Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT MÙA CHAY NĂM C

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT MÙA CHAY NĂM C

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, csf

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY (chung cho các năm ABC)

Năm A và C, đọc Tin Mừng theo thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm B, đọc Tin Mừng theo thánh Máccô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần Khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Xa-tan cám dỗ”.

Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.

  1. Mùa chay kéo dài 40 ngày, nhắc nhở cho ta 40 năm trường dân Chúa đi qua sa mạc để vào đất hứa. Thời gian 40 ngày còn nhắc nhở cho ta việc ăn chay đền tội 40 ngày của các ngôn sứ. Tổ phụ Abraham 40 ngày đêm đường trường leo lên núi Horeb không ăn không uống để mang con trai là Isaac tế lễ cho Thiên Chúa. Ðể sửa soạn cho giao ước Sinai, ông Môsê đã ăn chay 40 ngày đêm để nhận lãnh bia đá giao ước (Xh 34, 28; Ðnl 9, 9). Ngôn sứ Êlia đã ăn chay 40 ngày trên đường lên núi Khô-rếp để gặp Thiên Chúa (1V 19:8). Truyền thống Kitô giáo cho rằng ông Gioan Tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi ông xuất hiện từ hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối dọn đường cho Ðấng cứu thế đến. Chính Chúa Giêsu cũng đã ăn chay 40 ngày trong hoang địa trước khi bắt đầu cuộc sống công khai (Mt 4:2; Mc 1:13; Lk 4:2). Và cụ thể mùa chay chuẩn bị tâm hồn tín hữu hôm nay đón mừng mầu nhiệm Đức Giêsu tử nạn và phục sinh.

  1. Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.

Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi. Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.

Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:

“Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.”

Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:

“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,

đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”

Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình. Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn (Mc 9,34), được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giêsu sẽ chiếm lấy (Mc 10,37).

Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Hr 4,15). Sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều theo bất chính nơi thân xác Ngài. “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội lỗi” (Dt 4,15; 2, 17). Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội.

  1. Tin Mừng đề cập đến không phải một mà là ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.

-Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3). Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh. Nhập thể là chấp nhận giới hạn của con người.

Ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh. Đích tới của con đường cứu độ cũng không phải là mang lại cơm bánh cho con người. Đối với Đức Giêsu, cứu độ hay giải phóng không phải là việc cung cấp cho con người phúc lợi vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh, mà còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Lc 4, 4). Mà Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Như thế, Ngài tự khẳng định: không ai khác, không một điều gì khác, ngoại trừ Ngài, chính là con đường cứu thoát duy nhất cho nhân loại.

Dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả, nên kêu trách ông Mô-sê: “Thà làm nô lệ cho Ai-Cập mà còn ngồi bên niêu thịt, còn hơn là tự do mà phải chết đói giữa sa  mạc!”  Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa” (Đnl 8,3).

Ðức Giêsu phó thác cho Cha lo liệu. Ngài chẳng bao giờ làm phép lạ cho mình, tuy Ngài sẽ làm cho mấy ngàn người ăn no sau này. Ngài không đòi cho Ngài được hưởng chút đặc ân nào. Ngài cũng chịu đói như mọi người. Dân Ít-ra-en xưa, khi bị đói, đã phàn nàn kêu trách và mất niềm tín thác vào Thiên Chúa; Còn Ðức Giêsu thì chấp nhận điều nghịch thường này, đó là Con Thiên Chúa bị đói. Con Thiên Chúa bị đói để lấy chính thịt máu mình nuôi sống nhân loại. Nếu nhân loại chỉ nuôi thân xác mình bằng cơm bánh rượu thịt thì nhân loại sẽ chết. Nhưng ý Cha muốn nhân loại được sống, sống bằng ăn thịt uống máu của chính Con Ngài, để nhân loại được đổi da lột xác với những xấu xa của Satan nơi mình, thành máu thịt Con của Ngài, và được sống với tư cách là con của Cha như Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, Đức Giêsu nói cho Satan biết : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)

Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thỏa mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. Chúa Giêsu trích dẫn lời sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền. Con người luôn bị “cái bụng”điều khiển và dẫn lối, để rồi trở thành nô lệ cho chính những ham muốn, những vị kỷ thấp hèn của bản thân mình. Gía trị thật của con người đâu hệ tại “cái bụng”, nhưng còn biết bao gía trị tinh thần, còn biết bao lý tưởng cao đẹp mà con người cần phải kiếm tìm .

Nhiều khi vì cơm áo gạo tiền mà chúng ta không sống theo Lời Chúa dạy: gian tham, bất công, gian dối, lừa đảo, … Nhiều khi vì cơm áo gạo tiền mà chúng ta không còn thì giờ dành cho Chúa… Nhiều khi vì cơm áo gạo tiền mà chúng ta bỏ bê gia đình, vì tiền mà gia đình xào xáo, … nô lệ cho đồng tiền…   Nhiều khi chúng ta còn tự hào vì có nhiều tiền, tự hào vì có thể dùng tiền để sai khiến người này người kia… Như vậy là chúng ta đã sa chước cám dỗ của ma quỉ…Người ta sống không nguyên bởi bánh…. Không ít người xem vật chất như thể cùng đích phải đoạt được bằng mọi giá. Vì vật chất mà đã chém giết, loại trừ nhau không thương tiếc; anh em huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Vì vật chất đã bất chấp mọi thủ đoạn dã man: buôn bán phụ nữ trẻ em, buôn bán các lọai ma túy, tổ chức bài bạc… phá hoại hạnh phúc nhiều người…Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.

Muốn trở thành người có ích thì phải học, thức khuya dậy sớm, nhịn ăn nhịn uống… nhưng có nhiều người bị cám dỗ không học mà vẫn có bằng cấp, bởi vậy mà người ta bỏ tiền ra mua… và hậu quả là những người này sẽ là mối tai họa cho gia đình , xã hội …

– Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7).  Tại sao không làm vua và cưỡng bức tất cả mọi người phải được rửa tội, như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn không? Tại sao lại cho con người tự do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt người ta làm điều tốt? Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua (Gioan 6,15).

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Ma quỉ cám dỗ Chúa không cần đi con đường khổ giá, mà dùng quyền lực để thống trị… Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma qủy để được quyền lực và vinh quang. Ðức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Ðấng duy nhất để Ngài thờ phụng. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu trích lời trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. (Đnl 6,13)

Dân Israel khi xưa trong hoang địa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa (Xh 32,42). Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu thật sự quyết tâm sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết lập bằng việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một quyền lực nào khác. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người.

Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em. Vì danh vọng, quyền lực mà con người chém giết lẫn nhau, ai cũng muốn đè đầu đè cổ người khác, bè phái, …. Rất nhiều khi chúng ta đã tôn thờ những thứ khác thay chỗ Thiên Chúa, như tiền bạc, thú vui, danh vọng v.v.

-Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11). Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất về kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Đối với Chúa Giêsu, phương thế cứu độ không phải là phép lạ, nhưng là niềm tin. Biết bao lần Chúa Giêsu chữa lành què quặt, đui mù, đau yếu, phung hủi… và Ngài chẳng bao giờ tuyên bố: “Phép lạ của Ta đã cứu chữa con”, nhưng luôn là: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.” Như thế niềm tin vào Chúa Giêsu chính là phương thế cứu độ bảo đảm nhất. Ngài không muốn cứu nhân loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người đứng dưới. Ngài muốn cứu con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những tiếng nhục mạ cười chê.

Chúa Giêsu cũng chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình yêu của Cha. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha.

Ngày xưa, trong sa mạc, dân Israel đóng trại ở Rơphiđin, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Môsê. Họ nói: “Cho chúng tôi uống đi!”, “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, súc vật chúng tôi bị chết khát hay không?” Ông Môsê nói: “Tại sao anh  em lại gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách Đức Chúa?” Ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” (Xh17, 2 – 4) Đức Chúa phán bảo ông, lấy cây gậy đã rẽ nước sông Nil, mà đập vào tảng đá, cho tuôn trào nước ra để dân uống. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, vì con cái Israel đã gây sựthử thách Đức Chúa. Còn Chúa Giêsu đã đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16).

Cám dỗ thử thách Thiên Chúa, là đòi hỏi Chúa phải chứng tỏ mình chính là Thiên Chúa. Thay vì tìm biết và vâng theo ý Chúa, chúng ta lại thường buộc Chúa phải làm theo ý mình, và khi đòi không được như thế thì giận hờn Thiên Chúa. Ma quỉ gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta cũng mất lòng tin vào Chúa, trách móc Chúa: tại sao Chúa bắt con phải khổ thế này? Tại sao Chúa không ra tay diệt trừ bọn ác nhân?…. Sau động đất, song thần,… nhiều người đặt câu hỏi: tại sao Chúa không can thiệp?….Tại sao Chúa để như vậy, là chúng ta thách thức Chúa. Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin. Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.

Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng dẫn lời thánh vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu nghe theo hắn. Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp tục dùng sách Đệ Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào dám thách thức Ngài để đáp lại lời satan: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

  1. Đó là những cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu ‘Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?

Đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong “40 năm”, và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân Người: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Chúa Giêsu chính là Israel mới: Ngài cũng sống trong sa mạc một thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ như dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Đó là nhờ Ngài luôn tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa.

