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (Col 3, 5-6). Giết chết đi nơi chúng ta lòng ham muốn không đáy đối với các của cải vật chất. Lòng ích kỷ là căn cội của mọi tội lỗi. Như vậy, khi Vị Thánh Tông Đồ mời gọi các tín hữu hãy cương quyết  tách rời khỏi “những gì thuộc dưới đất “, ngài muốn nói cho biết rằng điều gì thuộc về “con người cũ “, mà người tín hữu cần phải cởi bỏ đi, để mặc lấy Chúa Ki Tô.  

  Cũng rõ ràng như vậy, Thánh Phaolồ chỉ cho chúng ta “những điều thượng giới ” là những điều gì, mà trái lại người tín hữu Chúa Ki Tô phải tìm kiếm và nếm lấy. Những điều đó là những gì thuộc về “con người mới “, đã mặc lấy Chúa Ki Tô một lần và mãi mãi trong Phép Rửa, nhưng luôn luôn cần phải được tân trang lại “giống hình ảnh Đấng đã tạo ra mình ” (Col 3, 10). Và đây chúng ta thấy được Vị Tông Đồ Dân Ngoại diễn tả “những điều ở thượng giới ” đó như thế nào: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì vậy, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại, Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người nầy có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo ” (Col 3, 12-14). Ở thượng đỉnh chúng ta có đức bác ái, mà quy hướng về đó, tất cả các nhân đức khác phải múc lấy như là nguồn mạch và khuôn mẫu. Đức bác ái quy tóm và giản yếu “các điều thuộc về thượng giới “: đức bác ái, cùng chung với đức tin và niềm hy vọng, thể hiện quy luật cao cả đời sống Ki Tô giáo và xác định bản tính sâu đậm của nó. 

– Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài. Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi.

Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6, 6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).

  Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới.

Nếu Đức Giêsu chỉ sinh ra tại Bêlem, chỉ sống tạị đất nước Do Thái, chỉ chịu chết trên đồi Calvê, và chỉ phục sinh trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, mà không sinh ra, sống, chịu chết và phục sinh ngay trong tâm hồn ta, trong tâm thức ta tại đây và lúc này, thì tất cả những biến cố ấy của Ngài đều hoàn toàn vô ích đối với ta. Ngài có thật sự sống và hoạt động trong tôi thì tôi mới được biến đổi để trở nên giống Ngài. Sự hiện diện của Ngài trong tâm thức ta chỉ đạt tới tuyệt đỉnh và trở nên tích cực hoạt động khi nào ta có thể nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20).

Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh. Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên chi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.

– Lời rao giảng của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma. Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Ðức Giêsu: a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu; b/ Cái chết của Ngài; c/ Việc Ngài sống lại; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ. Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu. Vâng, chứng từ giản đơn về một “Ngôi Mộ Trống” của những người phụ nữ vô danh tiểu tốt, của những tên dân chài dốt nát xứ Galilê, cứ thế lan ra, vang xa đến mọi biên giới quốc gia, đến mọi miền đất nước như một lời tiên báo từ ngàn xưa: “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (TV 18,5). Sống mầu nhiệm Phục Sinh có nghĩa là loan báo Chúa Giêsu chịu chết vì tội lỗi chúng ta (1Cr 15, 20), Ngài “đã sống lại từ cõi chết” (1Cr 15, 20) và là Thiên Chúa “muôn đời hằng sống” (Kh 1,17).
-“Đạo phục sinh” là một kiểu nói mới được phục hồi từ ít lâu nay, để diễn tả một thực tại vô cùng phong phú bấy lâu bị chìm sâu trong kho tàng truyền thống của Hội thánh mà gần đây Hiến chế Phụng vụ đưa ra ánh sáng, để làm nổi bật địa vị chủ yếu của mầu nhiệm Phục sinh trong cuộc đời người tín hữu. Hiến chế viết : “Sự nghiệp cứu chuộc nhân lọai và tôn vinh Chúa Cha cách hoàn hảo đó, Đức Ki-tô đã chính yếu hoàn thành bởi mầu nhiệm Phục sinh qua cái chết, sự sống lại và lên trời của Người, nhờ đó khi chết Người đã hủy diệt cái chết của chúng ta và khi sống lại, Người đã phục hồi sự sống.” (số 5) Như thế, biến cố Chúa Giê-su chịu chết và sống lại là trung yâm điểm của đời sống Ki-tô hữu và đạo phục sinh là đạo xoay quanh hệ điểm cái chết và sự sống lại của Người. Chúng ta cần nhớ lại cuộc xuất hành của dân Do thái thóat khỏi Ai cập, vượt qua Biển đỏ tiến về Đất hứa (Xh 14, 15-30) và đặt tương quan giữa việc thoát ly Ai cập của dân Do thái với bí tích Rửa tội mới cảm được ý nghĩa của việc Chúa sống lại. Chúa sống lại để giải thoát chúng ta. Người đã đem chúng ta từ bóng tối ra ánh sáng, từ cõi chết vào cõi sống. (Ga 3,14). Chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô từ khi chịu phép Rửa, chết cho thế gian (1Ga 2.10, cho tội lỗi và những đam mê bất chính (Rm 6,12) và cũng đã sống lại với Người (Cl 2,12; Rm 6.4). Vì vậy, nguồn mạch mọi ơn cứu thoát phát xuất từ thánh giá- Phục sinh của Đức Ki-tô. Do đấy, thánh giá và phục sinh không thể tách rời nhau. Đó là hai mặt của một thực tại duy nhất: mầu nhiệm Phục sinh. Hàng tuần, ngày Chúa nhật, lúc cùng nhau cử hành thánh lễ, để công bố chiến thắng của Chúa trên tội lỗi và sự chết là chúng ta chúng ta loan truyền Chúa đã chết và sống lại. Ánh sáng phục sinh của Chúa Ki Tô phải xuyên thấu vào thế giới nầy, phải đến được trong thế giới như là sứ điệp của chân lý và sự sống cho tất cả mọi người, nhờ vào chứng nhân hằng ngày của chúng ta. Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – Chung cho các năm ABC

Chúa Chiên Lành

Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong chương 10 thánh Gioan. Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C). Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dành ngày Chúa Nhật hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, với ước mong, trong Giáo Hội ngày càng có nhiều “vị mục tử như lòng Chúa mong ước

  1. Trong lịch sử Do Thái, những người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr 10, 21; Ed 37, 23-24): chẳng hạn như vua Saun, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp nối truyền thống Do Thái, cũng gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng) là mục tử.

«Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng» (Ed 34,16). Ngôn sứ Êzêkien đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mêsia và dân của Ngài: «Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng» (Ed 34,23). Đấng Mêsia chính là người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: «Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên» (Tv 23).

Trong chương 34, ngôn sứ Edêkiên được linh ứng quở trách giới cầm quyền thời ông một cách thậm tệ. Họ đã trở nên những kẻ vô trách nhiệm, không những không lo chăm sóc dân mà còn trở nên những kẻ cướp bóc dân. Vậy Giavê Thiên Chúa sẽ cách chức họ. Chính Người sẽ đứng ra chăm lo cho dân Người. Cuối cùng Người sẽ cắt cử một Vị Mục Tử theo gương vua Ðavít xưa. Tất cả những điều tiên báo trong sách Edêkiên đều trở nên hiện thực nơi Ðức Giêsu. Ðức Giêsu vừa là vị Thiên Chúa Mục Tử, vừa là vị cứu tinh Mêsia, vừa là Con Vua Ðavít. Ðức Giêsu là Ðấng tự ý hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người là Mục Tử nhân lành chủ yếu vì lý do đó. Ngài tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Và Ngài lại còn làm hơn như thế. Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống Phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.

  1. Chúa Nhật hôm nay được gọi là “Chúa nhật Chúa chiên lành”. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân lành mà Cựu ước đã mô tả. Hình ảnh mục tử với đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống du mục của dân Do Thái bấy giờ. Đất nước Do-thái nằm trong một vùng đất bán sa mạc, nên các đồng cỏ không nhiều. Do đó, người mục tử thường phải cho chiên đi ăn ở những nơi rất xa, có khi hàng tuần lễ, hoặc cả mấy tháng trời mới về nhà. Trong thời gian cho chiên đi ăn, người chăn chiên coi như “cùng ăn, cùng ở” với chiên. Mối tương quan giữa họ và chiên thật thân thiết. Người mục tử chân chính biết rõ từng con chiên của mình và chiên cũng biết tiếng của họ. Họ gọi chiên của mình và chiên đi theo tiếng gọi của chủ. Có con nào bị lạc, họ liền đi tìm, con nào bị thương tích, họ hết lòng cứu chữa, và để giúp những con chiên nhỏ, yếu đuối đi kịp với cả đàn chiên, người mục tử cũng không ngần ngại vác chiên lên vai của mình.
    Trong thực tế, chúng ta thấy chiên là một loài động vật rất “nhạy” với tiếng của chủ. Nơi đồng cỏ, chúng có thể đi tứ tán khắp nơi, xen lẫn với các con chiên khác thuộc những chủ khác nhau để ăn uống, nhưng khi chiều về, chúng luôn nghe theo tiếng nói của chủ chăn để đi theo anh về chuồng mà không lạc sang bầy đàn khác. Người mục tử biết chi tiết từng con chiên một, con chiên nhận ra tiếng chủ chăn, kẻ thường nói chuyện với chúng, và nó phân biệt giữa tiếng nói chủ chăn với tất cả những tiếng nói khác.

Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được gọi là «ràn chiên», thường là một hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa ràn, lúc đó anh thực sự là cửa chuồng sống động (a living gate) cho đàn chiên phía trong. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Anh sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để chống chọi với chó sói, với cáo, chồn, hoặc sư tử hay cọp báo. Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa cho chiên ra vào- nơi mà ở đó, cả chủ chiên và chiên đều cảm nếm được nguồn bình an đích thực. Vâng, Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên. Và Người hứa rằng, tất cả những ai bước qua cửa ấy đều được no đầy ân sủng, lương thực và sự sống đời đời.

Hoặc các chủ chiên ban ngày dẫn chiên đi ăn, đêm về thường gửi chúng vào trong một trại lớn được gọi là ràn, có tường bao bọc kiên cố, có người canh gác hoặc chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Ðến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi tên các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Chúa Giêsu nói: “Người giữ cửa sẽ mở cửa cho anh ta; chiên anh sẽ nghe tiếng anh khi anh gọi tên từng con một và dẫn chúng ra. Khi mang chúng ra rồi, anh đi phía trước, lũ chiên đi theo anh vì chúng nhận biết giọng nói của anh”. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào. Nhưng dù vậy, chiên cũng không đến gần bọn họ vì chúng lạ họ. Nếu họ có đưa được con chiên nào ra khỏi chuồng thì cũng không phải để nuôi dưỡng nhưng để giết ăn thịt.

Hình ảnh quen thuộc nhất là người chăn chiên vác con chiên trên vai, một tay ôm hai cẳng chiên phía trước ngực, một tay chống gậy, tiến về phía trước. Trách nhiệm của người chăn chiên là chăm lo cho con/đàn chiên luôn được an lành, béo tốt. Cụ thể là lo cho chiên có cỏ non, có nước mát, được an toàn trước mọi đe dọa của kẻ trộm hay thú rừng. Vì thế mà người chăn chiên thường đi trước, dẫn đầu đàn chiên, để kịp đối phó với mọi bất trắc có thể xẩy ra khi tiến vào các khe núi hay trên sa mạc. Người chăn chiên tốt lành là người chỉ biết có chiên, chỉ lo cho chiên mà không nghĩ tới bản thân mình, thậm chí liều mạng sống vì chiên. Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh quen thuộc này để mạc khài về mình: ‘Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên!”

  1. Ngụ ngôn “Chúa chiên lành” này có liên quan với đoạn Tin Mừng trước. Khi Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh, những người Pha-ri-sêu nệ luật, sợ mất ảnh hưởng của dân chúng đã kết án Chúa Giê-su chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Họ chưa đối mặt với Chúa Giê-su mà chỉ gây khó dễ và cuối cùng đã trục xuất người mù được sáng mắt ra khỏi cộng đoàn. Thái độ của người mù thật đáng khâm phục! Anh đã can đảm biện hộ cho Chúa Giê-su và đã tin nhận Ngài là Ðấng Ki-tô. Bối cảnh đó rất thích hợp để Chúa Giê-su nói đến ngụ ngôn “Mục Tử Nhân Lành” này. Anh mù chính là “con chiên” đã “nghe tiếng” và đã “nhận biết tiếng” Mục Tử của mình. Lấy “thái độ của chiên đối với Mục Tử” làm tiêu chuẩn, Chúa Giê-su đã phân biệt đâu là “Mục Tử” và đâu là “kẻ trộm, kẻ cướp”. Chúa Giê-su cũng dùng “hành vi của Mục Tử đối với chiên” để nhận chân Mục Tử và kẻ trộm: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Như thế, chủ điểm thần học của đoạn Tin Mừng này là “mối tương giao” giữa Mục Tử và đàn chiên, cũng là giữa Thiên Chúa và con người, mà chúng ta cần chiêm ngắm và sống trong mùa Phục Sinh này.

Theo đó, bước qua Cửa ràn chiên, tức là kinh qua Lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã dạy; bước qua Cửa ràn chiên là bước theo con đường Người đã đi trong tình yêu và vâng phục; bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước qua Khổ nạn thập giá mà Người đã chấp nhận; cuối cùng, bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước đến vinh quang- nơi Chúa Cha ban tặng triều thiên sự sống.

