TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT THƯỜNG NIÊN NĂM A
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, csf
Năm nay tính theo chu kỳ phụng vụ là năm A, những bài Phúc âm được lấy từ Tin mừng theo thánh Mathêu. Chu kỳ phụng vụ năm B giới thiệu Phúc âm theo thánh Marcô và chu kỳ phụng vụ năm C theo thánh Luca. Phúc âm theo thánh Gioan trước hết được dùng vào các chúa nhật năm A trong suốt mùa chay, suốt mùa Phục Sinh và điền vào chu kỳ phụng vụ năm B. Suốt mùa Phục Sinh, bài đọc I được lấy từ sách Tông đồ công vụ, những mùa khác thì trái lại, bài đọc I luôn luôn lấy từ Cựu Ước, bài đọc II thì luôn luôn lấy từ Tân Ước. Sách Khải huyền là bài đọc II trong suốt mùa Phục sinh trong chu kỳ phụng vụ năm C.
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA (x. CN II TN năm A, CN II và III Mùa vọng)
- Chúa Giêsu đã chịu phép rửa như một kẻ tội lỗi, Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, hoà mình với những người tội lỗi, để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha. Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1,29) Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người. Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành”. (1 Pr 2, 24). Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Hôm nay, tầng trời mở ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người. Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: “Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?” A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì “người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn.” Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy. Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: “Ngươi đã làm gì?” Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì “con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn”. (St 3, 9-13) Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa… Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra? Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình, khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm…
- Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi: Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới. “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất (Thiên Chúa dùng đất mà dựng nên con người. Từ đó, loài người mang tên Đất (St 2, 7; 4, 25; 5, 1-3). Theo tiếng Do thái, Adam nghĩa là đất). Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy. Do đó, chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
- Việc Chúa chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về BT Rửa tội mà chúng ta lãnh nhận. Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Tại các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.
Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng lòng trí vào những sự trên trời và tìm kiếm những sự trên trời.” (chúng ta đang hướng lòng trí vào đâu? Vào tiền bạc? Danh vọng? Lạc thú?… chúng ta đang tìm kiếm cái gì, tìm kiếm ai?….)
Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài, sống đời sống mới, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô và trở thành những người con của Thiên Chúa. Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời. Khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN A (x. CN II và III Mùa vọng, Lễ CGS chịu Phép rửa)
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng Xóa tội trần gian”
Bài đọc 1: Is 49,3.5-6- Ngôn sứ Isaia hình dung Ðấng Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Ðoạn trích này thuộc bài thứ hai trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ: Người Tôi Tớ của Thiên Chúa được giao sứ mạng “quy tụ dân Israel trước mắt Thiên Chúa”. Người Tôi Tớ của Thiên Chúa còn là “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Chúa Giêsu.
Bài đọc 2: 1 Cr 1,1-3- Phaolô viết bức thư này cho tín hữu Côrintô nhằm củng cố một số điểm giáo lý và sửa sai một số tệ nạn. Thánh Phaolô đã giới thiệu mình như là người tông đồ của Chúa Kitô, người làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người.
Bài Tin mừng: Ga 1,29-34
- Theo bố cục của Tin Mừng thứ tư, đây là lần đầu tiên Ðức Giêsu xuất hiện trước dân chúng. Vì dân chúng chưa biết Ðức Giêsu, nên Gioan Tẩy giả giới thiệu, làm chứng cho Ngài, bằng hai kiểu nói: Ðức Giêsu là Chiên Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa.
a- Ðức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”:
Chiên Thiên Chúa có ba ý nghĩa chính trong Thánh Kinh: một là con Chiên Vượt Qua cho dân chúng ăn thịt và lấy máu để cứu dân Chúa khỏi cảnh nô lệ cùm gông ở Ai Cập (Xh 12); hai là Người Đầy Tớ Đau Khổ bị đem đi giết để làm lễ đền tội (Is 53, 7.10); và ba là Con Chiên Toàn Thắng – người sẽ đập tan Satan và mọi gian tà trên trần thế (Kh 5; 7; 17:14).