Cần nhìn sâu vào những cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn là những cám dỗ muôn thuở. Đức Giêsu đã không muốn dùng quyền năng Cha ban để tự lo cho bao tử của mình. Ngài cũng không phục lạy ma quỷ để được làm chủ cả thế gian với bao quyến rũ. Ngài cũng chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người đứng dưới. Ngài muốn cứu con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những tiếng nhục mạ cười chê. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha đến cùng. Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và vâng phục, và vâng phục cho đến chết.

Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề. Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta. Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.

Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự.

  1. Cả 3 lần cám dỗ, Chúa đều dùng Lời Chúa để chống lại (Đnl 8,3; 6,13; 6,16). Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi. Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Thánh Phaolô nói, “Hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa (Ep 6,17). Nếu chúng ta gìn giữ Lời Chúa trong tâm trí, nếu Lời Chúa ở trong đời sống chúng ta, nếu chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, chúng ta có thể đẩy lui mọi chước cám dỗ của ma quỷ.

Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay, cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa, sống tinh thần yêu thương chia sẻ với tha nhân. Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng chỉ đường cho con đi, …. Cầu nguyện là để nhận biết thánh ý Chúa mà thực thi, không phải để “bắt” Chúa phải làm theo ý của mình.

Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Lạy Chúa, “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha).

Có của mà vẫn sống lương thiện; hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà; nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tấm gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.

  1. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng. Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Cao điểm của đời sống cầu nguyện chính là việc tham dự Thánh Lễ và Rước Lễ cách sốt sắng, khi ấy chúng ta được nên một với Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể là nguồn sống và nguồn sức mạnh của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta được sức mạnh của Chúa Thánh Thần để sống theo luật Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, để từ khước những sự quyến rũ của thế gian, dấn thân thực hiện những đòi hỏi của Tin Mừng. Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh hãm mình và sống yêu thương hiệp nhất theo tinh thần Phúc Âm, để được cùng Chúa Giêsu Con Mẹ mà chiến thắng ma quỷ, thế gian và xác thịt. Amen.

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. “Ma qủi sàng các con như sàng gạo” (Lc 22,31). “Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mối để cắn xé” (1 Pr 5,8). Chúng ta sẽ gục ngã trước sức mạnh của sự dữ nếu chúng ta chỉ dựa vào sức lực riêng của mình. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt. 26:41)

Đi vào sa mạc là đi vào cõi lòng mình, đi vào cõi thinh lặng nội tâm để gặp gỡ, để đối thoại với Thiên Chúa, để lắng nghe thánh ý Chúa, để nhìn lại chính mình. Chúng ta sẽ dễ bị ma quỷ cám dỗ nếu chúng ta mãi chạy theo tiền của, danh vọng, tham – sân  – si để rồi không còn thời giờ để hồi tâm. Ước chi trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta ý thức được thân phận yếu đuối của con người hay hướng chiều theo tội lỗi, những cám dỗ muốn được hưởng thụ, sự dễ dãi… đó là những thứ chúng ta dễ bị quyến rũ hay nhiều lúc tự  đưa mình vào những cám dỗ ấy để thoả mãn những ham muốn thấp hèn và chóng qua. Ăn chay, tỉnh thức, cầu nguyện, chia sẻ, thực thi thánh ý Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng bản thân, chế ngự tính hư nết xấu và gắn bó với Chúa hơn.

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY (chung cho các năm ABC)

Chúa Hiển Dung

Bài đọc 1: St 15,5-12.17-18- Thiên Chúa lập Giao ước với Abraham

  1. Tin mừng Chúa Nhật II mùa Chay của cả ba năm A – B – C đều tập trung vào một chủ đề “Chúa biến hình”. Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị giết chết. Cái tin đột ngột này chắc hẳn đã làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Có lẽ cũng như bao người Do Thái khác, các ông đang mơ ước một Đấng Thiên Sai theo nghĩa thế tục. Đúng Người là Mêsia, nhưng lại là một Mêsia mang thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ, như Isaia chương 53 đã tiên báo. Do đó, khi đi theo Chúa và nhất là khi nghe loan báo về cuộc khổ nạn của Người ở Giêrusalem thì các ông bàng hoàng, chao đảo. Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 21-23). Chính vì thế Ngài cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần các ông, củng cố niềm tin các ông trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm bằng cách cho họ được nhìn thấy trước vinh quang của Ngài. Bởi đó, 6 ngày sau, Ngài đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Lại có Môsê, Elia hiện ra đàm đạo với Ngài. Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31). Sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng các ông cứ tin tưởng có thế giới bên kia, nơi mà hai vị đại ngôn sứ đang sống hạnh phúc ngập tràn. Và rằng các ông cứ an tâm Thầy của họ có chết thì cũng sẽ phục sinh vinh quang.

Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời.

Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 17,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Sau đó, Ngài còn loan báo cho các ông thêm một lần nữa.  Chúng ta vẫn quen gọi: Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).

  1. Khi nói “Lề luật và các Ngôn sứ” ta hiểu là nói về toàn bộ Cựu ước. Môsê và Êlia đại diện cho toàn bộ Cựu ước (x. Lc 24, 27. 44). Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Môsê (biểu tượng cho Lề Luật được ban trên núi Sinai) và Êlia (thủ lãnh các ngôn sứ, tượng trưng các tiên tri loan báo Đấng Thiên sai) nói lên sự gặp gỡ giữa Cựu Ứơc và Tân Ước. Đấng không đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ (Mt 5, 17), giờ đây đang gặp gỡ hai vị đại diện cho Lề luật và các Ngôn sứ. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy Đức Giêsu hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Êlia được ngôn sứ Malaki tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giêsu đến: «Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng» (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến (x. Mt 17,10-12; Mc 9,12-13). Và Ngài đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Còn ông Môsê đã nói trước khi lìa đời: “Từ giữa các anh em ngươi, Thiên Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một tiên tri như Ta, các ngươi sẽ nghe Ngài “ (Đnl. 18, 15). Sự xuất hiện của họ chỉ cho ta thấy, Chúa Kitô là chính Đấng phải đến mà họ đã tiên báo. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ. Bởi đó, hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31).

  1. “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người, Hãy vâng nghe lời Người,” Với những lời này, Thiên Chúa Cha ban Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại như là Thầy duy nhất và cuối cùng, cao trọng hơn các lề luật và các tiên tri. Chúa Giêsu làm đẹp lòng Chúa Cha bởi vì Ngài luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha muốn cứu độ hết mọi người bằng sự vâng phục tự hạ của Đức Giêsu, bằng đời sống hy sinh âm thầm phục vụ của Đức Giêsu, nhất là bằng cái chết nhục nhã đầy đau thương của Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã thực hiện đến cùng. Vì thế, Đức Giêsu được Chúa Cha gọi là Người Con yêu dấu, được Chúa Cha siêu tôn làm Vua các vua, Chúa các chúa qua mầu nhiệm phục sinh vinh hiển của Ngài. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).

Sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu. “Hãy vâng nghe lời Người”. Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ. Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này.

  1. Cuộc xuất hành mới. – Hai nhân vật nổi nang của Cựu Ước là Môsê và Êlia xuất hiện trong biến cố biến hình để đàm đạo “về cuộc xuất hành Ðức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9, 31). Ðây là cuộc xuất hành mới. Nó sẽ được Luca mô tả chi tiết kể từ Lc 19,51 trở đi. Cuộc xuất hành cũ được thực hiện với việc ký giao ước. Ông Môsê cho ngả bò làm hy tế kỳ an. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” Bấy giờ, ông Môsẽ lấy máu rảy lên dân và nói: “Ðây là máu giao ước Ðức Chúa đã lập ra với anh em, dựa trên những lời này.” (Xh 24, 5-8).

Chén Này Là Giao Ước Mới, Lập Bằng Máu Thầy- Cuộc xuất hành mới cũng được thực hiện với việc ký giao ước. Việc ấy sẽ được thực hiện với chính máu của Ðức Giêsu. Người hoàn toàn tự nguyện làm việc hiến máu cùng mạng sống khi nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,10). Trước khi phó nộp bản thân cho người ta đem đi giết, Ðức Giêsu một cách hoàn toàn tự nguyện đã phó nộp mình cho các môn đệ trong bí tích tình yêu là bí tích luôn được thể hiện trong Giáo Hội.

  1. Tại sao Chúa lại cấm Phêrô, Gioan, và Giacôbê không được nói cho ai biết về sự kiện Chúa biến hình (Mc 9: 9)? Tại vì dân Do Thái vẫn có lối suy nghĩ rất sai lạc về Ðấng Cứu Thế. Với họ, vai trò của Ngài là sẽ giải phóng dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma và còn ban cho họ những đặc ân về phương diện lợi lộc trần thế. Vì vậy mà Chúa tránh đám đông khi họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau khi Ngài đã cho họ ăn bánh và cá no nệ. Vì thế, việc ba môn đệ loan tin Thầy của mình biến hình sáng láng sẽ gây hiểu lầm cho người khác. Chúa bảo các ông đừng báo cho ai biết cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại. Ðiều ấy ám chỉ sau khi họ chứng kiến một Ðấng Cứu Thế chịu hy sinh, đau khổ, bị giết chết, nhưng đã chỗi dậy. Phải có như thế thì các môn đệ và dân chúng mới có cơ may hiểu được rằng Ðấng Cứu Thế đến để cứu chuộc loài người thoát khỏi tội lỗi bằng giá máu và hy sinh chứ không phải bằng cuộc cách mạng đổ máu. Sở dĩ Chúa cấm các môn đệ không được tiết lộ biến cố huy hoàng mà họ vừa được mục kích, là vì họ chưa hiểu hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa cuộc đời của Ngài. Ngài còn phải trải qua chống đối, đau khổ, nhục nhã và cái chết. Chỉ khi nào họ chứng kiến Ngài sống lại và lên trời, lúc ấy mới thấy được toàn bộ ý nghĩa sự hiện diện của Ngài giữa họ, giữa dân tộc Do thái và loài người.