  1. Chúa Giêsu- mục tử nhân lành

– Người là “Chúa chiên lành”: “Người biết từng con và yêu quý đoàn chiên mình” (Ga 10:3,14), “Người sẵn sàng thí mạng của mình vì chiên” (Ga 10:11). Người cho chiên của mình “sự sống dồi dào” (Ga 10:10), “sự sống vĩnh cửu” (Ga 10:28). Người cũng là “cửa chuồng chiên, ai đi ngang qua Người mà vào thì được cứu rỗi” (Ga 10:9). Khi một chiên bị lạc thì Người bỏ 99 con khác lại mà đi tìm nó cho được rồi vác lên vai đem về (Mt 18:12-14). Người ao ước cho tất cả trở thành một đoàn chiên theo một Chúa chiên (Ga 10:16).

-“ Ta là cửa chuồng chiên”. Chúa chính là chủ của đàn chiên và là chính cửa ngõ để, ai “qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi”. Là chủ của đàn chiên, Chúa đã sẵn sàng xả thân vì đàn chiên của mình, chấp nhận mọi gian nguy, thử thách, chấp nhận mọi sự thua thiệt để đàn chiên được ăn uống no thỏa và được sống. Hình ảnh “cửa chuồng chiên” Chúa như tường thành vững chắc để bảo đảm an ninh, sự tồn tại và phát triển của cả đàn chiên. Đàn chiên sẽ được an tòan, no say trong giấc ngủ mà “không sợ cảnh hãi hùng lúc đêm tối (Tv. 915-6). Núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, đàn chiên sẽ tìm được nơi ẩn náu an tòan, bởi “chính Ngài gìn giữ bạn, khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Lòng Chúa tín trung chính là khiên che thuận đỡ” (Tv. 91, 3-4).

 Khi minh định Ngài là Cửa chuồng chiên, Chúa Giê-su muốn khẳng định rằng bất cứ con chiên nào không qua Ngài không thể tới Chúa cha được. Dân Thiên Chúa phải đi qua cửa duy nhất là Ðức Giê-su. Ði qua Ngài, dân Chúa mới có tự do và đạt được cuộc sống viên mãn. Bước qua ngưỡng cửa là Ðức Giê-su, dân Chúa hay con người mới nhận được ơn cứu độ, sự sống mới, sự sống sung mãn Chúa ban cho. Đúng như thánh Phêrô nói trước hội đồng kỳ mục Do thái : “ Ngoài Ngài ra không ai đem lại ơn cứu độ.”(Cv 4, 12) Kẻ nào không ngang qua Ngài, chiên sẽ không biết, không nghe và không theo kẻ đó vì họ là kẻ lường gạt, trộm cắp.

  1. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng”: những nhà lãnh đạo dân Chúa thời Chúa Giêsu đã không sống theo tiêu chuẩn của những nhà lãnh đạo nên dân chúng không nghe họ; trong khi đó, dân chúng tin theo Chúa Giêsu vì Ngài có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 68). Các kinh sư và Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên.

Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23 13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng chặt chẽ, bưng bít hơn. Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp: một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt.

Mục tử chưa được kết hợp với Chúa Giêsu, tầm cỡ như ông Môsê, ông Giosuê, vua Đavid, hay các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia …cũng không đem lại sự sống đời đời cho ai, ngoại trừ Mục Tử Giêsu (x Cv 4,12). Bởi đó Đức Giêsu nói : “Hết thảy mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm là cướp” (Ga 10,8a), vì các mục tử tốt trước Chúa Giêsu có đem Luật Chúa cho dân, thì Luật đó vẫn còn giam người ta trong tội (x. Gl 3,22). Luật giam chúng ta trong tội, vì Luật nào cũng nhằm hai tiêu chuẩn: Cấm làm điều xấu và dạy làm điều tốt. Nhưng trong thực tế không ai có thể chu toàn hai tiêu chuẩn này. Thánh Phaolô coi Luật như quản giáo dẫn ta đến kết hợp với Chúa Giêsu, mới được cứu độ (x. Gl 3, 24).

Đức Giêsu đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa, đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là để khẳng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người. Họ thậm chí lên tiếng kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)

  1. Mục tử như lòng Chúa mong ước

– Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay chính là giới giáo sĩ, được mệnh danh là linh mục, tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác hơn là Đức Ki-tô – ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó, và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”

Các vị Mục Tử phải là những người gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô, nghe tiếng Người, giảng dậy, cắt nghĩa giáo lý, chân lý của Người. Hình ảnh người chăn chiên cầm tù và, thổi tụ họp đàn chiên, mệt lả vác chiên lạc trên vai khi tìm thấy, luôn phải là hình ảnh sống động của các Mục Tử Chúa, đang nối tiếp sứ vụ của Chúa Phục Sinh giữa trần gian này. Ðức tính căn bản của người Mục Tử tốt lành là tình yêu tự hiến của Chúa Giê-su, một tình yêu luôn ước ao và chờ đợi con người đáp trả.

Chắc chắn không phải là không có ý nghĩa việc Đức Giê-su, trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Ngài, đã phải hỏi ông tới ba lần: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?». Thật vậy, có yêu Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu, có yêu Đức Giê-su nồng nàn thì mới có đủ tình yêu cần thiết để hy sinh cho đàn chiên như nhu cầu thực tế của đàn chiên đòi buộc. Người mục tử có thật sự yêu thương đàn chiên, thì đàn chiên mới cảm nhận được tình yêu người mục tử dành cho họ, để dựa vào đó họ tin tưởng và nghe theo người mục tử. Người mục tử sẽ chẳng làm được gì ích lợi cho đàn chiên nếu đàn chiên không tin tưởng và không vâng nghe lời người mục tử. Tóm lại, muốn đàn chiên tin tưởng và nghe theo mình, người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên.

Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn. Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi :

– Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?

– Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào: “Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con”. Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.

Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3 hành động sau: một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương tích hay lạc mất. Ba là can đảm thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên. Đức Giê-su đã đưa ra những hành động cụ thể của Ngài, với tư cách là Mục Tử tốt lành như sau:

+ Trước hết là «tôi biết chúng» (Ga 10,27), và có thể «gọi tên từng con» (10,3). Nếu người mục tử yêu thương chiên của mình thật sự, thì sẽ phải chú ý đến nhu cầu của từng con chiên một, để chăm sóc chúng, để đáp ứng đúng nhu cầu của từng con. Tôi biết có những linh mục thường xuyên đi thăm các gia đình trong họ đạo, và biết rõ tên của từng người trong từng gia đình, cùng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình một. Người bổn đạo sẽ cảm nhận được tình thương của người mục tử ngay khi thấy ông gọi trúng tên mình, biết rõ hoàn cảnh của mình, và đáp ứng kịp thời đúng nhu cầu của mình.

+ «Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), «Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi» (10,28). Người mục tử tốt lành luôn quan tâm đến sự sống, hạnh phúc và sự an nguy của đàn chiên, nhất là đời sống tâm linh. Nhưng ông không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến cả đời sống thực tế của đàn chiên. Đức Giê-su luôn luôn quan tâm đến nhu cầu vật chất của dân chúng: chẳng hạn trong phép lạ hóa bánh ra nhiều: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (Ga 6,5), hay sau khi làm cho đứa con gái ông Gia-ia (trưởng hội đường) chết sống lại, thì Ngài «bảo họ cho con bé ăn» (Mc 5,43).

+ «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Không người mục tử nào ngu dại đến nỗi coi sự sống của đàn chiên quí hơn mạng sống mình. Đàn chiên ở đây là những con người, là hình ảnh Thiên Chúa hay con cái Thiên Chúa, hay nói cách khác là hiện thân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đã yêu thương con người đến nỗi đã sẵn sàng hy sinh Con Độc Nhất của mình cho con người (x. Ga 3,16). Người bổn đạo đối với người mục tử không phải chỉ là những con chiên mà là những linh hồn hết sức quí giá, đáng cho người mục tử hy sinh mạng sống mình vì họ. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người làm thuê, hay mục tử giả: «khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy (…) không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).

Người chăn chiên chân chính là người (1) “qua cửa mà vào”, tức là làm việc vì Chúa (Chúa là cửa), (2) sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên,” nghĩa là biết quên mình, biết hy sinh thì giờ, tiền bạc, danh vọng và ngay cả mạng sống mình cho những ngưởi Chúa trao phó cho mình. Họ không hành động như kẻ trộm hoặc kẻ làm thuê.

 Những mục tử xấu, giả hiệu

Thánh Kinh không chỉ nói đến những mục tử tốt lành, nhưng còn nói đến những mục tử giả hiệu – mà Đức Giê-su ví như bọn chăn chiên thuê – chỉ biết nghĩ đến mình, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của mình, chỉ biết rút ra những lợi lộc từ đàn chiên, mà không nghĩ gì đến quyền lợi hay hạnh phúc của đàn chiên. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en viết: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (…) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm» (Ed 34,2-6). Thiên «Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm» (Ed 34,4) «Chúng là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn – chẳng trừ ai – chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình» (Is 56,11). «Các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác» (Gr 23,2). «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa» (Gr 23,1-2). Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en để nguyền rủa loại mục tử này: «Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (…) để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa» (Ed 34,8b-10).

Kẻ trộm: Như Chúa đã nói, những người “không qua cửa mà vào chuồng chiên thì kẻ trộm cướp” (Ga 10:1). Tất cả những ai làm việc cho Chúa vì mục đích riêng chứ không phải để vinh danh Chúa đều bị Chúa coi như kẻ trộm vì đã “không qua cửa mà vào.” Những người ấy không những chỉ ăn trộm và hại chiên mà còn ăn cắp cả vinh danh của Thiên Chúa.

Kẻ làm thuê: “Một người làm thuê không phải là mục tử, và đàn chiên không phải là của anh ta, nên khi thấy sói đến thì anh ta bỏ đàn chiên mà chạy trốn. Nên sói bắt chiên và làm chúng bị tan tác, vì anh ta làm thuê nên không lo lắng gì cho đàn chiên” (Ga 10:12-13). Tất cả những ai làm việc cho Chúa mà còn mong muốn được tiếng khen hay phần thưởng, hoặc muốn được thấy kết quả, đều là những kẻ làm thuê, vì mong được chủ trả lương. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,1213). Vì thế, trong tôn giáo, những người Pharisêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,56). Họ giảng dạy toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm, chứ không phải để họ làm (x. Mt 23,23). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là «Rabbi» hay «Thầy» (23,6). Đức Giêsu muốn cho người Pharisêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu thương chúng.

Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên. Nhưng chắc chắn cũng có những mục tử chưa yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi. Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cải thế giới và xã hội thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa tình người hơn.

  1. Chúng ta là dân tộc là đoàn chiên Chúa chăn nuôi” (Tv 99:3).

– Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại. Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.

Ta biết chúng” (Ga 10:27).  Theo ngôn ngữ Do Thái, động từ “biết” nói lên một mối tương giao thâm sâu, gần gũi (chứ không chỉ biết bằng trí óc), yêu thương như mối tương giao vợ chồng. Nói cách khác, biết ai tức là yêu thương, gắn bó với người ấy. Đức Giêsu yêu thương và gắn bó với đoàn chiên của mình là Giáo hội, tức là toàn Giáo hội và từng thành viên trong Giáo hội. Chúa biết chúng ta từng người một và cả tên tuổi của chúng ta nữa (Ga 10:3). Ngài biết rõ từng nỗi ưu tư, từng nỗi băn khoăn lo lắng của chúng ta. Ngài cũng biết rõ lòng nhiệt thành cũng như những yếu đuối của chúng ta. Thánh Vịnh 139 nói lên tâm trạng của Vua David – một kẻ lầm đường lạc lối nghe theo dục vọng – nhưng sau khi tỉnh ngộ, ông đã viết lên bài thánh ca này: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (Tv 139, 1-4).

Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi rông. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Và nếu lỡ chúng ta bỏ bầy đi rông thì Ngài sẽ bỏ lại 99 con chiên để đi kiếm chúng ta.

Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trát tim yêu thương của Người. Điều kỳ diệu vẫn là Chúa yêu thương chúng ta trước, Chúa đi bước trước đến với chúng ta trái ngược với ý nghĩ chúng ta tưởng mình yêu thương Chúa trước. Chúa yêu thương con người vô điều kiện, yêu thương vô bờ bến. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến”( Ga 15, 13 ).

Ngay từ trong Cựu Ước đã có tuyên bố về Thiên Chúa rằng “không ai có thể giật cái gì khỏi bàn tay của Người được” (x. Is 43,13). Mối tương quan giữa Ðức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng “không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (c. 28). Lý do “vì Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30) mà Chúa Cha “lớn hơn tất cả” thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu! Ngài đã sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, chúng con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, chúng con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quẳng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Gioan 15:4-6).

 Sự an toàn này được diễn tả rõ ràng bởi Phaolô trong một thánh thi đặt vào cuối thư Rôma chương 8: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (8,38-39).

Đoàn chiên của Chúa Giêsu cũng có những đặc tính riêng biệt: không nghe mà còn chạy trốn người lạ (Ga 10:5), chỉ nghe và theo sau Chúa Giêsu mà thôi (Ga 10, 4, 27). Hơn thế nữa chiên của Chúa Giêsu thì còn “biết rõ Người là ai” (Ga 10:14). Như vậy, chúng sẽ không bao giờ “bị diệt vong nhưng được sống đời đời” (Ga 10:28). Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã đem lại cho con người. Sự sống đó chỉ dành cho những ai lựa chọn nghe theo tiếng Chúa, sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô chịu tử giá và phục sinh.