-Thời kỳ Xuất Hành, để thi hành sứ mạng giải phóng con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, ông Mô-sê đã phải thi thố mười dấu lạ trước mặt triều thần Ai Cập. Nhưng phải đến dấu lạ thứ mười, Pha-ra-ô Ai Cập mới chịu khuất phục và bằng lòng cho con cái Ít-ra-en ra đi. Mô-sê liền truyền cho mỗi nhà Ít-ra-en giết một chiên đực một tuổi để ăn thịt chiên với bánh không kịp ủ men. Họ phải lấy máu con chiên đó quét lên thành cửa nhà mình. Đêm hôm ấy, thần sứ hủy diệt của Đức Chúa sẽ đánh phạt các con đầu lòng của người Ai-cập và vượt qua nhà có bôi máu chiên là nhà con cái It-ra-en. Như vậy các con đầu lòng con cái Ít-ra-en đã được cứu khỏi phải chết nhờ máu con chiên Vượt Qua đã chịu chết thay. Từ đó, việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người.
Bởi đó, theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-6), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Thiên Chúa chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.
Trong lễ nghi Ðền tội của Do Thái Giáo, tội nhân đem một con chiên lên Ðền thờ, úp tay mình xuống con chiên tỏ ý trút hết tội mình lên nó; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên. Nó chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa. Sách Lê-vi viết: “Nếu một người vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà Đức Chúa cấm làm…, nó sẽ đưa đến một con dê (hoặc chiên) làm lễ tiến. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ…. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha”. (Lv 4, 27-32) Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
– Ngay từ buổi đầu gặp Chúa Giêsu, Gioan Tẩy giả đã biết Ngài sẽ chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên ông giới thiệu “Ðây là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian”.
Chiên tượng trưng cho sự hiền lành, thanh khiết, vô tội. Vì những đặc tính này mà người Dothái đã đặt, đã trút mọi tội lỗi lên con chiên để hiến dâng cho Thiên Chúa như một lễ vật. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: «Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta» (1Cr 5,7)
Trước Gioan Tẩy Giả rất lâu, các tiên tri đã nói về người tôi tớ kỳ nhiệm của Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên… Isaia đã mô tả cái chết đau thương của người tôi tớ này trong chương 53, 7-8 như sau: “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng vẫn khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh, Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án và bị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”. Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu. Trong chương 11 câu 19, Giêrêmia viết: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”.
Tiên Tri Isaiah: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội. Bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm….Đã phải mang thưong tích để chúng ta được chữa lành… Thiên Chúa đã đổ trên đầu Ngài tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng.” (53, 5-7) ). Ðiều được nhấn mạnh ở đây là đức tính khiêm nhường và nhẫn nại của Người Tôi Tá Giavê: Ðấng đã từng ở lặng trước Thượng Hội Ðồng Do thái giáo (Mt 26,63), từ chối không trả lời tổng trấn Philatô (Ga 19,9). “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: “Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!” (Gr 11,19)
Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ hay việc nhúng giấm chua vào nhành hương thảo để đưa lên cho Chúa Giêsu bị treo trên thập giá cũng giống như người Dothái dùng nhành hương thảo nhúng vào máu chiên để bôi lên khung cửa trong đêm vượt qua để được giải thoát (x. Ga 19, 14; Ga 19,29; Xh 12, 22-23). Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước. Đặc biệt Gioan thấy việc lính đã không đánh giập ống chân Chúa (Ga 19,33) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Thật vậy, Thánh Vịnh 34 quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Đó cũng là chiên mừng lễ Vượt Qua, không được đánh giập xương (x. Ds 9,12; Ga 19, 33; Xh 12, 46). Chúa Giêsu là con chiên Vượt Qua đích thực, đó là sứ điệp thánh Gioan muốn gửi đến chúng ta. Và Hội Thánh hằng ngày giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể: Đây Chiên Thiên Chúa…
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế nên giới thiệu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7). Sách Khải Huyền cũng dùng đến 27 lần từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giêsu, thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Chiên ở Kh. 1,17; 17,14 đó là Chiên tiêu diệt sự ác ở trần gian hay còn gọi là Chiên chiến thắng (x.1Ga 3, 5-7). Ðức Kitô đứng ra điều khiển cuộc chiến cuối cùng chống lại lực lượng toa rập của sự ác, và rồi cuộc chiến thắng đạt được sẽ vĩnh viễn qua tước hiệu của Ngài là “Vua trên các vua và Chúa trên các chúa” (17,14; 19,16). “Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận… Danh dự, vinh quang và tán tụng!… Tán tụng và danh dự, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Ngài muôn đời muôn kiếp” (Kh 5, 11-13) và tất cả mọi người đứng quanh ngai hô to: “Amen”.