  1. Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài. Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các thụ tạo của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh…Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.

Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19, 2)

Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta. Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.

Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người. Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.

Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông (Xh 34, 29-35). Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn. Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.

Chúa Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các môn đệ và cũng là chuẩn bị cho các ông đón nhận việc Chúa chịu đau khổ và sự chết. Đặc biệt Chúa Giêsu mời gọi chúng ta biến hình giống như Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta được sáng ngời, trở nên đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống của chúng ta sẽ thấy được Thiên Chúa. Trong mùa Chay này Chúa muốn chúng ta dùng những phương thế mà Chúa và Giáo Hội mời gọi để chúng ta có thể biến hình như là: ăn chay, cầu nguyện, làm việc lành phúc đức, từ bỏ cái tôi để có thể vác thánh giá theo Chúa…

  1. Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24 ).

Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu – vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang. Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga.12,23-28). Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.Vì sự sống là từ Thiên Chúa.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang.

  1. Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.

Không phải không có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời. “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.

Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

  1. Vâng nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh, trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.

Đọc bài Tin mừng này trong mùa chay, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngắm con đường thập giá của Chúa. Mùa Chay là thời gian tốt để chúng ta nhìn lại con đường mình đang theo đuổi. Có phải con đường ấy là con đường của Chúa Kitô? Thập giá Đức Kitô đã làm vấp ngã nhiều người Do Thái thời bấy giờ, thì ngày nay, thập giá ấy vẫn là một chướng ngại cho nhiều người chúng ta. Con đường của chúng ta thì khác với con đường của Thiên Chúa. Chúng ta mong đợi giầu sang thì Chúa lại chúc phúc cho kẻ nghèo khó. Chúng ta muốn an nhàn, muốn hưởng lạc thì Chúa lại đề cao sự phục vụ. Chúng ta muốn xây dựng ngôi đền bằng gạch đá để Chúa ngự, thì Chúa lại yêu chuộng các đền thờ tâm hồn. Chúng ta muốn quyền lực, muốn danh vọng thì chính Chúa, là người đang có tất cả trong tay, lại từ bỏ mọi sự để chịu nhục nhã của một tử tội. Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng không phải là quyền thế, không phải là giầu sang, không phải là sung sướng vật chất mà là sự chiến thắng chính bản thân mình, kể cả ý riêng của mình mà vâng theo thánh ý của Thiên Chúa.

Chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong vinh quang của Người trên trời, sẽ thấy Người trong vẻ đẹp kiều diễm sáng láng (Kh 1 ,13- 18), và sẽ được ở cùng với Người muôn đời (1Tx 4, 17). Trong khi chờ đợi ngày khải hoàn vinh phúc đó, ta hãy sống trong đức tin là tuân phục: ta hãy vâng nghe Người. Đức Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa.

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY

Bài đọc I (Xh 3,1-15)- Tuần vừa qua, chúng ta được kể về giai đoạn thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp giai đoạn thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập, nói lên tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tìm và đã nhìn thấy dân Israel đang cơ cực trong vòng nô lệ Ai Cập. Người đã chọn Môsê như sứ giả của Thiên Chúa đến với dân và như lãnh đạo giải phóng đến với người Ai Cập. “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”.

Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)- Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do Thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Tin Mừng (Lc 13,1-9)

  1. Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối. Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa.

  1. Hai mẫu chuyện, hai mẩu thời sự nóng lúc đó là quan tổng trấn Philatô tàn sát mấy người Galilêa nổi loạn, ngay chính trong đền thờ, máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh và việc tháp Siloê đổ xuống đè bẹp 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai họa đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Chúa Giêsu muốn lên tiếng cảnh tỉnh họ đừng rơi vào tâm trạng của những người tự cho mình là công chính, là thánh thiện trước những biến cố của thời đại. Đức Giê-su coi đây là lời cảnh cáo chung cho mọi người: bất cứ ai không mau mắn sám hối tội lỗi thì cũng đều phải chết như thế! Người muốn nhấn mạnh rằng ai cũng là tội nhân, ai cũng có tội, ai cũng đáng chịu án phạt của Người; do đó, cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa. Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến: “Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết”. Tất cả đều có thể chết bất đắc kỳ tử. Vậy hãy coi chừng cái chết đang rình rập anh em. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?
    Vì đời sống của mỗi người chúng ta thường xuyên bị đe doạ, nên sám hối, hoán cải đời sống là một việc khẩn cấp. Đừng hồ đồ suy đoán về người khác nhưng mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối. Hãy xem đó như là bài học báo trước những gì sẽ xảy đến với  mình nếu không biết hối cải ăn năn. Mỗi một biến cố xảy đến trong cuộc sống phải chăng là tiếng chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta cần phải duyệt xét lại đời sống mình, nhằm uốn nắn, chỉnh sửa những gì lầm lỗi thiếu sót chứ không phải là dè bỉu, chê bai, lên án đồng loại khốn cùng. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn, cái án phạt muôn đời: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

Chúa Giêsu kêu gọi người nghe hãy coi lại bản thân. Vì thói đời thường «thấy cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy» (Mt 7,3). Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình trước đã: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!» (Ga 8,7). Lời Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: «Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy».
Chúng ta thường hay xét đoán và quy kết cho những người chẳng may bị bệnh hoạn hoặc tai nạn,v.v… là do hậu quả của một cuộc sống bê tha, tội lỗi, nay bị “trời phạt” chứ không bao giờ coi đó là bài học để cảnh báo cho chính mình. Mỗi một biến cố xảy đến trong cuộc sống phải chăng là tiếng chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta cần phải duyệt xét lại đời sống mình, nhằm uốn nắn, chỉnh sửa những gì lầm lỗi thiếu sót chứ không phải là dè bỉu, chê bai, lên án đồng loại khốn cùng.

Bài đọc 2 Chúa nhật hôm nay cũng cảnh cáo tín hữu về hoàn cảnh tương tự, về đời sống siêu nhiên. Thánh Phaolô viết: “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những kẻ đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Đừng ảo tưởng mình hoàn toàn trong sạch, không tì vết và có thể đứng vững trước ba thù, bởi “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12).

  1. Biết bao người hiền lành, thánh thiện bị Chúa thử thách và thánh hóa bằng nghịch cảnh, bằng những tai ương dồn dập. Thánh vịnh nói: “Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân”. Các Ki-tô hữu thời sơ khai, các thánh tử đạo… thường là những người hiền đức nhưng cuộc đời của họ nhiều khi gặp toàn nghịch cảnh, và có khi phải chết một cách thảm thiết. Thật vậy, Chúa thương ai nhiều thì thường thử thách người đó nhiều bằng đau khổ, vì đau khổ có khả năng thánh hóa rất cao. Do đó, không thể cứ thấy ai lâm hoạn nạn là ta nghĩ họ vì tội lỗi nên bị Chúa phạt. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa thánh thiện và vô tội, mà cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn chịu chết nhục nhã bất công trên cây thập giá.

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu mỗi ngày biến đổi nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội cho con và nhiều người. Xin cho con luôn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa quan phòng và giúp con ngày một nên hòan thiện hơn. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con.

  1. Thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình chỉ khiến ta phát sinh lòng kiêu ngạo, tự mãn, khinh người. Còn nhận ra tội lỗi hay yếu đuối của mình, sẽ giúp ta khiêm nhường, nhất là cảm thông được những yếu đuối và tội lỗi của người khác. “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…”(Tv 50). Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.

Do đó, sám hối là điều cấp bách mọi người phải làm. Đây là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng, việc sám hối luôn là chủ đề chính trong mọi lời giảng của Chúa.  Lời rao giảng đầu tiên của Chúa: “Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Thánh Gioan Tẩy Giả cũng khởi đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi ấy: “Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời gần đến” (Mt 3,2). Sám hối là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời. Không ai có thể vào Nước Trời, không ai có thể làm môn đệ Chúa Kitô nếu không sám hối, không thay đổi tâm hồn cho hợp với sứ điệp Tin mừng.  Mùa chay là mùa sám hối, nên bắt đầu mùa chay,  vào ngày Thứ Tư Lễ Tro, mọi người lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19). Tro tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7), và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.

Không sám hối thì không thể đón nhận Tin Mừng.  Do đó, sám hối và tin vào Tin Mừng là một hành động với hai động tác: bỏ đi những giá trị thế gian để thay thế bằng những giá trị Tin Mừng, bỏ đi lối sống của thế gian để thay thế bằng lối sống của Chúa Ki-tô. Ba năm trời Chúa cất bước rao giảng Tin Mừng.  Vậy mà Người vẫn thường gặp cảnh “đã ba năm nay, tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy”, nghĩa là Tin Mừng vẫn không sinh hoa kết trái nơi nhiều người.  Tại sao vậy?  Là vì họ không sám hối, không thay đổi, vẫn khư khư giữ đầy lòng họ những “vệ đường, sỏi đá, bụi gai”, để không còn chỗ cho Lời Chúa hoạt động.