Chúa muốn mỗi người, mọi người chỉ nghe tiếng gọi yêu thương duy nhất của Người, tiếng gọi cứu độ và ơn giải thoát của Người. Chúa luôn yêu cầu con người, mỗi người hãy đặt sinh mạng, cuộc đời của mình trong bàn tay nhân từ của Người, đừng nghe theo bất cứ tiếng gọi nào vì có thể đó là tiếng gọi của tiền tài, danh vọng, tình dục, thế gian và ma quỷ. Chúng ta đang để Chúa hướng dẫn hay tiền bạc, danh vọng, ma quỉ? Điều quan trọng là chúng ta có nghe được tiếng Chúa không. Nhất là những khi chúng ta gặp thử thách, đau buồn, chúng ta có lắng nghe Chúa hướng dẫn chúng ta không?  Chúng ta có chạy đến với Chúa không? Có đi theo Chúa không?

Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Lời Chúa là sự sống, là ánh sáng, là đường đi, là sự thật nên con chiên nghe theo, và sẽ không bao giờ lạc lối hoặc bị nguy hại hay tổn thương. Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phao lô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống gian dối, lừa đảo để được mối lợi vật chất, bỏ đi hận thù, ganh ghét, nói xấu, chửi bới, đánh đập nhau… và còn biết bao điều bất hạnh khác mà chúng ta có thể đang mắc phải. Bỏ đi được những điều đó chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm thấy cuộc sống đời đời và bảo đảm không bị mất. Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.

Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác. Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được. Theo Chúa là bước đi trên con đường mà Chúa đã đi. Con đường đến với những người nghèo, người tội lỗi, người bệnh tật, người bị xã hội bỏ rơi để an ủi, nâng đỡ họ, đem tình yêu của Chúa đến cho họ,…

Ngày nay đức tin nơi nhiều người Kitô hữu đang bị phai nhạt, giảm sút. Sống trong xã hội hưởng thụ vật chất, ưa tìm an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để thoải mái chạy theo những ước muốn bất chính tự nhiên của con người. Người ta dùng nhiều lý do để bào chữa cho tội lỗi mình, để khỏi phải thống hối và dứt bỏ cảm giác thoải mái do cuộc sống bất chính đem lại. Con người đang dùng tự do của mình để chối bỏ Thiên Chúa, không muốn lắng nghe tiếng Ngài là Đấng Chăn Chiên tốt lành.

Chúa Giê-su là vị mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết và biết rõ từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài đã sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương và chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.

Một điều tai hại hơn nữa là khi chúng ta – thay vì nghe lời Chúa – lại nghe lời cám dỗ của ma quỷ, danh vọng, lạc thú hay tiền tài.  Tổ tông của chúng ta đã sa ngã vì chuyện này nên chúng ta phải luôn đề phòng tỉnh ngộ để biết phân biệt đâu là tiếng Chúa chứ không của ai khác.  Ước mong rằng chúng ta sẽ nghe và vâng theo lời Chúa! Chúng ta sung sướng cảm tạ Chúa đã chọn lựa và săn sóc chúng ta như đoàn chiên quý yêu của Người. Được Chúa chăn nuôi săn sóc chúng ta không còn thiếu thốn gì. Hình ảnh cuộc sống hạnh phúc ấm no thanh bình đó được diễn tả trong TV 23: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Người dẫn tới bên suối nước mát, Người bồi bổ sức tâm hồn. Người dọn cỗ bàn cho ăn, xức dầu thơm trên đầu và rót chén rượu hoan lạc tràn đầy. Dù có phải đi qua trong thung lũng tối đen, tôi cũng không lo ngại gì vì đã có Chúa ở cùng tôi.” Cứ thế, ngày này qua ngày khác tiếp nối cho tới khi về thiên đàng muôn kiếp thì thật quả là một cuộc sống hạnh phúc tràn đầy. Đó cũng là chính là cuộc sống Công Giáo theo Chúa của chúng ta với 7 Bí tích ban ơn Thánh bồi bổ và chữa lành, với 10 giới răn Chúa và 6 giới răn Giáo hội như “cây roi và cái gậy của Người” làm an ủi lòng chúng ta (Tv 23)

Thánh Phêrô đã so sánh chúng ta, là những kẻ tin vào Đức Kitô, như những con chiên lạc, giờ đây đã trở về lại với đàn chiên: “Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em”. Chúng ta sung sướng cảm tạ Chúa đã chọn lựa và săn sóc chúng ta như đoàn chiên quý yêu của Người. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”.

– “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16): Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, không chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc nhờ các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được trao cho các môn đệ và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta trước khi Người về trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl 3, 28). Mọi người, mọi dân tộc đều có thể gia nhập đoàn chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn nhân loại (x. 1Tm 2, 4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại trong một đại gia đình, một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức và quyết tâm của mỗi người tín hữu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng “được sai đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay không.

Ở đây, còn một lý do thâm sâu, cốt lõi nữa là vì mục tử biết chiên, biết ở đây có nghĩa là hiểu rõ hoàn cảnh bi đát, tội lỗi, thiếu thốn của mỗi người, nên mục tử là Chúa Giêsu đã yêu thương con người, đã tìm chiên lạc (Mt 18, 12-14), những chiên tản mác, lang thang khắp nơi (Is 53, 6), qui tụ lại thành ràn (Ga 11, 52).
Là những Kitô hữu, chúng ta đang thuộc về đòan chiên của Mục tử nhân hiền Giêsu. Ngài hết lòng chăm lo cho mọi người và từng người trong chúng ta. Ngài biết chúng ta cần gì, và sẵn sàng ban những ơn cần thiết cho chúng ta. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu lại còn hiến mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, giúp chúng ta có đủ sức trong hành trình tiến về thiên quốc.

Chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin tha thiết cho bao con chiên đang lầm đường lạc lối, không biết lắng nghe và không chịu bước theo tiếng nói của Giáo hội. Xin cầu cho bao con chiên khác chưa thuộc cùng một ràn, được nên chung một đàn, với một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô (Ga 10:16). Xin cho Tin mừng Tình yêu Cứu độ của Ngài được mọi dân nước tin nhận. Để nhờ đó hoa quả hạnh phúc thiên đàng sẽ nở tươi ngay trên trần gian.

– Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, mẫu gương cho tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn lớn nhỏ, đặc biệt là các chủ chăn. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta. Đồng thời cũng là dịp cho các mục tử nhìn lại ơn gọi và sứ vụ của mình để hăng say, nhiệt thành và khiêm tốn phục vụ Chúa Kytô và Nhiệm Thể của Người. Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.

Hình ảnh người mục tử còn là hình ảnh của những người cha, người mẹ đang ngày đêm lo lắng bảo vệ con con cái. Các ngài đã hy sinh cuộc đời vì hạnh phúc các con. Các ngài đã trải qua những mưa nắng khắc nghiệt của dòng đời để mang lại cơm no áo ấm cho đàn con. Các ngài đã chấp nhận chịu tiêu hao như hạt lúa chịu mục nát đời mình cho con cái lớn khôn. Xin Chúa cho các ngài luôn bước theo và múc lấy nguồn sống từ vị Mục tử Nhân lành.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH

NĂM A

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật thứ V Phục Sinh năm A này là Niềm Tin vào Đức Giêsu. Thật vậy, ngay từ bài đọc I trích sách Công Vụ cho chúng ta thấy: Nhờ vào việc rao giảng của các tông đồ mà thời đó đã có “một nhóm Tư Tế tin vào Chúa Giêsu” (Cv 6, 7) và bài đọc II lấy từ thư của Thánh Phêrô cũng diễn giải Chúa Giêsu là viên đá góc tường : “Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1Pr 2, 6c). Sang bài Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu qủa quyết Ngài là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, ai tin vào Ngài thì sẽ có sự sống đời đời (x. Ga14, 6).

Tin Mừng Ga 14,1-12

  1. Bài Tin Mừng hôm nay, và cả chương 14 của thánh Gioan, là lời giã từ của Ðức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Lời giã từ này không có tính buồn thảm, trái lại đây là những lời khích lệ nâng đỡ các môn đệ đang buồn sầu trước cảnh chia ly. Chính vì thế Giáo Hội đã cho đọc vào mùa Phục Sinh để giúp ta sống tin tưởng và hy vọng Chúa trở lại.

Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật, bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30)… rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36)… Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38).

  1. “Tim anh em đừng xao xuyến!” Xao xuyến đụng đến phần sâu nhất của con người là trái tim. Có ai trong chúng ta đã không từng bị xao xuyến? Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Các ông như từ trên cao rớt xuống: Hụt hẫng, chới với, chao đảo.

Tất cả đều là những biến cố kinh khủng, ảnh hưởng đến đời sống của họ, phá vỡ những gì họ đã xây dựng. Phải xa cách Thầy, phải tự mình đương đầu với một thế gian thù nghịch: những điều đó làm họ xao xuyến. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.

“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài. Ngài không mời họ tin “có” Thiên Chúa và tin “có” Ngài. Ngài mời họ hãy tin “vào” Thiên Chúa và tin “vào” Ngài. Ðây là sự trao phó trọn vẹn tất cả những gì mình có cho Thiên Chúa và cho Ðức Giêsu, Ðấng ban bình an đích thực, khiến cho mọi sợ hãi xao xuyến nơi lòng người tín hữu Kitô sẽ không còn tồn tại (x. Ga 14, 27). Còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3). Người ra đi không phải là để bỏ rơi, quên lãng các vị, mà là đi để dọn chỗ và sẽ trở lại để đem các vị đến ở chung với Người. Rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14, 1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.

Chúa hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế” (Ga 14, 18 ). Chúa bảo đảm với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi” (Ga 14, 16 ). Nếu tin thì không còn xao xuyến nữa. Người cho các ông biết rằng việc Người ra đi sẽ mang đến cho các ông nhiều mối lợi mà một trong những mối lợi đó là việc Chúa Thánh Thần sẽ đến ở cùng các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).

Chúa Giêsu khuyên các vị hãy chiến đấu chống lại tình trạng giao động đó trong tâm hồn các vị, bằng những lời liên tưởng đến Thánh Vịnh 42: “Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn táng tụng Ngưòi, Người là Đấng Cứu Độ, là Thiên Chúa của tôi ” (Tv 42, 6).

Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (x. Tv 131, 2)

Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta. Cuộc đời sống đạo là một cuộc lên đường. Người tín hữu gắn bó với Chúa Phục Sinh đang đồng hành với mình tựa như người lữ khách gắn bó với con đường. Kitô hữu nên một với Ðấng là “Ðường, Sự Thật và là Sự Sống”. Lúc này, người tín hữu có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20).

Chúng ta chỉ hết xao xuyến khi chúng ta buông tất cả mọi chỗ dựa vào người đời, để chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ hết xao xuyến khi biết cuộc chia ly đau đớn với Thầy không phải là vĩnh viễn. “Thầy đi để dọn chỗ, rồi Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó.” Như thế phải tin rằng cái chết cũng không ngăn cách được Thầy trò. Ðức Giêsu sẽ trở lại: trở lại qua những lần hiện ra sau phục sinh, trở lại vào ngày Quang Lâm hay vào ngày chết của từng môn đệ, trở lại qua việc Chúa Cha và Ngài cư ngụ trong lòng từng người nhờ Thánh Thần (Ga 14, 23).

  1. Thầy là Ðường- “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”: câu này là đỉnh cao trong nền thần học của Gioan. Ðức Giêsu là con đường duy nhất dẫn đến Thiên Chúa Cha, con đường duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. “Không có một Danh nào khác dưới bầu trời, được ban cho loài người, để nhờ Danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ.” (Cv 4, 12). Ðức Giêsu là con đường duy nhất, vì duy mình Ngài là Ðấng ở bên Thiên Chúa, là Con Một ở trong lòng Cha (Ga 1,18); duy mình Ngài là Ðấng đã thấy Thiên Chúa trong bản tính sâu thẳm; duy mình Ngài là Ðấng biết Thiên Chúa Cha; là mạc khải trọn vẹn và hoàn hảo về Cha, là hiện thân của chân lý: “Không ai biết Con trừ ra Cha, không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho” (Mt 11, 27). Kitô giáo là tôn giáo tin rằng Thiên Chúa đã đến cứu độ cả nhân loại qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, bởi vì Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là người. Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ có ánh sáng ban sự sống và sẽ không bao giờ bước đi trong tối tăm” (Ga. 8,12).

Chỉ có con đường của Chúa Ki-tô mới dẫn ta đến Thiên Chúa.  Do đó, ta phải đổi đường, hoặc nói khác đi, phải sám hối, phải quay đầu hướng về Thiên Chúa.  “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.  Ta phải quay lưng lại tội lỗi và lắng nghe cùng thực thi Lời Chúa.

Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng dẫn đường, Đấng ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x. Mt 16, 24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x. Ga 3, 5). Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương. Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh.

Thánh Gioan đã giúp ta cảm nghiệm được thánh ý của Chúa Giêsu đang sống, khi ngài răn dậy các Kitô hữu tiên khởi làm thế nào để lắng nghe được lời mời gọi thiết thực của Người là “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14, 1) trong thư của ngài như sau: “Hễ ai giữ lời Người dậy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hòan hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.” (1Ga 2, 5-6a) Cả cuộc đời Chúa Giêsu: sinh ra, lớn lên, đi rao giảng, chịu đóng đinh, chết, sống lại, lên trời, tất cả vì chúng ta, vì hạnh phúc vĩnh cửu của loài người. Chỉ có một tình yêu lớn lao như tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu của Đấng mang trái tim Thiên Chúa đã làm người, mới có thể mạnh mẽ, mãnh liệt như thế, mới trở nên quá đỗi kỳ diệu và tuyệt vời như thế.

  1. Chúa Giêsu là Sự Thật, là chân lý: Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ở trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa. Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32).

Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Về chân lý, Chúa Giêsu cho biết, ai biết Người thì cũng biết Chúa Cha, vì Chúa Cha mạc khải chính mình nơi Chúa Giêsu. Người mạc khải trọn hảo Chúa Cha cho chúng ta.

  1. Chúa Giêsu là Sự Sống: Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà “Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta ” (Ga 20, 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha. Sau khi phục sinh, Chúa sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3, 36; 10,28). “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). “Ai ăn mình Ta và uống máu Ta sẽ có sự sống đời đời, và Ta sẽ họ sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54) Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.

Ðức Giêsu chính là Ðường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương thiên đàng. Ðức Giêsu chính là Sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Ðức Giêsu chính là Sự sống. Sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời. Người chính là Ðấng cứu độ duy nhất. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ.

Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

  1. Tương Quan Cha-Con: Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8). Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh… Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa. Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.

Chúng ta chỉ mãn nguyện khi được thấy Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy, Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (x. Ga 1,14). Thiên Chúa vốn là Ðấng không ai thấy bao giờ, không ai lại gần được; chính Ngài đã muốn trở nên hữu hình khi cho Con của Ngài mang thân phận phàm nhân, sống giữa chúng ta. Như thế, Thiên Chúa siêu việt đã trở nên gần gũi; Thiên Chúa oai hùng đã trở nên dễ mến, dễ quen. Giữa Ðức Giêsu và Thiên Chúa Cha có một mối dây gắn bó độc nhất vô nhị, đến nỗi Ðức Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (x. Ga 14,7), “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9). Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha. Tại sao ai thấy Ðức Giêsu là thấy Chúa Cha? Ðức Giêsu mời gọi chúng ta tin vào mầu nhiệm này, đó là Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy (14,10). Một tương quan hai chiều, đến nỗi như tan hòa vào nhau. Ðức Giêsu trọn vẹn thuộc về Cha, cả trong lời nói lẫn hành động. “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra” (14,10). Ðức Giêsu chẳng tự tiện nói, cũng chẳng tự tiện làm việc gì của mình. Khi Ngài làm, thì chính Chúa Cha, Ðấng luôn ở trong Ngài, đang làm những việc của Chúa Cha (14,10). Như thế toàn bộ cuộc đời Ðức Giêsu được Cha chiếm ngự và chi phối, đến nỗi “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Vì Người chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23). Người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân chúng ta. (x. Ga 1, 14). Con người không còn phải đi tìm Thiên Chúa ở nơi xa thẳm, không còn phải tìm gặp Ngài trong những thị kiến hay qua những kỹ thuật chiêm niệm bí truyền. Chỉ cần gặp Ðức Giêsu là gặp được Thiên Chúa. Chỉ cần biết Ðức Giêsu thật sâu là biết được mầu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giê-su đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ.

Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha. Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết  Đức Giêsu là chúng ta biết  Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết. Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh.

Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài. Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giê-su.

Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.  

 

  1. Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mạng cứu độ loài người của Đức Giê-su. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su. Nhưng sau khi Người lên trời, các ông sẽ được trao cho sứ mạng thay Người đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới, với ơn phù trợ của Thánh Thần (x. Cv 1,8).

Chúng ta cần được Thiên Chúa chiếm trọn, để qua chúng ta, Thiên Chúa làm những việc lớn lao cho thế giới hôm nay như Chúa đã làm những việc lớn lao nơi Mẹ Maria: Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…Ước gì cuộc đời chúng ta cũng trở nên trong suốt và phản ánh Thiên Chúa nhân hậu, để ai thấy chúng ta cũng thấy được phần nào Thiên Chúa. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.

  1. Làm Kitô hữu là làm người như Ðức Giêsu Kitô,
    là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay,
    là ước ao nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Ðức Kitô,
    ai thấy tôi là thấy Ðức Kitô.”
    Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.

Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương và phục vụ. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Nỗi ưu tư của các tông đồ xưa, cũng chính là nỗi ưu tư của từng người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống, trước một tương lai bấp bênh, trước những trách nhiệm trong gia đình, xã hội đang đè nặng trên đôi vai của chúng ta. Đó là nỗi lo của các bậc làm cha mẹ trong việc hướng dẫn, giáo dục con cái. Đó còn là trăn trở của các bạn trẻ trước một tương lai còn mù mờ. Nó còn là những khắc khoải của từng người chúng ta trước sự im lặng của Thiên Chúa. Những khó khăn đó đôi lúc như muốn đè bẹp chúng ta. Nó khiến chúng ta bối rối, không biết phải làm gì. Suy nghĩ kỹ, chắc hẳn mỗi người chúng ta nhận ra rằng chúng ta bối rối, vì chúng ta đang khép kín và muốn tự mình giải quyết. Chúng ta giải quyết mọi việc như là không có Thiên Chúa. Nhưng lời Đức Kitô hôm nay, kêu gọi chúng ta: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, nghĩa là giao trọn cuộc đời mình cho Chúa, để Ngài hướng dẫn và dìu dắt.

NĂM B

Thầy là cây nho…

  1. Trong Cựu ước, dân tộc Israel “dân tuyển chọn của Chúa“, vẫn được ví như vườn nho của Thiên Chúa: “Vườn nho của Đức Chúa Giavê, ấy là nhà Israel. Cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy là người xứ Giuda” (Is 5,7; x. Tv 80,9-20). Nhưng suốt dọc lịch sử dân tộc Israel, một dân tộc “cứng đầu cứng cổ“, những lời thở than, khiển trách, cảnh cáo hay đe dọa về vườn nho “không sinh hoa trái“ vẫn vảng vất đó đây. Ngôn sứ Isaia trong đầu chương 5 đã mở đầu bằng lời thỏ thẻ của người yêu về vườn nho: “Tôi hát bài ca của người bạn yêu về vườn nho của Người. Bạn tôi có một vườn nho chênh chếch mỏm đồi mầu mỡ” (Is 5,1). Nhưng ngay sau đó là tiếng thở dài não nuột thất vọng của người yêu: “Người trông nó sẽ sai trái nhưng nó đã sinh nho dại. Có gì làm hơn được cho vườn nho của Ta, mà Ta đã chẳng làm? Ta những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?… Ta chỉ mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Is 5, 2. 4. 7). Hoặc như Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a đau buồn vì dân tộc ông đã biến thành một cây nho lạ, thoái hoá: “Ta trồng ngươi như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao ngươi lại trở thành cây nho dại” ( Gr 2, 21 ). Hay trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa trách cứ dân Người nặng như một lời đe dọa: “Cũng như gỗ cây nho trong đám cây trên rừng đã bị Ta quăng làm mồi cho lửa, thì dân cư Giê-ru-sa-lem cũng bị Ta thiêu như thế” ( Ed 15, 6 ).
    Buớc sang Tân Ước, Dân Chúa chọn ngày nay chính là Hội Thánh. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh năm phụng vụ B hôm nay, Chúa Đức Giêsu nói với các môn đệ: «Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho“. Tiếp sau đó, Ngài nói rõ mỗi Kitô hữu là “cành nho“: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được“ (Ga 15,5). Sau đó, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh cáo: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” (Ga 15,2 và 6)
  2. Đức Kitô phục sinh chính là “Nguồn mạch Sự Sống”, là “Cây Nho Thật” mà “Thiên Chúa đã trồng” trên cánh đồng trần gian để ban mạch sống cứu độ cho các Kitô hữu là những cành nho đang được tháp nhập trong Ngài. Đó chính là huyền nhiệm cốt lỏi về Hội Thánh, về Đoàn Dân mới được cứu chuộc trong Đức Kitô phục sinh. Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hôm nay là Ngài đồng hoá mình với cây nho. Sức sống của nó và các cành đều đến từ Thiên Chúa. Ngài không nói về tương lai, hoặc cuộc đời sau cái chết khi nhân loại sống mật thiết với Thiên Chúa, mà chính ngay cuộc đời này. Bởi lẽ Ngài dùng thì hiện tại. Nghĩa là ngay lúc này các môn đệ và chúng ta phải kết hợp với Ngài bằng sự sống hữu cơ như cành với cây và cố gắng hết sức duy trì sức sống đó.

  1. Ở lại với Chúa Giê-su bằng cách nào? Chúa Giê-su cho ta câu đáp, đó là tuân giữ lệnh Người truyền: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15, 10) và các điều răn ấy đã được Chúa Giê-su tóm gọn trong quy luật yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12) Chúa Giê-su đã tỏ cho chúng ta biết bí quyết tuyệt vời: Ai yêu thương tha nhân thì người ấy đang ở lại trong Chúa, đang được kết hợp với Chúa như cành liền cây; nhờ đó, người ấy sẽ nhận được sung mãn “nhựa sống” Chúa ban và được sinh hoa kết quả dồi dào. Trái lại, ai không yêu thương tha nhân là tự tách lìa mình khỏi “Thân Nho Giê-su” và hậu quả là phải tàn lụi muôn đời. Thiên Chúa là Tình Yêu nên mọi mối tương quan với Người phải là tương quan Tình yêu và chỉ có thể là tương quan Tình yêu mà thôi.

Cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 38-39).

“Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1Ga 3, 24).

Vậy, thứ hoa quả mà Ðức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải mang lại trong suốt cuộc sống mình là tình yêu. Tình yêu mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục thông ban cho người khác như nhựa sống từ thân cây nho thông ra và lưu chuyển giữa các cành nho vậy. Vâng, thân cây nho chuyển thông cho các cành lá nhựa sống và sức mạnh. Nhưng công việc đâm hoa kết quả là phận sự của cành nho, chứ không phải của thân cây. Ðúng thế, Thiên Chúa ban cho con người sức mạnh, các khả năng, các ơn thánh, nghĩa là các phương tiện; Còn việc mang lại hoa quả là bổn phận của con người, việc kiến tạo một thế giới an bình và tươi đẹp là bổn phận của chúng ta. Vâng, bổn phận của chúng ta là phải sống và thực thi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đổi mới thế giới. Chúng ta phải tiếp tục thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa đến tất cả mọi đồng loại. Thiên Chúa cần đến mỗi người trong chúng ta theo khả năng mà Người đã ban cho từng người. Và nếu mỗi người biết đem khả năng đó của mình để cộng tác vào cuộc sống xã hội và thế giới, đương nhiên sẽ mang lại hoa trái: hoa trái của bình an, hạnh phúc, hiệp nhất….

Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. “Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài. Mối liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã được tháp vào Chúa Giêsu, và chúng ta hưởng sự sống từ Ngài. Chúa Giêsu chính là thân nho nơi ngập tràn nhựa sống Thần linh. Nhựa sống Thần linh ấy chính là Mình và Máu Người hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta là những cành nho mong được tiếp nhận nhựa sống Thần linh ấy để sinh nhiều hoa trái.

Khi luôn luôn gắn liền với” hay ở lại trong” Ngài, ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, và đời ta sẽ trở thành một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy sức mạnh, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa.

  1. “Đây là điều làm Cha thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và trở nên môn đệ của Thầy” (Ga 15:8). Là người cha nhân lành, Chúa Cha trên trời chắc chắn sẽ vui và sung mừng khi thấy con cái mình sinh được hoa trái thiêng liêng, và làm rạng danh Ngài qua những hoa trái ấy. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”. (Mt 5, 16). Như các bậc làm cha mẹ vui mừng và hãnh diện khi thấy con mình sau những tháng ngày vất vả học hành nay thành đạt vẻ vang. Họ có quyền được hưởng những hoa trái do sự cố gắng và hy sinh của mình nơi con cái.

Ngược lại, khi con cái lỗi đạo không vâng lời cha mẹ làm những điều tội lỗi, xấu xa, thì không những người con ấy bị xã hội chê bai, ruồng bỏ, và xa tránh, mà cả cha mẹ cũng bị mang tiếng xấu lây. Theo Nho Giáo những người con như thế mang tội bất hiếu, vì do mình mà cha mẹ phải chịu xấu hổ, bị người đời khinh khi, nhạo báng. Đạo hiếu này phù hợp với giới luật của Thiên Chúa, khi Ngài phán: “Hãy thảo hiếu cha mẹ”.

  1. Cắt tỉa: Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thãi chẳng ích lợi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn. Cắt tỉa, làm cho sạch là hình ảnh của sự tinh luyện thử thách. Chắc chắn chẳng vui gì khi phải cắt tỉa, vứt bỏ những cành, nhánh nho nhưng nếu không như thế thì làm sao sinh nhiều hoa trái, làm sao sinh lợi. Vì thế tinh luyện thử thách là điều cần thiết để giúp chúng ta trưởng thành hơn.

Vì chúng ta là những cành của Cây nho thật là Đức Kitô nên chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.