Là con người, ai cũng có sai sót, lầm lỗi, không trừ một ai. Chỉ có điều là có những người không có khả năng thấy được sai lầm, thậm chí còn cho rằng mình không thể phạm sai lầm, thiếu sót, hoặc đã thấy mình sai lỗi nhưng không chịu thừa nhận, hoặc có thừa nhận nhưng không chịu sửa chữa, không xin lỗi, hoặc có sửa chữa mà cũng không thành thật, không quyết tâm cho đến cùng.

  1. Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân It-ra-en là cây vả không sinh trái (x. Ge 1,7: cây vả tượng trưng cho Israel; Gr 8,3: cây vả tượng trưng một Israel không sinh hoa trái). Thiên Chúa đã tuyển chọn dân It-ra-en làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người. Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên, khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá, dân Do thái tản mác khắp nơi.

Sám hối đồng nghĩa với việc phát sinh hoa trái: Mỗi người chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt nếu không biết hồi tâm sám hối bằng cách sinh hoa trái là các việc lành bác ái phục vụ tha nhân. Cũng vậy, nhiều người tuy không phạm tội cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt tha nhân… Nhưng đã làm ngơ không giúp đỡ tha nhân … Họ đã được trao cho một nén bạc, thay vì phải làm lợi gấp đôi cho chủ, lại đem chôn giấu đi (x. Mt 25,18), thể hiện qua thái độ ích kỷ, chỉ lo cho mình, không quan tâm thăm viếng và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát bệnh tật (x. Mt 25,42), để mặc cho sự gian ác hoành hành trong xã hội… Người tín hữu sống đạo hôm nay là phải tránh thái độ thờ ơ giống như cây vả không sinh trái. Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội, mà còn là tích cực gieo rắc, phát huy cái tốt. Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng. Có thành tâm xét mình, tôi mới biết tội lỗi đã vấp phạm đến tha nhân và đến Chúa như thề nào. Tôi ân hận đã xúc phạm đến anh em, bè bạn, vợ con, hàng xóm, đồng nghiệp, và nhất là xúc phạm đến Chúa. Tôi đã phạm tội và đã thiếu sót, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu đức Ái, thiếu đức trong sạch, lỗi phép công bằng… Do đó, sám hối không chỉ là hối hận về những điều tội, điều xấu ta đã làm, mà còn về những điều tốt, điều lành lẽ ra ta phải làm nhưng đã không làm. Nói khác đi, ngay cả khi ta không làm điều xấu, ta không phạm giới luật nào đi nữa, ta cũng phải sám hối vì những điều tốt ta đã sao lãng, hoặc đã thực thi không vuông tròn. «Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 3,10; Lc 3,9).

Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe đọc trong ngày thứ sáu sau lễ tro: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn làm đẹp lòng Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi cư ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” (Is 58,3-7)

Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương, quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!

  1. Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh. Dù là Chúa Tể trời đất, Ngài không hổ thẹn gọi tôi là con mà còn chuộc mạng tôi “khỏi chỗ vong thân” bằng giá máu Con Một Ngài! Trước một tình yêu “như trời xanh cao vượt trên trái đất”, một tình yêu luôn mong đợi điều tốt đẹp nơi tôi: “May ra nó có quả chăng”, tôi còn tính toán thiệt hơn gì mà không đáp lại ngay với câu trả lời đẹp nhất.

Cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối. Dụ ngôn cho thấy lòng nhân từ, bao dung và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi. Nhưng hơn thế nữa, đó lại là cơ hội để con người hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương và mở rộng cửa để đón nhận mọi người quay trở về với Ngài. Thiên Chúa đã không kết án con người trong quá khứ, và Ngài luôn kêu mời chúng ta hoán cải, để có cơ hội sống tốt hơn và tốt hơn nữa trong tình thương của Ngài. Nếu giờ phán xét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta hoán cải, chứ chẳng phải là Người đã chấp thuận các hành vi của ta. “Hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3,8). Có thể coi việc sám hối đó vừa như một sự dừng lại, một sự đổi hướng và một sự sinh quả. Bản chất của lòng hoán cải, đó là quyết định sống từ nay theo Tin Mừng. Và bắt đầu việc đó ngay lập tức!

Chúng ta chỉ là bụi tro, nhưng Thiên Chúa đã cúi xuống xác bụi phàm trần ấy để nâng dậy và trao ban đầy tràn ân sủng, sự sống và vinh quang. Tội lỗi chúng ta được xóa sạch, tâm hồn chúng ta được bình an, cuộc đời chúng ta trở nên giàu có, muôn vàn phúc lộc từ Cha trên trời đổ xuống, là vì chúng ta có Đức Giêsu Kitô. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân.

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là “tận cùng bảng số”. Thánh Phaolô không thể im lặng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1 Cr 10:1-4). Bởi vậy, hãy dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.

Mùa Chay thiết tưởng là thời gian thuận tiện để chúng ta suy tư về cuộc sống của chúng ta trước mặt Chúa, để khám phá những dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong cuộc sống thường ngày, để nhận định được những gì chúng ta còn có thể sửa đổi, để con đường chúng ta đi được đúng hướng. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không nhằm hăm dọa con người, nhưng là sứ điệp về lòng nhân hậu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Người, chúng ta sẽ hoán cải, để đạt được niềm tin sâu xa hơn và cuộc sống bác ái cụ thể hơn.
Chúng ta đã được dựng nên trong ân sủng, bảo bọc nuôi dưỡng trong ân sủng, và được kêu gọi tham dự vào ân sủng đời đời trong Thiên Chúa. Ngài đã trao vũ trụ cho con người làm chủ và mời gọi con người bước vào một mối tương quan yêu thương mật thiết với Ngài. Thiên Chúa nghĩ đến ta trước cả khi Ngài tạo thành vũ trụ. Thực ra đó là lý do Ngài đã tạo dựng thế giới. Thiên Chúa đã hình thành hành tinh này cho chúng ta để chúng ta sống và hưởng dùng. Mọi ngày đời của ta đã được khắc ghi trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa từ trước khi ta thành hình trong dạ mẹ (x. Tv 139, 16). Bởi thế, dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đưa đẩy của cuộc sống, ta vẫn được kêu gọi để sinh hoa kết quả trong chính ơn gọi của mình. Dẫu là sa mạc, xương rồng vẫn nở hoa. Có người được kêu gọi làm linh mục, tu sĩ. Có người được kêu gọi sống thánh trong bậc sống gia đình. Người khác lại được mời gọi sống độc thân và phục vụ cộng đồng bằng các công việc bác ái…Dưới bất kỳ ơn gọi nào, chúng ta cần khám phá quà tặng độc nhất Thiên Chúa ban cho mỗi người, không ai giống ai, để góp phần mình vào công trình xây dựng nhà Thiên Chúa. Người được trao một nén, sinh lợi một; người được trao hai nén, sinh lợi gấp đôi; người được giao phó mười nén, hãy sinh lợi gấp mười. Xác tín vào sự trợ giúp căn bản của Thiên Chúa để ta không nản chí sờn lòng khi phải đối diện với những khó khăn thử thách của cuộc sống. Thiên Chúa vẫn ở đó, bên cạnh ta. Con người chỉ có thể sinh hoa kết trái khi biết cộng tác với ơn thánh của Thiên Chúa.

Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng trong vườn nho của Chúa. Mỗi con người là một thụ tạo rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì, theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt. Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối với Chúa, chu toàn bổn phận đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả không trái trên đây. Chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?
Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.

  1. Bốn mươi ngày chay thánh là một hành trình thiêng liêng giúp ta tìm về với Thiên Chúa. Nhìn lại chính mình để thấy mình cần phải được đổi mới, cần hoán cải, cần cởi bỏ con người cũ với những thói quen xấu để một lần trao cho Thiên Chúa cơ hội biến đổi từ bên trong tâm hồn với những khao khát lành mạnh, thiêng liêng và thánh thiện. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức…

Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy“. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa“. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Người thợ làm vườn nho đầy nhân từ trắc ẩn, đầy quan tâm sát sao và đầy tình yêu đối với cây nho của mình, đó chính thật là Chúa Giêsu mà chúng ta yêu mến. Vì Thiên Chúalà Đấng từ bi và hay thương xótchậm bất bình và hết sức khoan dung.”(Tv 103, 8) Ngài còn cho tôi cơ hội và thời gian, để hoán cải, để đơm bông kết trái, tất nhiên tôi phải chịu nhiều thách đố, chịu lột xác đau khổ, tỉa cành, chặt rễ, khấc thân, vô phân. Vậy tôi còn phúc nào hơn nữa?

Đừng trì hoãn việc hoán cải đến ngày mai. Thời giờ ngắn ngủi lắm, đây là lần gia hạn cuối cùng. Ngày mai sẽ là quá trễ. Ta có cơ may được nghe những lời cảnh báo này. Ngày hôm nay là một ngày hồng ân của Thiên Chúa, ta không được bỏ lỡ.  Sám hối ăn năn để đón nhận tình thương tha thứ của Thiên Chúa.  Sám hối ăn năn để giao hoà cùng anh chị em mình nữa.

“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”. Xin cho con luôn kết hợp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình, để cuộc sống của con được sinh nhiều hoa trái.

Lời Chúa hôm nay giúp người tín hữu đề cao cảnh giác khi những thiên tai xẩy ra trong trời đất như động đất, lụt lội, bão táp, giông tố hay những tai hoạ như hoả hoạn, chiến tranh, bạo động, đắm tầu, máy bay rớt, xe đụng hoặc những bệnh hoạn tật nguyền xẩy đến cho họ hay gia đình. Những biến cố đó có giúp được gì cho mình thay đổi cách sống hay mình cứ để cho biến cố qua đi như mây bay, mà không ghi nhớ được bài học nào của Chúa. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

Dụ ngôn người cha nhân hậu

 

Bài đọc I (Gs 5,9-12)- Cách đây 2 tuần, chúng ta được kể về giai đoạn thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần vừa rồi chúng ta được nghe kể tiếp giai đoạn thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập. Tuần này: giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.

Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)- Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là chúng ta đã trở nên “những con người được đổi mới” vì chúng ta đã được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ công nghiệp khổ nạn của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta hãy thật lòng từ bỏ tội lỗi và trở về “làm hòa với Chúa và với nhau.”

Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)

1. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng.

 Các người Pha-ri-sêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sa-bát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa…). Họ luôn lên án những người tội lỗi. Họ xa lánh những người tội lỗi vì họ sợ bị ô uế. Họ chỉ trích Đức Giê-su vì Người tiếp đón những kẻ tội lỗi và ăn uống với họ, có nguy cơ trở nên ô uế như họ. Họ cực lực phản đối cách sống đạo của Ngài, coi Ngài như rối đạo, đi ngược lại với luật Môsê. Nhưng Đức Giê-su đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả (x. Mt 23). Chẳng hạn: chỉ tuân giữ Luật theo hình thức bề ngoài; tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; ăn mặc lụng thụng để được kính trọng (x. Mt 23,5-6); tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu (x. Mt 23,23), bắt dân chúng tuân giữ các khỏan Luật từng chi tiết đang khi chính mình lại không chịu giữ (x. Mc 12,38-40).

  1. Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa chay hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng cho các kinh sư và nhóm biệt phái nghe để cố gắng làm cho họ hiểu rằng Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài yêu thương tất cả mọi người, nhất là những người tội lỗi. Người Cha trong dụ ngôn này chính là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa đầy lòng từ bi và thương xót.

Việc muốn được chia gia tài là tâm lý chung của mọi người, muốn sống độc lập, sống tự do tự tại và không muốn lệ thuộc ai. Người con thứ xin chia phần gia tài thuộc về mình, để được tự do ăn chơi, tiêu xài và cả việc “tự do phạm tội” mà không muốn ai quấy rầy. Ý thức tự do chính là con dao hai lưỡi mà Thiên Chúa trao cho con người, để qua đó con người tự quyết định cho chính thân phận mình và cũng làm nên công phúc. Ngài không muốn và cũng không thích cấm đoán con người, nhưng ngược lại, Ngài trao cho con người quyền làm chủ trên các sinh vật và ngay cả trên chính bản thân mình. Con người có quyền làm điều lành, nghe theo tiếng lương tâm; nhưng ngược lại, con người cũng có quyền làm điều xấu để phải chịu hình phạt. Thậm chí con người  có quyền dùng tự do Chúa ban để chống lại Chúa. Chúa là Cha nhân từ, Người dựng nên chúng ta theo hình ảnh Người (hơn mọi thụ tạo khác) và ban cho chúng ta có ý thức Tự Do và Trách Nhiệm về cuộc đời mình. Ngài luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Con người muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.

  1. Người con thứ: trong truyền thống Đông phương, một người con hay một ai đó chỉ có thể thừa hưởng tài sản của bố mẹ hay của một người nào đó khi và chỉ khi bố mẹ hoặc người đó qua đời. Lúc đó, có thể nói, quyền thừa kế mới hiệu lực. Người con thứ hẳn phải biết điều này. Thế nhưng anh đã bất chấp tất cả, đòi người cha phải chia tài sản cho bằng được, điều đó cho thấy trong thâm tâm, anh ta đã xem người cha như đã chết, không còn hiện diện trên cõi trần này nữa, có chăng đó chỉ là cái bóng, “cản mũi kỳ đà” mà thôi.

Người con thứ trong dụ ngôn đã rút hết phần gia tài thuộc về nó. Ðiều đó cho thấy nó thực sự đã cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình. Cái cảnh phung phá tiền của, bất kể tới mồ hôi nước mắt của người bố và tiếng tốt của gia đình, điều đó chẳng ai mà chấp nhận. Nhưng với người Do Thái, điều ghê tởm hơn cả là cái cảnh đứa con thứ phải đi chăn heo. Chỉ có “quân ngoại đạo” mới làm công việc đáng khinh bỉ đó. Hơn nữa, nó ước ao được ăn thứ đồ heo ăn mà cũng chẳng có mà ăn. Như vậy, người con thứ không những bị suy sụp mà còn xuống cấp vì trở nên hèn hạ hơn loài heo là con vật mà ai là người Do Thái cũng ghê tởm!

Trong Dothái giáo, heo là một con vật ô uế (x Lv 11,7 ; Dnl 14,8). Họ không ăn thịt heo. đi chăn heo tức là đi vào con đường cùng của sự sa đoạ. Chấp nhận công việc này, tức là người con thứ để mình rơi vào tình trạng của người suy thoái về niềm tin Dothái giáo. Như thế là, cùng với tình trạng suy đồi về luân thường đạo lý, suy thoái về địa vị và nay niềm tin tôn giáo cũng mai một, người con thứ đã tự chuốc lấy tình trạng của một con người ở ngoài xã hội, cắt đứt mối quan hệ với dân tộc, với tôn giáo và gia đình.

Yếu đuối, lầm lỡ và sa ngã là điều thường thấy nơi bản tính mỏng dòn của con người. Nhưng điều quan trọng, điều cần thiết hơn cả mà người con thứ đã làm được, đó là việc anh đã nhận ra được lầm lỗi của mình để ăn năn, để quay trở về với cha của mình. Điều thật đơn gỉan, nhưng không phải dễ, bởi con người ngày càng chai lỳ lương tâm, không còn nhạy cảm và “xấu hổ”với chính những lầm lỗi của mình. Con người thường chỉ thấy “cái sà” trong mắt anh em, mà lại quên cả “cái đà” trong mắt mình. Thường chúng ta chỉ thích kết án người “bới lông tìm vết” tha nhân chứ không bao giờ biết hối hận ăn năn vì những lầm lỗi và “cái ác của mình. Người con thứ, trong lúc thiếu thốn, đã nhận ra “cái mình đánh mất”, và chỉ muốn làm “người đầy tớ” trong nhà cha của mình, cũng đã đủ hạnh phúc cho anh.

  1. Về phần người cha, sau khi đứa con ra đi, ông đã ngày ngày chờ đợi nó quay trở về. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: không trách mắng hay trừng phạt, mà vội chạy tới ôm chầm lấy cổ nó và hôn lấy hôn để, lập tức trả lại địa vị làm con qua việc cho thay áo mới, đeo nhẫn, xỏ giầy và cho mời các người thân cận đến nhà ăn mừng. Người cha nào có để ý gì đến lời xưng thú của nó. Ông chỉ quan tâm tới việc hồi phục lại toàn bộ những đồ ông dành cho người con kể như đã mất mà nay tìm được, đã chết mà nay sống lại! Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con trở về.

Richard Pindell có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là David. Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp thuận cho con được về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”. Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé: lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim David đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây ấy và nói cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, David nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu hay không?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ và để cậu yên tâm trở về nhà.

Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Nổi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được. Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó, chúng ta biết rằng đối với người Dothái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểu trưng cho tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác lập lại mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác lập lại quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không hề nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao?

Vậy con trở về được cha ôm cổ, hôn lấy hôn để, trao nhẫn, mặc áo, mang giày đẹp, mở tiệc ăn mừng, diễn tả tội nhân trở về với Chúa được Ngài trả lại quyền làm con Chúa, xác nhận là con được tự do ở trong nhà cha mãi mãi, chứ không phải là kẻ nô lệ bị đuổi ra ngoài (x Ga 8,35).

  1. Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt “nhãn tiền” những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Chọn lựa Thiên Chúa thì sống, vì Ngài là chính sự sống. Chối bỏ Thiên Chúa thì chết, vì chối bỏ sự sống.Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã sử dụng sai quyền tự do của mình. Khi con người đi đàng tội lỗi, Thiên Chúa không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.

Thiên Chúa là chân lý, nhưng Ngài thường không dùng lý với chúng ta, và Ngài đã dùng tình. Nếu Thiên Chúa dùng lý đối với con người thì chắc chắn con người không sống nổi. Vì “ ai trong các người sạch tội, hãy ném đá người phụ nữ nầy trước đi” ( Ga 8, 7 ). Như vậy, Thiên Chúa nhân từ, nhưng không nhu nhược, vì Ngài là Đấng công minh, là chân lý, nhưng lại nặng tình. Vì thế, Thiên Chúa muốn cứu độ con người và Ngài đã chứng minh điều ấy bằng phương tiện hữu hình là cây Thập giá. Trên đó, Thiên Chúa muốn tha thứ tất cả vì Ngài đã dùng tình yêu, chứ không dùng lý trí để đối xử với loài người.