Trường hợp khác Phúc âm Gioan nói đến hoa trái là ở đoạn 12: 4: hạt lúa mì rơi xuống đất phải thối đi mới sinh nhiều hoa quả. Thối đi theo Phúc âm Gioan là chết. Như vậy hoa quả chỉ phát sinh qua đau khổ và sự chết. Nói cách khác “tỉa sạch”. Tình yêu đòi hỏi hy sinh và ngay cả sự chết. Trong tiến trình mang hoa kết trái, chúng ta luôn cần đến việc tỉa sạch. Lý do vì những thói hư tật xấu của con người cũ. Con người hoang dã của bản tính hư hỏng: Ghen tương, thù hận, ghen ghét, thành kiến, tự tôn, kiêu ngạo, gian dối, lừa đảo, buông thả, trác táng, vô luân, ích kỷ… Những thói xấu đó làm tắc nghẽn dòng chảy tự do của sức sống Chúa Giêsu trong các linh hồn, cần phải được cắt tỉa. Cho nên công việc tẩy sạch là cần thiết và bắt buộc. Thử thách, hy sinh luôn là điều cần thiết để cuộc đời càng có ý nghĩa. Định luật của sự sống “chính là lúc chết đi”. Hạt lúa có chấp nhận vùi xuống, chịu sự hủy họai với thời gian, thì nó mới thực sự sinh gấp trăm gấp vạn lần. Hạt lúa có chịu nghiền nát, được phân chia thì mới thực sự là bánh ăn đem lại sự sống. Điều quan trọng là cành nho có muốn “được tháp vào”với cây hay không, hay chỉ muốn là cành khô, mọc ngòai thân nho, để đi đến kết quả “khô héo, bị thu lại và quẳng vào lửa cho nó cháy đi”. Gắn bó với Chúa để mãi mãi chúng ta “được tồn tại”. Gắn bó với Chúa để đời sống chúng ta thật sự trưởng thành, trở thành người có ích cho tha nhân, để sinh trái.
Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phồng lên ở các cành nho của ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê. Chính Ðức Giê-su, thánh thiện như vậy mà cũng được Chúa Cha tỉa cành” cho Ngài. Thánh Phao-lô nói về điều ấy: Thiên Chúa ( … ) đã làm một việc thích đáng, là cho Ðức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu độ” (Hr 2, 10 ). Như vậy, theo Thánh Phao-lô, nhờ chịu gian khổ mà Ðức Giê-su trở nên một người lãnh đạo hoàn hảo. Tin Mừng cũng nói: Nào Ðấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 26). Vua Ða-vít cũng nhận ra ích lợi của đau khổ đối với sự thánh thiện: Ðau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119, 71). Còn chúng ta, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta chia sẻ đau khổ với Ðức Giê-su, để cùng tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài: Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 17).

Ðược chia sẻ những đau khổ của Ðức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13). Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5, 10). Đó cũng chính là ý nghĩa của việc cắt tỉa mà Chúa Giêsu đã nói đến, để cho cành cây sinh nhiều trái hơn. Cành nho càng được cắt tỉa thì lại càng mang nhiều trái. Cũng vậy, đời sống người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng chịu nhiều gian nan thử thách, thì lại càng nhiều ơn phúc trước mặt Thiên Chúa hơn.

Nhưng nhiều người dù biết rằng đau khổ, hy sinh có tác dụng thánh hóa bản thân, nhưng vẫn sợ và tránh né đau khổ.

Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải.

Tóm lại, đòi hỏi “tỉa sạch” của Tin mừng hôm nay quả hợp lý, quan trọng và tuyệt vời. Nó cần thiết cho mỗi linh hồn, mỗi cộng đoàn tín hữu, tu trì và toàn thể Giáo hội để tiến triển trên con đường nên thánh. Không có “tỉa sạch” thì mọi chương trình, mọi dự phóng đều vô ích. Bởi sự sống cây nho còn bị ngăn cản thì làm sao sinh hoa kết trái? Chúng ta hãy mau mắn đến với Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Thể để kín múc nhựa sống Thần linh; đồng thời hãy để cho Lời Chúa “cắt tỉa” và “rửa sạch” những gì là sum xuê, là tươi tốt của những cành nho không sinh lợi, đó là những đam mê, những dục vọng, những đố kỵ, ghen tương,… Thử thách, hy sinh luôn là điều cần thiết để cuộc đời càng có ý nghĩa. Cắt tỉa và rửa sạch những cành nho ấy, chắc chắn chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và vui sướng hơn vì chúng ta được gắn kết mật thiết với Chúa trong Tình yêu.

  1. Ơn Thánh sủng đã được chính Chúa Giêsu Kitô thiết lập. Nó biến đổi chúng ta thành con cái Chúa. Nhưng khi phạm tội trọng thì dòng ơn thánh sủng ấy bị cắt đứt. Linh hồn chúng ta bị tách lìa khỏi Thiên Chúa, không còn là con cái Chúa nữa và tức khắc bị chết như nhánh nho đã tách lìa thân cây nho (Ga 15, 6). Vì thế, không có ơn Thánh sủng Chúa thì chúng ta không làm gì được hết: “Không có Ta các con không làm được gì hết” (Ga 15, 5). Vậy điều quan trọng nhất trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta là phài giữ linh hồn sạch tội trọng để luôn sống trong ơn sủng Chúa, liên kết với Chúa. Càng liên kết chặt chẽ bằng cầu nguyện và sống theo thánh ý Chúa thì linh hồn càng sống mạnh, càng sinh hoa trái nhiều.
    Người Kitô hữu càng kết hiệp với Chúa, càng liên kết với Chúa, càng chịu nhiều đau khổ thử thách và can đảm chịu đựng những đau khổ, những thập giá vì lòng yêu mến Chúa, thường là những Kitô hữu có đời sống phong nhiêu hơn hết.

“Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được” (Ga.1,5). Một cành nho, tự mình không thể sinh hoa kết trái nếu không gắn liền với thân nho là Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta không thể sống tốt, không thể làm điều thiện, nếu như không có ơn nghĩa của Ngài (x. Ga 15, 4).

Giáo hội Chúa được sánh ví như một “Thân Thể Mầu Nhiệm” (1Cr 12,12-13). Chúa Giêsu là Đầu và chúng ta là các Chi Thể. Tất cả đều sống tùy thuộc vào nhau, chia sẽ cùng một giòng máu yêu thương, cùng một tinh thần là sức sống trong Chúa Thánh Thần. Trong Tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng được chia sẻ cùng một  “Tấm Bánh” (hiệp nhất do muôn ngàn hạt lúa miến), cùng một  “Chén Rượu” (hiệp nhất do trăm ngàn trái nho). Trước đó chúng ta đã tuyên xưng cùng một “Đức Tin”, cùng một “Phép Rửa”, và cùng cầu nguyện chung kinh “Lạy Cha chúng con… ” rồi cùng chia sẻ dấu hiệu của sự  “Hiệp Nhất” yêu thương  bằng những cử chỉ chân thành ‘chúc bình an’ cho nhau. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể.

Cuộc sống của người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng hiệp thông với các chi thể khác của Ngài, trong đó có những người anh em bất hạnh và khổ đau, đòi hỏi nhiều hy sinh, thì cuộc sống của người Kitô hữu ấy càng phong phú và nhiều hy vọng hơn cả. Là Kitô hữu, đời sống của chúng ta từ nay không thể tách rời Đức Kitô. Do đó, những khổ đau của Ngài cũng phải là những khổ đau của chúng ta và sự chết của Ngài cũng phải là sự chết của chúng ta, để rồi sự phục sinh của Ngài cũng phải là sự phục sinh của chúng ta. Như lời thánh Phaolô xác quyết: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị.

  1. Sinh hoa trái:

Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta duyệt xét lại cuộc sống đạo của mình. Là những cành nho được liên kết với Chúa Giêsu qua bí tích thánh tẩy, chúng ta đã thật sự liên kết với Chúa, với Giáo hội trong yêu thương và phục vụ chưa? Hay vẫn còn đó những cành lá thừa thải là những dục vọng thấp hèn, vị kỷ nhỏ nhen, không quan tâm đến nhu cầu của những anh em nghèo khổ,v.v… Chúng ta chỉ thật sự ở trong Chúa Kytô, liên kết với Chúa Kytô khi chúng ta biết sống cho người anh em mình cách chân tình, vô vị lợi. Và khi ấy, nhựa sống của cây nho thần linh là Chúa Kytô sẽ nuôi dưỡng và bổ sức cho chúng ta, biến chúng ta thành những cành nho sinh lợi, gắn kết thật sự với Chúa Kytô- cây nho của Thiên Chúa.

Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, danh Chúa được cả sáng.

Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cành cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”. “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.” (1Cor 10, 31) Nếu Kitô hữu “thực sự“ gắn liền với thân nho là chính Chúa, thì không thể không sinh hoa kết trái được.

Nhưng tại sao, có nhiều Kitô hữu lại sinh những trái xấu? Họ chỉ là Kitô hữu «hữu danh vô thực». Phân tích kỹ, chúng ta nhận ra những lý do sau đây:
Lý do 1: hoặc là vì họ luôn sống tình trạng tội lỗi, nhất là tội nặng như kiêu ngạo, gian dối, lừa đảo, buông thả, trác táng, vô luân, ích kỷ… Họ sống trong thú vui của xác thịt, chạy theo danh vọng, tiền bạc và những quyến rũ khác của thế gian, coi thường không tuân giữ các giới răn của Chúa, nên họ tách lìa khỏi thân nho, lìa khỏi Thiên Chúa. Hậu quả là Kitô hữu này đã tách lìa khỏi thân cây nho và bị héo khô (Ga 15.6).
Lý do 2: hoặc là họ cậy dựa vào sức riêng mình mà không cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa: “Cũng như cành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy… vì không có Thầy, các con không thể làm được gì”. Họ là các Kitô hữu hùa theo chủ nghĩa “đạo tại tâm“ không cần đi nhà thờ, không cần lãnh nhận Phép Bí Tích… Xa rời các Bí Tích là nguồn ân sủng, nguồn thánh hóa, làm sao Kitô hữu sinh hoa kết trái được… Mà nếu có trái cũng chỉ là nho dại.

Lý do 3: hoặc là lơ là học hỏi giáo lý, nhất là học hỏi Kinh Thánh, nên đời sống đức tin không có nền tảng. Họ dễ hùa theo thói đời. Gặp thử thách gian nan họ bỏ cuộc.
Lý do 4: hoặc là không hiệp thông với Hội Thánh… vì kết hợp với Chúa là thân nho thì cũng kết hợp với anh chị em là “cành nho“. Kitô hữu nào không tham gia đời sống cộng đoàn, không góp phần xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô… thì làm sao dám vỗ ngực xưng mình là Kitô hữu được!

NĂM C

 

Ga 13,31-33a.34-35

1. Thập giá là vinh quang
Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự khi được thực hiện ý muốn Chúa Cha. Do tình yêu, người ta cũng lấy làm vinh dự được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”. (Gal 6, 14)

Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt trong tù và bị đánh đòn, đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Nếu ta không lấy làm vinh dự vâng theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa, đó là dấu ta chưa yêu Chúa.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn; không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì. «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự hủy cái tôi của mình đi như Đức Giê-su đã hủy mình ra không, không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, để Ngài có thể vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2, 6-8)

Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

  1. Lời trăn trối…

Trước lúc bước vào con đường thập giá, Đức Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: “Các con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau”.

Trước khi một người từ giã cõi đời, thường họ có những lời trăn trối. Nội dung lời trăn trối có thể là những điều họ ấp ủ nhưng chưa thực hiện được, hoặc là những lời khuyên, những lời nhắn nhủ, hoặc một gia tài quý báu ở đâu đó, hay một bí quyết gia truyền của dòng họ. Hầu hết các dân tộc đều quý trọng lời trăn trối của một người sắp từ trần. Ngày nay, người ta thường làm tờ di chúc, trong đó có ghi đầy đủ các ước nguyện của người từ trần, nhất là về phần tài sản được phân chia như thế nào. Lời trăn trối thường được cha mẹ trao lại cho người con hiếu thảo, vì lý do dễ hiểu là chỉ có người con hiếu thảo mới thi hành di chúc của cha mẹ. Chẳng ai nói lời trăn trối với một người con bất hiếu.

Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe hôm nay, là một trong những lời dặn dò, trăn trối của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly, trước khi Người bị bắt, chịu khổ hình thập giá. Và lời trăn trối này được Chúa Giêsu nói khi Giuđa, là người phản bội Thầy mình, đi khỏi bàn tiệc. Có nghĩa, Giuđa không xứng đáng được nghe lời trăn trối của Chúa. Lời trăn trối đó cũng là một giới răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau!”

  1. Điều răn mới: mới ở chỗ là Yêu như Chúa đã Yêu. Yêu như Chúa là:

Yêu hết mọi người và yêu thương đến cùng: tốt, xấu, nghèo, bị bỏ rơi… Yêu vô vị lợi, không tính toán. Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn: “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.

Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta. Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu“. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành động. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả dối, hy sinh không có tình yêu là hy sinh thừa, hy sinh vô ích. Đức Giêsu cụ thể hóa Tình Yêu bằng hành động phục vụ:“Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20, 28). Dụ ngôn người samari nhân hậu: các tư tế là những người giảng dạy về yêu thương nhưng khi gặp người bị nạn, tìm mọi cớ để thoái thác, còn người Samari là người ngoại giáo, ông không biết gì về giới luật thương, ông thấy người bị nạn và ra tay giúp đỡ….Hãy là người Samari.

Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói: “Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla”. Mẹ Têrêsa đáp: “Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa”

Yêu thương người khác vì phẩm giá của họ, vì họ đều là con cái Chúa, hình ảnh của Thiên Chúa chứ không phải yêu vì hình thức bên ngoài. Thường chúng ta thấy người nào đẹp, dễ thương, có tài… thì chúng ta ta yêu. Còn những người nghèo, những người xấu xí, những người tội lỗi… chúng ta thường tìm cách xa lánh họ. Chúng ta thường đánh giá con người theo hình thức bên ngoài. Khi một người ăn mặc sang trọng đến với chúng ta, chúng ta dễ dàng ân cần đón tiếp họ, còn những người nghèo,… thì chúng ta không muốn tiếp hoặc chỉ tiếp qua loa,… Như vậy thì không phải là yêu như Chúa yêu.

Tại sao con người không thể thương yêu nhau? Có phải chúng ta quá ích kỷ, có phải chúng ta quá bám víu vào vật chất, vào danh vọng, vào quyền thế, là những gì mà không thể đi theo với chúng ta sang bên kia thế giới? Có phải chúng ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, chỉ biết sống cho mình?

– Yêu cả kẻ thù (Yêu thương là tha thứ):

Yêu “Như Thầy đã yêu” là cúi xuống rửa chân cho các môn đệ để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.

Kiểu cách yêu thương của Thiên Chúa, lúc nào cũng “mới” đối với chúng ta, dù đã 2000 năm. Ngay trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha là tha tội cho những người đã kết án mình, “vì họ không biết việc họ làm.” (x. Lc 23, 34) Sự tha thứ là dấu chỉ của một tình yêu đích thực. Sự tha thứ là dấu chỉ của một nền văn minh thực sự nhân bản.

Chỉ khi nào chúng ta thực hiện lời trăn trối ấy, nghĩa là yêu thương hết mọi người và yêu thương đến cùng và sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, thì chúng ta mới thực sự là những người con hiếu thảo của Chúa, vì “mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy: là các con có lòng yêu thương nhau.”

Yêu người vì Chúa, vì đó là hình ảnh của Chúa, là yêu chính Chúa: khi xưa Ta đói các ngươi cho ăn… Người luôn kêu gọi xả kỷ vị tha, từ bỏ mình, để phục vụ mọi người, mọi lúc, nhất là những kẻ cơ hàn, đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bị áp bức, tù tội. Đừng để sau này muộn màng phân bua với Chúa:“Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” (Mt 25, 44)

Kinh kính mến:… lại vì Chúa mà con yêu người ta như mình con vậy. Amen.

Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, để mỗi người noi theo: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,10-11). Yêu bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống. Chứ không chỉ yêu bằng môi miệng. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành động. Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà thôi (x. Rm 2,12-24).

  1. Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi phải xét mình về tình yêu thương huynh đệ mà tôi đang sống với những người chung quanh:

      * Tôi có thât sự yêu thương, kính trọng những người thuộc cùng một nhà, một hội đoàn, một giáo xứ, một dòng tu, một giáo phận, một giáo hội của tôi không? Bao lâu còn bất hòa, chưa sẵn lòng tha thứ, còn để bụng thù oán… bấy lâu tôi chưa là môn đệ của Chúa Kitô.

      * Tình yêu thương huynh đệ Ki-tô hữu của tôi đang ở mức độ nào trong tâm hồn và đời sống của tôi?

      * Tình yêu thương huynh đệ Ki-tô hữu của tôi có đủ mạnh mẽ và dễ nhận ra để khiến người khác nhận ra tôi là môn đệ của Chúa Ki-tô không?

      * Tại sao tôi lại ghét một số người nào đó? Có phải do lòng ghen tị? Hay là vì họ không hợp với ý của tôi?…

* Tôi có thông cảm và tha thứ cho người khác không? Tôi đã từng tha thứ cho ai chưa? Tôi có cảm thấy bình an và hạnh phúc khi tha thứ không?

* Tôi có yêu bằng hành động hy sinh, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ… hay chỉ yêu bằng môi miệng?

Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ. Xin Chúa hoán cải lòng họ và lòng chúng ta nữa.

  1. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau!

Chúa thúc giục các môn đệ yêu mến nhau, như Ngài yêu mến họ, ngõ hầu các môn đệ hợp nhất, để thế gian nhận ra họ là môn đệ Chúa. Đây là một bài giáo huấn thâm sâu, vì nếu chúng ta không yêu mến, hợp nhất với nhau, thì lấy khả năng ở đâu mà yêu mến thiên hạ? Thành thử một cộng đòan chia rẽ, yêu mến môi miệng chẳng có ích cho việc truyền giáo. Chỉ hữu ích khi cộng đòan ấy thực sự yêu mến và hợp nhất trên căn bản Phúc âm. Thảo nào xưa này chúng ta truyền giáo không hiệu qủa!

Yêu thương nhau vốn là nét đặc trưng của các tín hữu buổi đầu. Sách Công Vụ cho thấy “mọi người tín hữu đều coi mọi sự như của chung” ( Cv 2, 44 ), họ “đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Ðền Thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân.” (Cv 2, 46). Tình yêu thương giữa các Ki-tô hữu đã khiến dân ngoại phải thốt lên: “Xem kìa, họ yêu thương nhau biết chừng nào, họ dám sẵn sàng chết cho nhau !” Nhờ đó, có rất nhiều người tin theo Chúa. Những Ki-tô hữu đầu tiên ở Việt Nam cũng đã được gọi là những người theo “Ðạo Yêu Thương”, không có tình yêu thương, chẳng ai nhận ra chúng ta là môn đệ Ðức Giê-su, Ðấng đã yêu thương và yêu thương đến cùng.

Giới luật yêu thương mà Chúa trối lại cho các môn đệ và nhân loại là một lời di chúc thiêng liêng. Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian phải là Hội Thánh: “Yêu như Thầy yêu”. Mến Chúa Yêu Người đi song đôi với nhau: Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân. Và tình yêu tha nhân là “thước đo” tình yêu Thiên Chúa. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa. Tại sao người ta không tin vào Giáo Hội? Tại sao người ta không đánh giá cao cộng đoàn của chúng ta? Đức Giêsu đã trả lời trước từ lâu rồi: tại vì chúng ta không yêu thương nhau.

Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời. Đâu có lòng từ bi….

Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha….

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- Chung cho các năm ABC

(x. CN 5 Phục sinh- năm B, C)

  1. Chúa nhật 5 Phục sinh (năm B và C) và Chúa nhật tuần này (năm ABC) đều nói về giới luật yêu thương. Toàn bộ bài Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su trải dài từ giữa chương 13 đến hết chương 17 Tin Mừng Gio-an, ý tưởng chủ lực, lập đi lập lại nhiều lần, đó là: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy” Chỉ riêng với chương 14, chúng ta đã đọc thấy đến ba lần: Câu 15: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Câu 21: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Câu 23: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy” Trong Phúc Âm Gioan, “lời Thầy” thường cùng nghĩa với “các giới răn của Thầy”. Lời căn dặn tha thiết được lập đi lập lại này của Chúa Giê-su thật giống như một lời trăn trối của một người sắp chia tay với những người thân yêu của mình trong một thời gian rất dài… Người ấy như thể lo lắng, như thể biết trước những người thân yêu của mình sẽ quên mất hay lơ là một điều rất tâm huyết mà mình muốn để lại. Và hẳn ai trong chúng ta cũng đếu biết điều răn mà Chúa Giê-su mong muốn các môn đệ Ngài hãy giữ và hãy sống, đó là lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau !” ( Ga 15, 17 ), và hơn nữa, hãy giữ và hãy sống theo tiêu chuẩn mẫu mực “…như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ).

  1. Đức Giê-su Ki-tô tiên báo Người sẽ trở về cùng Chúa Cha và căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-3). Các môn đệ (tiêu biểu là Tô-ma và Phi-lip-phê) vẫn tỏ ra rất hoang mang, lo sợ, không hiểu Thầy về cùng Chúa Cha là như thế nào, bằng con đường nào và nhất là Thầy có còn trở lại với các môn đệ nữa hay không? Đó cũng là tâm lý thông thường của người đời. Và cũng vì thế nên Đức Ki-tô phải trấn an: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 15-16).

Và cái hệ luận tất yếu phải là: Nếu yêu Chúa thì sẽ tuân giữ điều răn của Chúa => Có tuân giữ điều răn của Chúa mới thực là yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Chỉ có như thế mới có hy vọng Đấng Bảo Trợ khác sẽ đến thanh tẩy và ban hồng ân cùng dũng khí, bởi Người chính là Thần Khí, là Thần Chân Lý – Người chính là hồng ân sự sống, hông ân sự thật, hồng ân hiệp nhất yêu thương.

Chỉ người nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha.

Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ không còn hiện diện với các ông trong hình thể khả giác và vật lý như những ngày chung sống. Nhưng Ngài sẽ không bỏ các ông, Ngài sẽ hiện diện bằng một cách sâu kín hơn trước đặc biệt bằng Thần Khí của Ngài. Thần Khí sẽ bảo vệ, trợ lực, gìn giữ họ.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng mối tương quan mà họ đang có với Chúa trên trái đất này sẽ không kết thúc. Sau cái chết của Người, Người sẽ ở lại với họ trong một cách khác. Qua Thánh Thần, Chúa Giêsu gọi là Đấng an ủi khác, Người sẽ ở với các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta mọi nơi, mọi lúc. Ôi thật hạnh phúc biết bao!

  1. Thư 1Gioan (2,1) giới thiệu Đức Giêsu như là Đấng Bảo Trợ có vai trò chuyển cầu trước nhan Chúa Cha sau khi sống lại, nhưng Gioan cũng hàm ý Đức Giêsu đã là một Đấng Bảo Trợ khi Người thi hành sứ vụ trên mặt đất. Cho tới nay, Đức Giêsu đã là Đấng trợ giúp các môn đệ, săn sóc họ, hướng dẫn, khuyến khích họ, ban sức mạnh cho họ. Nay cho dù Đức Giêsu ra đi, các ông vẫn không bị bỏ mặc một mình; bởi vì Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ khác, đến với các ông, để Ngài ở luôn mãi với các ông, ở bên cạnh và ở trong các ông. Đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Emmanuel của Is 7,14) nay được thể hiện nơi Đấng Bảo Trợ-Thánh Thần, Đấng ở lại mãi mãi với các môn đệ.

Phúc Âm đề cập đến một “Đấng Bảo Trợ Khác” cũng có ý nói lên tính cách liên tục giữa các công trình của Chúa Giêsu và của Chúa Thánh Thần, bởi vì cả hai đều có liên hệ đến cuộc đại phán xét thế giới. Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được Chúa Giêsu ý thức về chính mình và mối tương quan giữa Người với các môn đệ, như là “người canh giữ” các vị, “bênh vực” và “bảo vệ” các vị khỏi phải hư mất: “Mà ý của Đấng đã sai Ta, là tất cả những kẻ Người đã ban cho Ta, Ta sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39).”Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Ta” (Ga 10, 28).”Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha, mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ và không ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 17, 12).

Chúa Cha là nguồn mạch mọi chương trình cứu độ. Vì tình yêu đối với nhân loại, Ngài đã sai Con của Ngài đến để cứu độ con người và phục hồi lại địa vị làm con. Một khi Chúa Con hoàn tất sứ mạng của Ngài trên trần gian, Thánh Thần được gởi đến để đồng hành với con người trong cuộc lữ hành trần gian tiến về Chúa Cha.

Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, điều  này được diễn tả bằng hai kiểu nói: “Chúa Cha sẽ sai đến” (14,26) và “Thầy sẽ sai đến” (15,26; 16,7). Động từ “(ban) cho” (to give) thường được Tân Ước nối kết với Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5), do đó “ân huệ” (gift) đã trở thành một tên gọi của Thánh Thần (“ân ban Thánh Thần” = Thánh Thần là một ơn: x. Cv 2,38; 8,20; 10,45; 11,17).

  1. Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”, tức là Thần Khí thông ban sự thật và cũng là chính sự thật, sẽ giữ các môn đệ ở lại trong sự thật đã được Đức Giêsu truyền đạt và sẽ che chở các ông khỏi các vị thầy gian tà và khỏi những chọn lựa sai lầm. Thế gian, vì khép kín lại với Đức Giêsu, thì không thể đón nhận Ngài. Vì sao Thần Khí Sự Thật, “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người”?  Bởi chưng “con người sống theo tính tự nhiên, thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ, họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. (1Cr 2, 14) Chỉ khi tin vào Đức Giêsu và giữ kỹ các điều răn của Người, chúng ta mới mở ra với Chúa Thánh Thần và có thể nhận ra Ngài và có kinh nghiệm về hoạt động của Ngài.