Ta không hiểu và ta khó chấp nhận cách cư xử của người cha trong dụ ngôn khi theo các tiêu chuẩn thông thường của người đời. Một ông cha tốt đến mấy cũng không hành xử như thế. Chúng ta viện đủ lý lẽ: nào là thiếu khôn ngoan, nào là mềm yếu quá (“con cái nó khinh thường”), hay là thiếu phương pháp giáo dục, thiếu chừng mực, không công bằng. Nhưng dụ ngôn đang nói về Thiên Chúa, không phải về các bậc làm cha thường tình. Người cha để cho mình bị tình thương “chi phối” hoàn toàn. Với những ý nghĩ như chúng ta có, Thiên Chúa đã chẳng bao giờ nhập thể và nhất là Đức Giêsu đã chẳng bao giờ chịu khổ hình. Sự thật là tình yêu có lý lẽ riêng của nó.

Ta không thể hiểu nổi cách cư xử của Thiên Chúa với con người nhất là người tội lỗi, khi ta lấy khái niệm công bằng hay khái niệm khôn ngoan của nhân loại ra đối chọi với lòng nhân hậu vô biên của Người. Lòng nhân hậu ấy vượt xa cách suy nghĩ và cách làm thông thường của chúng ta. TV 102: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Người không cứ tội ta mà xét xử, Không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, Tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, Tội ta phạm, Chúa cũng ném thật xa“. “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống”.

Bài dụ ngôn thật là tuyệt hảo để diễn tả tình Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, như người Cha thương con tuyệt đối; thương đến nỗi đã ban “Con Một” của mình xuống trần gian, chịu nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập Giá để đền vì tội lỗi nhân loại! (x. 1Gioan 4: 9-10).

Người là Thiên Chúa của tình yêu. Hơn thế, Người là chính tình yêu. Bởi vậy, dù loài người có thể đánh mất, hoặc đã tự mình đánh mất tư cách làm con Thiên Chúa, tự mình vong thân và vuột khỏi tình yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn một mực đón nhận loài người. Thiên Chúa vẫn trung thành trong tình yêu của mình. Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Ngược lại, vẫn mãi mãi là một người Cha cần mẫn, bao dung, tha thứ, từ bi hãi hà… Vì vậy, qua diễn biến của dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy thái độ vui mừng của người Cha, thái độ bao dung và tha thứ, thái độ nhẫn nại và mong mỏi, và quên đi tội lỗi của người con thứ.

Dù sự trở về của người con thứ không hề vì tình yêu của cha, mà chỉ vì mình, chỉ vì bụng đói. Vậy mà người cha bất kể anh trở về với ông vì lý do gì, miễn là anh trở về, và đứng trước mặt ông là đủ để ông tha thứ tất cả, quên tất cả lỗi lầm của con ông. Lòng nhân từ của ông không thể có bất cứ điều gì sánh ví được.

Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Chúng ta tưởng tượng ra niềm vui khôn tả của Người khi con mình trở về: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.“Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Dụ ngôn cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng. Thiên Chúa vui mừng bởi vì một trong các con cái của Ngài đã lạc mất nay tìm lại được.

Người nào cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa không thể thụ động: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:4-6). Tác giả Thánh vịnh khiêm nhường và chân thành tâm sự: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:7).

  1. Người con cả từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về được cha tha thứ và còn mở tiệc ăn mừng. Anh giận dỗi cha không vào nhà. Anh chỉ trích cách đối xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Người cha lại phải chạy ra năn nỉ để có sự hoà giải vì ông muốn cho cả hai người con đều được hạnh phúc. Thái độ của anh khiến cha già phải xuống nước năn nỉ giải thích: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời cha khuyên con trưởng hãy cư xử bao dung với em “vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Người con cả là một người lao động tốt, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha và có trách nhiệm. Bất cứ gia đình nào cũng hãnh diện về một thành viên như thế. Nhưng điều anh không học được là lòng rộng rãi, bao dung, sẵn sàng tha thứ cho đứa em lầm lỗi của người cha. Tuy ở nhà với cha, nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả là anh đã không hiểu nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp.

Nếu của cha là của con thì cha chẳng chịu ơn con, việc con làm cho cha cũng là làm cho con đó thôi ! Kể lể công lênh, tức là đã tự mình tách ra khỏi địa vị làm con để rơi vào vị trí của một người làm thuê rồi. Hoá ra lâu nay đứa con cả vẫn coi cha mình như một ông chủ, còn mình chỉ là người đầy tớ hầu hạ, sẵn sàng thừa hành mọi mệnh lệnh của ông. Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha: “Những gì của Cha đều là của con”. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.

Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

  1. Người anh cả trong dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn ám chỉ là những người thuộc phái Pha-ri-sêu và luật sỹ. Tự mãn về cách giữ luật: “Con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo: “Không như thằng con của cha”. Họ lúc nào cũng tự khoe “đã bao nhiêu năm trời” thờ phượng Thiên Chúa, thi hành từng chi tiết nhỏ các giới răn của Người. Bởi đó mà họ tỏ ra kiêu căng, tự mãn, khinh thường người khác, tự cho mình có quyền giận dữ trước thái độ nhân từ của người cha và quyền lên án người em: “Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đĩ điếm…” Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng:“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Họ nghĩ sẽ có được nhiều quyền lợi và công trạng trước mặt Chúa. Vì thế họ rất phẫn uất khi thấy Đức Giêsu đón tiếp phường tội lỗi.

Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay, giữ luật nghiêm ngặt nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.

Giống như những người thuộc phái Pha-ri-sêu và luật sỹ, người anh cả tự cho mình là người công chính và dĩ nhiên không cần hối cải ăn năn. Không những thế, anh còn khước từ sự trở về của người em, không chấp nhận lòng sám hối ăn năn của người lầm lỗi. Và, tệ hơn, chính anh là người không chấp nhận lòng bao dung và tha thứ của người cha, không chấp nhận tình yêu thương của Thiên Chúa. Người anh cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công và phạt kẻ có tội thế thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người do chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến, nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Và chính để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người để đem con người trở về với vòng tay yêu thương của Ngài.

Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người. Chúa Kitô đến trần gian chỉ có một mục đích duy nhất đó là đem tình yêu của Thiên Chúa để xóa tội trần gian. tình yêu thật cao quý, bởi vì tình yêu chính là Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

  1. Trên con đường thiêng liêng mùa Chay, cả hai đứa con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi người chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian và xác thịt, thu quén tiền bạc ra đi phương xa ăn chơi vui vẻ, phóng đãng. Chúng ta bỏ Chúa để chạy theo tiền bạc, danh vọng, lạc thú… Chúng ta coi trọng đồng tiền hơn Chúa…Nhưng cũng rất nhiều lần chúng ta đóng vai người con cả, tưởng mình đạo đức hơn người, để rồi tẩy chay các tội nhân khác, coi họ không là anh em với mình và cắt đứt quan hệ. Chúng ta đóng góp xây dựng nhà xứ, nhà thờ, trường học, bệnh viện, giữ các lề luật tôn giáo cặn kẽ, không hề bỏ lễ chúa nhật, có mặt trong các hội từ thiện bác ái, nhưng không chấp nhận ông A say rượu, bà B tham lam, ngồi chung ghế với mình trong thánh đường…

-Là người cha thì lắm khi không cần con cái trực tiếp báo hiếu hay đáp đền công đức. Chỉ cần chúng nó yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Thế là đã đủ. Đọc Tin mừng chúng ta sẽ càng xác tín chân lý này. Chúa sẽ xử với chúng ta không theo những gì chúng ta đã làm cho Người mà theo những gì chúng ta đã làm cho nhau. Không xét đoán tha nhân thì Chúa sẽ không xét đoán chúng ta. Nếu ta tha thứ cho tha nhân thì Chúa sẽ thứ tha cho chúng ta. Khi ta làm một điều thiện bé nhỏ cho một trong những người bé mọn thì Thiên Chúa không chỉ lấy đấu đã dằn, đã lắc mà đong đổ sự thiện hảo cho chúng ta mà Người còn tặng ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta (x.Lc 6,36-38 ; Mt 25,31-46).

Trong tư cách là người cha người mẹ trong gia đình: hãy sống nhân hậu yêu thương để phản chiếu cho con mình dung mạo của Thiên Chúa là Cha nhân từ; nhất là luôn biết sống bao dung tha thứ cho những người con hoang đàng tội lỗi, nhằm tạo cơ hội và động lực cho chúng hoán cải và đổi mới cuộc đời.