Thánh Thần dậy dỗ để chúng ta hiểu những lời Chúa Giêsu nói. Ngài sẽ đào sâu đức tin cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta hiểu từ bên trong, cuộc đời và sứ điệp của Chúa Giêsu. Ngài củng cố đức tin của chúng ta cách vững vàng trước sự tấn công của trần gian và thúc đẩy chúng ta làm chứng những gì chúng ta đã biết (x. Ga15, 26-27). Ngài sẽ làm cho thế gian đã bất công khước từ Đức Giêsu phải bẽ mặt (x. Ga 16, 7-11). Chính trong viễn tượng này mà Thánh Thần do Đức Giêsu hứa ban là Thần Khí sự thật. Ngài sẽ đem mạc khải của Đức Giêsu vào trong các tâm hồn, sẽ ban trí thông hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm Đức Giêsu, về đời sống, cử chỉ, lời nói của Người; như thế, Ngài sẽ soi sáng cho chúng ta biết cách đương đầu với hòan cảnh mới.
Như vậy, trong từng giây phút mỗi người, Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi luôn ở với chúng ta. Người là Thần Khí sự thật, đã khuyến khích các môn đệ nhận ra tình yêu đích thực, không điều kiện mà Đức Kitô đã dành cho các ông, dù trong yếu đuối các ông đã chối bỏ Chúa. Nhờ sức mạnh của Người, Thần Khí sự thật, các ông đã can đảm làm chứng cho Đức Kitô đến tận cùng trái đất. Và hôm nay, Người cũng đang ở trong chúng ta, phấn chấn khi chúng ta yếu đuối, nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Đức Kitô đang ở trong chúng ta, uốn nắn chúng ta theo khuôn mẵu của Đức Kitô, và chỉ cho chúng ta thấy những bóng tối tội lỗi của mình để mỗi ngày trở về lãnh nhận ơn tha thứ và đổi mới tâm hồn.

Ngài cũng là Đấng Bầu Chữa, vì Ngài sẽ nâng đỡ các kẻ tin, tiếp tục công việc của Đức Giêsu, Đấng khi còn sống ở thế gian đã phù trợ các kẻ thuộc về Ngài (x. Ga17,12). Đấng Bầu Chữa sẽ biện hộ cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha. Cũng vậy, để đứng vững trước những biến cố đau thương, các môn đệ cần có một sự nâng đỡ, một người hướng dẫn, một vị Bảo Trợ. Cho đến bây giờ, Đức Giêsu đã phù trợ họ, duy trì họ hiệp nhất với nhau và giữ gìn họ cho Chúa Cha. Nhưng bây giờ chủ chăn ra đi, nên họ cần một vị trợ giúp khác. Vì thế, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến nhân danh Đức Giêsu (x. Ga14,26) như Đấng thay thế Đức Giêsu để tiếp tục công việc của Người.

Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng, giúp ta ngày càng hiểu rõ Ðức Kitô và những lời dạy của Ngài hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói với các ông.

Chúa Thánh Thần là Ðấng Phù trợ: Ngài ban sức mạnh giúp chúng ta sống. Sống một cách phi thường trong cuộc đời bình thường; sống bình thản và lạc quan trong những lúc khó khăn; sống quảng đại đang khi vác thập giá.

Chúa Thánh Thần còn là nguồn tình yêu. Nhờ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta, cuộc sống chúng ta luôn là một màu hồng, cho dù khi thất bại, khi bị phụ bạc vô ơn, khi chịu đựng những tấn công của kẻ đố kị… giống như Ðức Kitô ngày xưa trong cuộc chịu nạn.

Chúa Thánh Thần là quà tặng tình yêu của Chúa Giêsu, nên chỉ những ai ở trong tình yêu của Chúa Giêsu mới nhận lãnh được Người vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Ðức Giê-su đã yêu mến Cha Ngài đến nỗi Ngài đã thực hiện tuân giữ Lời Của Chúa Cha và chỉ làm mọi sự theo ý Cha để tất cả cho vinh danh của Cha. Chính vì lòng yêu mến tột bực của Chúa Giê-su đối với Chúa Cha đã làm cho Ngài và Cha Ngài nên một. “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10, 30).

  1. Nhưng điều hạnh phúc ở đây là Chúa Thánh Thần là lời hứa của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta, vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta hãy cứ dâng lời cầu nguyện tới Chúa Thánh Thần, Người sẽ tỏ cho chúng ta thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu ở trong chúng ta và giúp chúng ta biết yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Đặc biệt, mỗi khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể, hãy xin Chúa Thánh Thần tiếp tục soi sáng cho chúng ta mỗi ngày một hiểu sâu thêm về tình yêu vô điều kiện của Chúa Giêsu khi Chúa trở nên lương thực của chúng ta, sức sống của chúng ta. Người ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Người. Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành với lời hứa của Ngài, vì thế Chúa Thánh Thần sẽ không bao giờ lìa xa chúng ta.

Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách Giáo Hội, luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ; trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa. “Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này”. (Thư Chung 2010, số 9).

  1. Kitô hữu được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diễm phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Tình Yêu và là trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi. Bài tin mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Giáo Hội đưa vào tin mừng phụng vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của tình yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,15-16). Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận Thần khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.

Vì tình yêu, Chúa Giêsu luôn muốn ở với chúng ta. Trong khi chờ đợi sự sum họp với chúng ta, Chúa Giêsu đã ở lại với chúng ta trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, để thêm sức cho chúng ta, để nhắc nhở về tình yêu của Người đã dành cho chúng ta, hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy “. Khi ta giữ Lời Chúa thì có Thiên Chúa ở cùng ta. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người. Ai vâng nghe Lời Thiên Chúa thì được Thiên Chúa ở cùng. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến mối tương quan Tình Yêu mà Người muốn các môn đệ phải có, vì đó là nền tảng của tất cả, là chìa khóa mở vào thế giới của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Có tuân giữ và thực thi Lời của Chúa, Giáo Hội và nhân loại mới sống trong tình liên đới yêu thương. Yêu thương mà Chúa Giê-su đã thực hiện và trối lại cho nhân loại là phục vụ và tự hiến.

Yêu thương theo khuynh hướng tự nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận, chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình. Thường chúng ta thấy người nào đẹp, dễ thương, có tài… thì chúng ta ta yêu. Còn những người nghèo, những người xấu xí, những người tội lỗi… chúng ta thường tìm cách xa lánh họ. Chúng ta thường đánh giá con người theo hình thức bên ngoài. Khi một người ăn mặc sang trọng đến với chúng ta, chúng ta dễ dàng ân cần đón tiếp họ, còn những người nghèo,… thì chúng ta không muốn tiếp hoặc chỉ tiếp qua loa,… Như vậy thì không phải là yêu như Chúa yêu. Chúa đã nói “nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì? Những người thu thuế há không làm như thế sao?”

Có Chúa ở trong ta, ta mới cảm thấy được bình an, ta mới cảm thấy vui tươi. Có Thiên Chúa là chúng ta có tất cả, vì Ngài chính là sự sống, là tình yêu, là bình an và là sự tồn tại muôn đời của chúng ta. Chỉ có bình an mới đem lại cho con người hạnh phúc. Có người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc. Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước.  

CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- Chung cho các năm ABC

  1. Biến cố Thăng Thiên chỉ được Tin Mừng Mác Cô nhắc tới trong 16,19: “Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” Riêng Luca, sau khi nói đến Chúa Giêsu được rước lên trời trong sách Tin Mừng (24,51), còn mô tả chi tiết trong sách Công Vụ (1,3-11) về cuộc Thăng Thiên. Matthêu 28, 16-20 không trực tiếp nói đến biến cố Chúa lên trời. Trong mệnh lệnh Phúc Âm hóa thế giới, Matthêu cho thấy trước tiên quyền uy của Ðức Kitô trải ra trên trời dưới đất (c. 18); chính dựa vào quyền đó, Người sai các môn đệ đi đến với muôn dân để làm cho họ trở nên môn đệ của Người (cc. 19-20); và điều bảo đảm cho công trình mà Người giao cho các môn đệ thực hiện, chính là sự hiện diện của Người với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (c. 20). Sách Công Vụ Tông đồ trong bài đọc thứ nhất cho cả ba Chu Kỳ Phụng Vụ A, B, C, ghi nhận là: “Người vừa nói xong thì được nâng lên trước mắt các vị trong một đám mây khiến họ không thấy Người nữa”.
  2. Lên trời/ Về trời

Chữ “lên” ở đây tương tự như chữ “lên lớp”, hay “lên lương” để nói lên một tình trạng tốt hơn trước. Ngược lại, chúng ta nói, “bị giáng cấp”, “xuống hỏa ngục”, để nói một điều tệ hơn trước, chứ “xuống hỏa ngục” không có nghĩa là chui vào lòng đất, và “lên trời” không có nghĩa là ở trên không trung. Vì Trời là khoảng không gian trong đó trái đất di chuyển và toàn thể thái dương hệ, ngoài ra không còn gì khác. Thiên Chúa “ở trên Trời, trên mặt đất và ở mọi nơi.” Chính Người “đã tạo dựng bầu trời,” và nếu Người đã dựng nên nó, Người không thể bị “giam hãm” trong đó. Lễ Thăng Thiên, “Chúa lên trời” có nghĩa Chúa Giêsu chấm dứt cuộc sống giống như chúng ta ở trần gian và hiện thời Người đang sống trong một trạng thái khác hơn trước, Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại, nhất là ở ngay trong tâm hồn các tín hữu của Hội Thánh Chúa. Chúa về trời không có nghĩa Chúa rời bỏ trần thế, nhưng chỉ có nghĩa thay đổi cách thức hiện diện. Từ nay, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình, nhưng là hiện diện cách vô hình, cách thiêng liêng với con người.

 Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người chỉ đi ra khỏi thế giới hữu hình của chúng ta. Bởi thế ngay cả trước khi chịu chết, Chúa Giêsu đã hứa là sẽ “không để chúng ta mồ côi” (Ga 14, 18), nhưng Chúa sẽ ở với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Đức Giêsu là Đấng Emmanuel (x. Mt 1,23), Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên “ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi “ở dưới đất”. Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Ðức Giêsu. Hình dung Ðức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể đối với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Ðức Giêsu đã xa cách loài người. Như thế, Lễ Thăng Thiên không làm cho chúng ta cứ đăm đăm nhìn trời với lòng bùi ngùi luyến tiếc, nhưng khuyến khích chúng ta quay về cuộc sống để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho khắp thế giới, với lòng đầy hăng hái vì biết Ðức Giêsu vinh quang lúc nào cũng hỗ trợ chúng ta.

Cuộc lên trời của Ðức Kitô như vậy là cuộc vinh thăng của chính chúng ta và nơi mà Ðấng làm đầu [của Giáo Hội], đã đến trước thì niềm hy vọng của thân thể là [Giáo Hội] cũng được mời gọi để đạt tới.  “Một khi Tôi được nâng lên khỏi đất, Tôi sẽ lôi kéo mọi người đến cùng tôi” (Ga 12,32).

  1. Chúa Giêsu phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, mà hiện diện một cách thiêng liêng. Dấu hiệu của sự hiện diện này là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Đúng vậy, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đó cũng là ý nghĩa của câu Chúa khẳng định với các tông đồ : “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa Thánh Thần, hay Thần Khí của Thiên Chúa là ân ban của Cha và là quà tặng đã được Ðức Ki-tô long trọng hứa ban cho các môn đệ. Thần Khí sẽ giúp các môn đệ và các Ki-tô hữu hiểu được Mầu Nhiệm của Ðức Giê-su Ki-tô đã được mặc khải trong Thánh Kinh. Vì thế muốn trở thành môn đệ đích thực của Ðức Giê-su chúng ta cần phải có Thánh Thần trong tâm hồn. Cùng với Thánh Thần, Ðức Giê-su ban cho chúng ta một sứ mạng cao cả và quan trọng: đó là làm chứng về Ðức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa nhập thể làm người, đã chịu chết và đã phục sinh, được Thiên Chúa tôn vinh trên tất cả và đặt Người làm Ðức Chúa muôn dân muôn loài và làm đầu Hội Thánh là Thân Thể của Người.

Chúa hiện còn diện trong lời Chúa, cụ thể là trong các bài đọc, bài Phúc âm khi được công bố trong Thánh Lễ; do đó, sau khi công bố xong, thừa tác viên đọc sách hay linh mục, phó tế nói “Đó là lời Chúa”. Chữ công bố ở đây có ý nghĩa quan trọng, vì những gì được in trong sách thì chỉ là chữ, nhưng khi được công bố qua miệng thừa tác viên thì lúc đó mới là lời. Bởi thế, chúng ta cần lắng nghe vì chính lúc đó lời Chúa tác động trên người nghe. Và cũng vì thế sau khi công bố xong, thừa tác viên không nên nâng sách lên mà nói “Đó là lời Chúa”, bởi vì lời Chúa đã qua rồi, bây giờ, trong sách thánh chỉ còn là chữ. Chúa còn hiện diện với chúng ta trong bí tích bẻ bánh, như ngày xưa Ngài hiện diện giữa hai môn đồ ở làng Emmau. Chúa còn hiện diện trong các cộng đoàn, “nơi có hai ba người họp mặt cầu nguyện”. Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào có chia sẻ, bất cứ nơi nào người ta thương mến giúp đỡ nhau. Chúa hiện diện tại bất cứ nơi nào con người được giải phóng khỏi bất công, khỏi bạo lực, khỏi nghèo đói.

  1. Trời mới, đất mới

Nếu trời là nơi Chúa ngự thì chẳng có gì gần ta bằng trời. Trời ở quanh ta, trời ở trong ta…Trời vượt xa đất muôn trùng, nhưng nếu đất trở thành nơi Chúa ngự
thì đất cũng mang dáng dấp của trời. Đối với chúng ta, “về Trời” hay “về thiên đàng” có nghĩa là ở “với Đức Kitô” (Pl 1,20). “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. .. để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3).

“Lên thiên đàng” không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Thế nên khi nói “Chúa Giêu lên trời” có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn… Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người. Thế nhưng qua việc “lên trời”, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu. Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.

Đất đã bắt đầu thành trời từ khi Con Thiên Chúa đến dựng lều ở đó. Đất vẫn luôn thuộc về trời vì Đức Giêsu luôn ở với ta cho đến tận thế. Trời là mẫu mực của đất: Ý Cha phải được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chỗ nào vâng theo ý Cha, chỗ đó thành trời. Trái tim của chúng ta cũng phải trở thành trời, phải đầy ắp yêu thương, đầy ắp Thiên Chúa. Rốt cuộc, nhiệm vụ của người Kitô hữu là xây dựng trời cao ở ngay nơi đất thấp, là cho thấy rằng trời cao thật gần, chứ không phải là sản phẩm của hoang tưởng. Thiên đàng mai sau chớm nở từ bây giờ. Tôi chỉ được hạnh phúc sống đời sau bên Chúa, nếu tôi đã bắt đầu sống bên Chúa từ đời này. Có một thiên đàng nho nhỏ ở trong tôi: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và dựng nhà nơi người ấy” (Ga 14,24). Tôi muốn xây những thiên đàng nho nhỏ ở quanh tôi, nơi gia đình, bè bạn, nơi phố chợ, học đường… mong có ngày cả trái đất này ngập tràn sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trước khi về trời, Ðức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân”, “các con là chứng nhân của Thầy”. Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Ðức Giêsu căn dặn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.”

Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em”. Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời. Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương. Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau. Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện. vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời”.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó. Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

  1. Việc Ðức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Ðức Giêsu, các môn đệ theo Ngài để tập sự. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Hội Thánh, với sự hỗ trợ đắc lực của Ðức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, sách Công vụ ghi lời Ðức Giêsu căn dặn: “Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất“. Sách Tin Mừng Mátthêu cũng ghi lời Chúa bảo: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… để muôn dân trở thành môn đệ của Thầy“. Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

Khi còn sống ở đời, có lần Ðức Giêsu đã nói: “Nhưng trước hết Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (Mc 13,10). Sau khi Ðức Giêsu phục sinh, mệnh lệnh này trở nên rõ nét. Cả ba sách nhất lãm đều nói về việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mc 16,15; Mt 28,19; Lc 24,47-48). Ðó là mối bận tâm lớn của Chúa Phục Sinh. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói “như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Cánh đồng lúa mà các môn đệ được sai đến đã mở ra. Cả thế giới là cánh đồng lúa ấy. Không một ai có thể bị tước mất quyền nghe giảng Tin Mừng.

Mẫu gương rao giảng Tin mừng của Đức Giê-su: Người đã thực thi sứ mạng Thiên Sai ấy nhờ kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: Được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4,1); Nêu gương cầu nguyện trước khi chọn mười hai Tông đồ (x. Lc 6,12-16). Hằng ngày đi cầu nguyện với Chúa Cha ngay từ sáng tinh sương (x. Mc 1,35). Người nêu gương khó nghèo “Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8,20), ăn ở “hiền hậu và khiêm nhường” (x. Mt 11,29), nêu gương hầu hạ rửa chân môn đệ trước khi dạy bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau (x. Ga 13,12-15), và chỉ thị cho các môn đệ cách ứng xử khiêm tôn yêu thương phục vụ khi sai các ông đi thực tập truyền giáo (x. Mt 10,5-42). Người giảng dạy Tin Mừng trong các hội đường Do thái (x. Mt 13,54), giữa cánh rừng vắng (x. Mt 14,13), ở ven biển hồ (x. Mt 13,1), vừa đi đường vừa giảng như tại Giê-ri-cô (x. Lc 19,1-6), giảng trong bữa tiệc (x. Lc 5,29-32). Người giảng trong các thành thị làng mạc trên đường lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,22), và tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga 10,22-30)… Người trình bày giáo lý bằng những ví dụ cụ thể thường ngày là các dụ ngôn để diễn tả các mầu nhiệm cao siêu về Nước Trời (x. Mt 13,3-52). Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x. Mt 7,29). Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời kèm theo việc làm phép lạ cứu nhân độ thế như: xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyện trong dân (x. Mc 1,21-22.32-34), quan tâm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thể xác của dân chúng và đòi môn đệ cộng tác vào phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-18). Nhờ rao giảng theo phương cách bác ái cụ thể như vậy mà Đức Giê-su đã được dân chúng tin theo rất đông, thể hiện ra khi Người khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,10-11).

Sách công vụ tông đồ ghi lại những hoạt động đầu tiên của Giáo hội, là sách đầu tiên của các tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên Trời. Như vậy, sơ lược có thể hiểu sách công vụ tông đồ là cuốn sách làm chứng về thời đại của Chúa Thánh Thần. Một cuốn sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, cũng có thể nói là cuốn Tin Mừng thứ 5.

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Mối bận tâm trước nhất và lớn nhất của chúng ta phải là việc Loan Báo Tin Mừng! Có nghĩa là chúng ta đầu tư trí tuệ, tài năng, tiền của, thời gian, sức lực nhiều nhất, trước nhất cho việc Loan Báo ấy.

Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Cùng với mệnh lệnh lên đường, Chúa Giêsu hứa ban những ơn đặc biệt cho các tín hữu, nghĩa là cho những ai có lòng tin. Tín hữu là người có khả năng đem đến cho con người ơn giải phóng, giải phóng khỏi bệnh tật, khỏi ách thống trị của ma quỷ. Các tông đồ đã có cảm nghiệm rằng “Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc 16,20). Trong sách Công Vụ, ta thấy các tông đồ đã trừ quỷ (8,7; 16,16-18), đặt tay trên bệnh nhân để chữa lành (9,17), nói được những thứ tiếng mới (2,4; 10,46), cầm rắn trong tay mà không bị hại (28,3-6), …

Là Kitô hữu, nhờ bí tích Rửa Tội chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô. Đây cũng là trách nhiệm của chúng ta, ý thức được điều này nên Thánh Phaolô đã từng thốt lên:” Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh về truyền giáo số 2 viết: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Khi nói tự bản tính, Công đồng muốn nhấn mạnh với từng người chúng ta rằng, nếu không truyền giáo, thì không còn là Giáo Hội, mà Giáo Hội là do từng người chúng ta làm nên. Do đó, nếu chúng ta không truyền giáo, thì chúng ta không còn lý do tồn tại, không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa nữa.

Chúng ta đang được mời gọi tân Phúc Âm hóa. Tân Phúc Âm hóa hay loan báo Tin Mừng mới không phải là rao giảng một Phúc Âm mới. Chỉ có một Phúc Âm mà thôi. Chỉ có một Đức Giê su, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ làm người mà thôi. Phúc Âm ấy, Chúa Giê su ấy: hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến mãi muôn đời vẫn là một. Không ai được quyền thay đổi Phúc Âm ấy, không ai được quyền thay đổi đức tin. Nhưng tân Phúc Âm hóa ở chỗ đổi phương pháp loan báo Tin Mừng, đổi cách trình bày nội dung Tin Mừng. Nội dung vẫn là một, nhưng ngôn ngữ và phương cách phải được đổi mới. Phúc Âm hóa mới còn ở chỗ phải có nhiệt tình mới, một lòng hăng say mới để đi rao giảng Tin Mừng. Những điều ấy hết sức cần thiết cho thời đại của chúng ta hôm nay.

Chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, chia sẻ Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục. Một trong những sứ mạng của Ðức Kitô tại trần thế này là loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa Cha, làm sao để mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa Cha, để nhờ đó được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Gioan 17,3). Và Thiên Chúa Cha đó chính là Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8), Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến: “Chính Chúa Cha yêu mến anh em” (Ga 16,27); “Chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (Ga 17,23). Và Thiên Chúa Cha đó ở ngay trong nội tâm mỗi người chúng ta, chúng ta có thể gặp gỡ Ngài bất kỳ lúc nào chúng ta muốn: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?… Ðền thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16-17; x. 1Cr 6,19; 2Cr 6,16; Ep 2,20-22). Thiên Chúa đó lại là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm cho ta tất cả những gì Ngài muốn. Do đó, ta có thể yên tâm hoàn toàn khi phó thác tất cả mọi sự trong tay Ngài, Ðấng vừa yêu thương ta, vừa quyền phép vô biên. Nội dung Tin Mừng đối với chúng ta còn là sự nhập thể, là đời sống, là giáo huấn, là cuộc khổ nạn và phục sinh của Ðức Kitô, Con Một của Thiên Chúa Cha nữa. Ðức Kitô cũng là người yêu thương chúng ta như Thiên Chúa Cha đã yêu ta: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). “Yêu đến cùng” là yêu đến nỗi sẵn sàng hiến mạng sống mình một cách đau khổ và nhục nhã nhất (x. Ga 15,13).

  1. Làm Chứng bằng nhiều cách: lời nói, việc làm, sách báo, thái độ, cử chỉ, lời cầu nguyện, hy sinh, thời giờ, tiền của, trí tuệ! Nhờ các việc bác ái cụ thể được thực hiện trong sự khiêm tốn yêu thương vô vụ lợi, mà Tin Mừng Nước Trời sẽ tỏa sáng, giúp cho nhiều anh em lương dân nhận biết chúng ta thực là môn đệ Chúa Giê-su và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta ở trên trời như lời Đức Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người. Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta chỉ tin người sống lời rao giảng của mình.

Trong Thông Điệp Evangeli Nuntiandi (về truyền giáo) Đức Thánh Cha Phaolô VI nói: “Qua đời sống chứng nhân thầm lặng, người Kitô hữu sẽ khơi lên trong tâm trí những người chứng kiến đời sống của họ những câu hỏi đầy hấp lực: tại sao người Kitô hữu sống như thế? Điều gì hay ai đã thúc đẩy được họ sống như thế… Đời sống chứng nhân như thế quả là sự rao giảng Tin Mừng mạnh mẽ và hiệu nghiệm.”

Sẽ không có loan báo Tin mừng nếu không có tác động của Thần khí, linh hồn của Giáo hội. Ngài là tác nhân chính của sứ mệnh truyền giáo. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin mừng (x. EN 75). Khi sai các môn đệ, Chúa Giêsu đã nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi Thần khí vào họ (x. Ga 20, 21-22), khiến họ và Thần khí trở thành như một để cùng làm chứng cho Chúa Kitô (x. Ga 15, 26- 27; Cv 1, 8). Chính Chúa Thánh Thần kêu gọi mọi người đến với Chúa Kitô và thúc đẩy tâm hồn họ vâng phục đức tin nhờ hạt giống Lời Chúa và việc rao giảng Tin mừng (x. AG 15).

Điều cuối cùng trong những điều cuối cùng mà Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ Ngài trước khi Ngài về trời là: hãy «dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em» (Mt 28,20). Và Đức Giêsu đã coi việc yêu thương nhau là điều chính yếu nhất trong lệnh truyền của Ngài. Nhưng dường như nhiều nhà truyền giáo hay giáo lý viên lại nhấn mạnh vào những điểm khác đã từng bị Đức Giêsu coi là kém quan trọng hơn, chẳng hạn: những nghi thức tôn giáo (x. Mt 5,23-24; 9,13), những tập tục truyền thống (x. Mt 15,2), những luật lệ khác (x. Ga 9,16)… Thiết tưởng khi rao truyền Tin Mừng, chúng ta cần phải nắm vững sứ điệp của Đức Giêsu và truyền đạt cho mọi người đúng ý của Ngài, phải coi là chính yếu những gì Ngài cho là chính yếu. Đừng coi những điều chính yếu là phụ thuộc, và coi những điều phụ thuộc là chính yếu (x. Mt 23,16-19.23).

Là những môn đệ được Chúa Phục Sinh tuyển chọn qua Giếng Nước Rửa Tội, chúng ta hãy dùng chính đời sống vui tươi, tràn đầy hy vọng, thứ tha và yêu mến nhờ Chúa Giêsu để giới thiệu Chúa Phục Sinh cho người chưa biết Ngài. Chúa muốn dùng đời sống chứng tá của chúng ta để làm cho muôn dân thành môn đệ 5Ngài. Tôi có ý thức về việc loan báo Tin mừng? Tôi đã làm gì để loan báo TM?

  1. Trên con đường về quê

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa! Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.

“Thứ hai thì gẫm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Như vậy, các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa; trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22). Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu.

Thiên đàng hay “trời” là kết điểm của đời Kitô hữu. Trời là nơi ta thấy Thiên Chúa diện đối diện, nơi được an nghỉ, nơi không còn nước mắt khổ đau, nơi có hạnh phúc viên mãn và vững bền, nơi người ta “sống như thiên thần”, không còn có những nhu cầu vật chất, xác thịt. Tân Ước cho chúng ta những lối nói về trời. Trời được ví như bữa tiệc (Mt 8,11; Lc 13,29) hay tiệc cưới (Mt 22,2). Như thế bầu khí của trời là bầu khí vui tươi, phấn khởi, bầu khí xã hội, bầu khí của tương quan liên vị, nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và anh em ở mức độ viên mãn nhất. Trời là một ngỡ ngàng, vì tương quan luôn luôn đổi mới. Chúng ta càng tiến sâu hơn vào sự hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa.

Hôm nay, khi Chúa trao phó sứ mạng cho Giáo Hội, cho các tông đồ thì Chúa cũng căn dặn: “Anh em hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần đến trong anh em” (Cv 1, 8). Trong tuần lễ này, từ hôm nay cho đến Chúa nhật tới, chúng ta hãy khao khát, cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh, đến với từng người chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa nhiệt tình, đốt lên trong lòng chúng ta lòng hăng say để chúng ta rao giảng Tin Mừng cho Chúa.

You may also like