-Người anh lớn từ chối em là hình bóng chúng ta không chấp nhận anh chị em đồng đạo ăn năn sám hối. Chúng ta hãy vui mừng vì những cuộc trở lại như thế trong mùa Chay này. Hơn nữa, phải tích cực dẫn dắt họ quay về với Thiên Chúa qua các bí tích. Chúng ta sẽ nâng đỡ những thanh thiếu niên sa cơ lỡ bước rơi vào các tệ nạn xã hội như xì ke, ma tuý, đĩ điếm, trộm cắp, lang thang, vô gia cư… Chẳng ai muốn mình hư hỏng, nhưng xã hội đầy dẫy những con người như thế. Cho nên chúng ta có nhiệm vụ phổ biến ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay cho hết mọi cảnh ngộ mình gặp. Lôi kéo họ trở về với Thiên Chúa yêu thương. Thử hỏi nếu người con thứ nhớ lại cách sống người cha luôn cay nghiệt với những kẻ làm công, hoặc nhớ đến cảnh gia đình như hỏa ngục, thì liệu anh có muốn trở về nhà không? Như vậy sự trở về của hối nhân còn lệ thuộc vào tinh thần quảng đại của người có trách nhiệm, và của cộng đoàn.

Người anh trong dụ ngôn hôm nay phản kháng không chịu vào nhà vì ganh tị. Cái làm cho con người ta thiếu bác ái là ganh tỵ, cái làm cho con người ta dễ dàng nóng giận, soi mói chì chiết người khác cũng là ganh tỵ. Chính sự ganh tỵ đã gây ra bao vết thương và cả những chia rẽ, đổ vỡ trong gia đình, trong Giáo Hội. Ganh tỵ là tuyệt chiêu của ma quỷ đánh vào con người không trừ một ai, nhất là những người thông thái, giỏi giang, trí óc sắc bén nhưng không có tâm hồn khiêm tốn, để gây ra những bè phái chống đối Giáo Hội, chia rẽ cộng đoàn và gieo rắc tư tưởng chống đối nơi người khác. Ta phải làm gì để tận diệt tính ganh tỵ? “Anh em hãy sống nhân từ như Cha anh em ở trên trời là Đấng nhân từ”. Thường lòng nhân từ mới có sức hấp dẫn, và đổi mới được con người, chứ không phải là những lời chỉ trích phê bình hay lên án.

Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành.

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn. Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất. Cho đến nay, chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vào nhà sống với Chúa thật sự. “Con ơi, mọi sự của Cha là của con”. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Nguyện xin Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta bộ mặt tình yêu của Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta.

Hình ảnh người con cả cũng thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nỗi buồn, nỗi khổ tâm, nỗi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.

Cách sống đạo của chúng ta lắm khi chỉ là tuân giữ một số những bổn phận bề ngoài, và cảm thấy yên lòng một khi đã làm xong những nghĩa vụ ấy. Còn tiến tới sâu hơn trong tình yêu đối với Chúa và với anh em, chưa chắc là mối bận tâm thường xuyên của ta. Đạo của ta phải chăng còn vụ hình thức quá, vụ luật lệ quá, là một thứ “đạo nhà thờ” và “đạo lập công”?

-Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.

Tình yêu thương, lòng tha thứ đại lượng của Thiên Chúa, đó là những điểm then chốt của bí tích hòa giải, bí tích mà Hội Thánh tha thiết kêu nài chúng ta hãy lãnh nhận trong Mùa Chay này. Thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình… thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.

Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: “Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi.” (2C 5,17)

-Người con thứ đã chọn lựa rời bỏ nhà cha cùng với tất cả tài sản được ban cho mình. Niềm kiêu hãnh ngạo mạn khiến anh cất bước ra đi và không có ý định trở lại. Trong nhà cha, anh cảm thấy quá ngột ngạt giới hạn, quá gò bó tù túng và mất tự do.Vâng, nhiều người chúng ta cũng đang dùng chính lý lẽ như thế để biện minh cho hành động và chọn lựa của mình: Tại sao lại tự buộc mình vào các lề luật? Nào là tham dự lễ ngày Chúa Nhật, lãnh nhận các bí tích và ăn chay kiêng thịt; nào là phải sống chuẩn mực, thủy chung một vợ một chồng, không cờ bạc, không phá thai, v..v.., quá ngột ngạt tù túng và mất tự do! Người con hối hận khi rơi vào hoàn cảnh túng bấn, không của ăn, không áo mặc. Tình cha bao ngày tháng anh cảm thấy ngột ngạt giờ lại trở nên niềm khát khao. Ngôi nhà cha bao ngày tháng anh cảm thấy tù túng giờ lại trở nên mái ấm mơ ước. Tự do cần lề luật. Sự ràng buộc của Lề Luật không nhằm mục đích nào khác là hướng con người đến sự hoàn thiện nhân bản và thiêng liêng. Không sống theo lề luật, con người dễ đi hoang: tham lam, hận thù, ghen ghét, độc ác, ngụp lặn trong tội lỗi. Tham dự Thánh Lễ không nhằm mục đích nào khác là sự kết hợp nên một với Con Chí Thánh. Đó chính là những trợ lực đến từ Thiên Chúa giúp con người nên hoàn thiện như Cha trên trời. Mùa Chay mời gọi mọi người tái khám phá tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa ngay trong chính hoàn cảnh cuộc sống mà chúng ta cho là quá tù túng và giới hạn.

Mỗi lần phạm tội là mỗi lần tôi bỏ nhà ra đi, để Chúa phải mòn mỏi đợi chờ, chờ tôi trở về trong dòng kinh sám hối. Ước gì mỗi người chúng ta biết hồi tâm sám hối, biết lãnh nhận niềm vui được tha thứ, được Chúa ôm ấp trong cánh tay nhân từ của Người. Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ!” (Ep 2,4-5). Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18). Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng hồi tâm sám hối và quyết tâm quay về với Người. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà “mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2 Cr 5:18).

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY

Người phụ nữ ngoại tình

 

Is. 43, 16-21: Hỡi dân Israel, đừng nhớ lại những chuyện xưa. Hãy chờ đợi những điềm lạ mà Ta sắp làm cho ngươi để chứng tỏ tình yêu của Ta đối với Ngươi và để cho ngươi mãi mãi ca tụng danh Ta.

Pl. 3, 8-14: Thánh Phaolô cũng nói Ngài quên hẳn những gì ở đàng sau và chỉ hướng về phía trước “để chạy đến đích cuối cùng là phần thưởng Nước Trời, trong sự hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu và sự Phục Sinh của Người.”

TIN MỪNG: Ga 8, 1-11– Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng “Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.

“Từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình yêu, trong an bình, trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời. Tất cả những ân lành đó chỉ những ai dứt khoát được với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa mới cảm nghiệm được.

  1. Ném đá, một hình phạt của người Do Thái ngày xưa. Điều này có trong luật của họ. Người bị kết án và chịu hình phạt này sẽ bị đám đông những người theo dõi phiên tòa dùng những viên đá được chất đống trước đó, tại nơi hành hình, ném cho đến khi chết. Những người ném đá là những người thi hành án. Lề luật ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (x. Lv 20,10) hay ném đá người đàn bà ngoại tình với tòng phạm (x. Đnl 22, 22-24). Chiếu theo luật Do Thái như trong sách Lv 20,12 và Đnl 22,22 thì phụ nữ có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông phạm tội ngoại tình ấy. Ðây là cách thức người xưa khử trừ tội lỗi gian dâm khỏi cộng đoàn.

  1. Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một con người. Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng chị ta như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, chị ta chỉ như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu.

Những kẻ “đạo đức”trong chuyện trên đều muốn giết người. Giết người tội lỗi để tỏ ra mình nghiêm chỉnh tuân thủ lề luật. Những ông này còn lợi dụng mạng sống của nạn nhân để gài bẫy Chúa Giêsu. Thì ra, người ta có thể tô bộ mặt đạo đức của mình bằng những mưu toan tội lỗi.

  1. Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp câu chất vấn của Pharisêu và Kinh sư, Người cúi xuống rồi dùng tay viết trên mặt đất. Chúa Giêsu viết gì? Thú vị là nhiều nhà chú giải đã suy nghĩ và đưa ra nhiều cách giải thích cho hành động này của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể thấy cách giải thích của Thánh Hiêrônimô khi cho rằng sở dĩ Chúa Giêsu ngồi xuống dùng tay viết trên mặt đất là nhằm liệt kê tội lỗi của những kẻ tố cáo người phụ nữ.

“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi.” Các kinh sư và pharisêu mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ. Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa. Những con người tự cho mình là công chính, nấp đằng sau bức tường của Lề luật, lôi người đồng loại của mình bêu rếu, lên án giữa đám đông thì giờ đây, họ phải đối diện trước lương tâm của mình để phản tỉnh, để tự thú mình có đích thực là người không hề có tội hay không. Có thể các ông qua mắt được dân chúng, có thể các ông cố tình lách Lề luật hoặc ra sức áp dụng triệt để Lề luật cho những người thuộc quyền, nhưng các ông không thể qua mắt được tiếng nói của lương tâm- món quà Thiên Chúa đã ban tặng cho loài người.

Câu trả lời của Chúa Giêsu bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội? Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”. Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình. Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang. Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn. Con người ngoại tình với Thiên Chúa khi: tôn thờ tiền bạc, danh vọng, lạc thú; khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …Dân Israel đã rất nhiều lần phạm tội ngoại tình qua thái độ phản bội Thiên Chúa và đi tôn thờ các thần ngoại bang (x. Ez 23:36-37; Gr 3, 8-10; 5:7-8).

Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác. Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương. Ðấng duy nhất có thể ném đá lại nói: “Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa.”

Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người. Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ. Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.

  1. Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
    Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con người đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
    Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa.

  1. Tội lỗi là sự xấu, ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, là thánh thiện. Tội lỗi mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và nhất là làm tâm hồn con người mất bình an. Tội lỗi huỷ diệt đời sống làm con Thiên Chúa. Tội lỗi tạo hố ngăn cách con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Tội lỗi vì thế cần phải bài trừ, nhưng không được bài trừ người có tội.

“Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”(Ed 33,11). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ ” (Ga 3,17). Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33) Lòng người có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời. Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.

  1. Nhận ra tội lỗi hay sự yếu đuối của mình sẽ giúp ta khiêm nhường, thông cảm, nhờ đó dễ tha thứ cho người khác. Ðức khiêm nhường mà ta có được do nhìn nhận tội lỗi mình thì còn quí giá hơn là trong sạch mà kiêu căng, tự mãn, cho rằng mình hơn người vì sự trong sạch đó. Ðức Giê-su rất thánh thiện, không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi, Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta. Có thể ta dễ dàng kết án người khác, làm như thể ta hoàn toàn vô tội, không hề phạm những sai lỗi như thế bao giờ.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho kẻ có tội nếu họ biết ăn năn hối lỗi, nhưng Ngài khó tha thứ cho những kẻ hay kết án. Ngài đã từng nói: “Anh em đừng kết án để khỏi bị kết án” (Mt 7, 1). Ðiều đó có nghĩa là: kết án người khác chính là cách chắc chắn nhất để Thiên Chúa quay ngược lại kết án chúng ta! Vậy thì ta đừng bao giờ dại dột kết án người khác.

Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn xin Chúa tha nợ chúng ta, giống như hay theo kiểu chúng ta tha nợ cho những kẻ mắc nợ chúng ta. Ta tha thứ cho người khác kiểu nào, Thiên Chúa cũng tha thứ cho ta kiểu ấy. Ta chấp tội người khác thế nào, Thiên Chúa cũng chấp tội ta thể ấy. Vậy, một cách nào đó, chính ta quyết định việc ta có được Chúa tha thứ hay không.

Nếu ta có thái độ «tiên trách kỷ, hậu trách nhân», hay «tiên xét kỷ, hậu xét nhân», thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình thì ta sẽ không dám kết án ai. Thay vì dễ dãi làm quan tòa, quen thói xét xử người khác, thì khiêm tốn làm tội nhân, để biết ăn năn, thống hối tội lỗi của chính mình. Khi phán xét người khác thì mặc nhiên tự coi mình làm kẻ cả, có thẩm quyền xét xử công tội người khác, một biến tướng của tính kiêu ngạo, chính là tiếm quyền tối thượng của Thiên Chúa: «Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1; x. Lc 6,37). «Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em» (Mt 7,2). «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?» (Gc 4,12).

Không kết án, không vào hùa bắt tội người khác, bỏ đá xuống đất, mỗi người chúng ta hãy nhìn sâu vào trong tâm hồn mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn và thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối, ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Mẹ Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa Nhật V Mùa Chay.

Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết rằng: chỉ khi nào chúng ta ý thức được những tội lỗi, yếu hèn của chính mình, thì chúng ta mới có thể bắt đầu sống trong sạch. Vì không còn phải đeo mặt nạ để đóng kịch, để bênh vực vai trò của chúng ta nữa.

  1. Các biệt phái và luật sĩ lên án người phụ nữ khốn khổ vì họ tự đắc, tưởng mình vô tội. Nhưng lời Chúa đã đưa họ về với sự thât của lòng mình. Lời Chuá hôm nay cũng đưa con về với sự thật của lòng con. Xin cho con cũng biết trung thực với chính mình, để đừng bao giờ lên án ai, phê bình chỉ trích ai cả. Và nghĩ cho cùng, thì con đâu dám chê ngừơi biệt phái và luật sĩ xưa, vì nhiều khi con biết mình chẳng tốt lành gì hơn ai, thế mà con lại cứ nói xấu, chỉ trích và lên án kẻ khác. Chúa đã dùng dụ ngôn cái xà và cái rác trong mắt để cho con hiểu, thế mà nhiều khi con lại không muốn hiểu.
    Ít ra là những Kinh Sư và những người Pha-ri-siêu cũng còn liêm sỉ khi thành thật nhận ra mình cũng chẳng tốt lành gì, để rồi lặng lẽ rút lui. Nhưng có lẽ cũng có khá nhiều người Ki-tô hữu không đủ liêm sỉ bằng những Kinh Sư và những người Pha-ri-siêu trong bài Tin Mừng này. Họ sẵn sàng kết án người khác, nuôi lòng hận thù với người khác, và rất khó tha thứ, đang khi chính họ cũng đã từng có những hành vi tội lỗi tương tự như thế, hoặc còn hơn thế nữa.

Chúng ta cũng đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình. Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Chúa không kết án, còn chúng ta lại hay kết án người khác, hay kể tội người khác, hay bêu xấu người khác. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chân mình thì lấm bê bê, lại cầm bó….. Chúa cũng nói: Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.

-Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu đuối. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế  lực: Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng.

“Từ nay đừng phạm tội nữa” không chỉ là một lời dành cho người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, mà còn là một lời mời gọi tha thiết của Chúa Giêsu được gởi đến cho hết thảy chúng ta trong những ngày cuối của Mùa Chay này, một lời mời gọi được gởi cho tôi, cho quý OBACE. Chúng ta đã nhận được ơn tha thứ, nhưng đừng lạm dụng. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực hết sức mình để từ nay “đừng phạm tội nữa”. “Từ nay đừng phạm tội nữa”, cách cụ thể là từ nay tôi và quý OBAEC đừng kết án, nóng giận, đừng chửi thề, đừng nói xấu, đừng ganh ghét, đừng bài bạc, đừng say sưa, đừng tham lam, đừng vu khống, đừng chê bai nhau nữa. Chúng ta hãy từ bỏ hẳn con người cũ, “đừng để ý đến việc thời xưa nữa”, trái lại, chúng ta hãy theo gương thánh Phaolô “quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Kitô”. Cuộc từ bỏ này chắc chắn là không dễ dàng gì. Nó chính là sự chết đi của con người cũ để nhằm đến hy vọng “từ cõi chết được sống lại”.

Thiên Chúa như người Cha nhân hậu vẫn đang giang rộng vòng tay chờ đón mỗi người chúng ta trở về với Ngài. Chúa không kết án mà dành cho tội nhân sự hoán cải và lòng thương xót. Và một khi đã trở về, chúng ta hãy cố gắng giữ vững hạnh phúc này, đừng đi theo con đường cũ, “đừng phạm tội nữa”.

Ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).

-“Ta không kết tội chị”. Một câu nói như muốn diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã không kết tội chúng ta, cho dù chúng ta đã nhiều lần bội phản, bất trung, vô tâm, bất nghĩa đối với Ngài, thì Thiên Chúa vẫn như người cha nhân hậu chiều chiều ra đứng trước ngõ nhà dõi mắt vào nơi xa xôi chờ đợi đứa con đi hoang trở về. Thiên Chúa không kết tội chúng ta vì Ngài biết rõ con người chúng ta yếu đuối. Thiên Chúa không kết án chúng ta vì chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài, và nhất là chúng ta đã được cứu chuộc bằng chính Máu Con yêu dấu của Ngài. Ngài đã tha thứ, đang tha thứ và vẫn luôn tha thứ cho tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta. Vòng tay yêu thương của Thiên Chúa vẫn luôn giang rộng, cánh cửa nhà của Thiên Chúa thì không bao giờ đóng. Chúa không kết án mà dành cho tội nhân sự hoán cải và lòng thương xót.  

Chúa Giêsu trong tư thế của một ‘Quan Tòa’ bị ép buộc đã mở cho người phụ nữ một “Chân Trời Mới” – Hướng Đi Mới”. Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao dòng nước mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Qua người thiếu phụ đáng thương nầy hôm nay, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh thật của chính mình. Thời gian chúng ta “Thinh Lặng” để lắng nghe bài Tin Mừng trong ngày Chủ nhật hôm nay hãy coi đó là thời gian Chúa muốn chúng ta dùng để tự vấn lương tâm của mình. Thiên Chúa cũng muốn đối xử với chúng ta như Ngài đã cư xử với người phụ nữ, Ngài không dồn chúng ta vào thế bí ở góc tường, vào con đường chết, nhưng Ngài mở cho chúng ta một con đường mới, con đường hối cải dẫn chúng ta vào cuộc sống đời đời. Ngoài ra, Chúa cũng muốn chúng ta cư xử nhân từ với tha nhân. Chúng ta đừng dồn anh chị em của mình vào ngõ cụt, ngõ bí không lối thoát, nhưng cũng biết mở cánh cửa thông cảm với những yếu hèn của tha nhân. Trong Mùa Chay, khi chúng ta lãnh nhận bí tích hòa giải, chính nơi tòa cáo giải, lời Chúa sẽ vang dội lại chính lời Ngài đã nói với người phụ nữ hôm nay: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Khi ra khỏi tòa cáo giải, khi trở về với cuộc sống thực tế, chúng ta hãy tha thứ và nâng đỡ những ai bị sa ngã bằng chính tình yêu Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta nơi Tòa Cáo Giải.

Bài viết liên quan