Về sau, tông đồ Phao-lô đã ví con chiên lễ Vượt Qua là hình bóng của Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa như sau: “Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng Đại lễ” (1 Cr 5,7-8). Mang thân phận chiên vượt qua, Chúa Giêsu chịu đổ máu để rửa chúng ta khỏi vết nhơ tội lỗi, chịu sát tế để mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Thế nên, vào đúng thời điểm dân Ít-ra-en thọc tiết chiên để mừng lễ vượt qua vào chiều thứ sáu, thì trên thập giá, Chiên Vượt Qua mới là Chúa Giêsu cũng bị tên lính đâm thủng cạnh sườn. (Ga 19, 34)
Giống như con chiên không những hiền lành, lại còn cung cấp thịt ngon cho con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã mang lấy tội, gánh lấy lỗi của nhân loại, Ngài còn trở nên lương thực nuôi dưỡng ta qua bàn tiệc Thánh Thể. Ngài vừa là con chiên của lễ vượt qua, vừa là biểu tượng của sự cứu chuộc của Israel, vừa là dấu chỉ cho mọi thời đại về ơn cứu độ. Dấu chỉ này là Chiên Thiên Chúa phục vụ và hiến mạng. Ngài là hình ảnh của chiên hiến tế. Chiên này mang tội của chúng ta đi, cất đi sự chết đang, sẽ bao trùm và chiếm lấy con người yếu đuối của chúng ta.
– Chỉ có máu châu báu của Thiên Chúa mới có thể rửa sạch tội lỗi loài người. “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. (Hr 10, 4-7) “Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Hr 10, 8-10).
Chỉ có Con Chiên thanh sạch, hiền lành, bị sát tế không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho các tội nhân. Chỉ có Phép rửa trong Thánh Thần, chính là Máu Đức Giêsu mới có thể tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa. Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá.
Máu Chúa Giêsu đổ ra, là máu Con Chiên Tế Lễ trong cuộc sáng tạo mới, máu của Con Chiên Vượt qua mới, máu của Con Chiên của Thiên Chúa và máu có giá trị cứu rỗi “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26, 28). Cuộc đời Chúa Giêsu là cuộc đời đẹp vì ngài đã dám mang lấy tội nhân gian. Ngài có thể đứng ngoài cuộc. Ngài không nhất thiết phải là người mới có thể cứu độ con người. Thế nhưng, Ngài đã mang lấy thân phận con người để đền tội nhân gian. Ngài đi vào kiếp người để chia sẻ những đắng cay ngọt bùi cũng chỉ vì yêu thương nên muốn nên một với chúng ta.
Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại. Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại. Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống. Như thế, khi tuyên xưng Chúa Kytô chính là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian, Gioan Tẩy giả vô hình trung, đã tiên báo cái chết mà Chúa Giêsu phải chịu sau này để giao hoà thế gian với Thiên Chúa.
b- Ðức Giêsu là “Con Thiên Chúa”: Nhờ ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong biến cố làm phép rửa cho Ðức Giêsu, Gioan Tẩy giả còn được biết Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Thực ra, trong lịch sử, các vua Israel cũng xưng mình là con của Thiên Chúa. Nhưng đó chỉ là một cách nói, ngụ ý họ được Thiên Chúa nhận làm con nuôi, nghĩa tử. Riêng đối với Ðức Giêsu, Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài là con ruột của Thiên Chúa và cũng chính vì thế cho nên Ðức Giêsu sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Ðức Giêsu, có chứng từ của Chúa Cha: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Chúng ta chỉ nhận biết Ðức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Ðức Giêsu thường nhắc lại: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Ðấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” ( Ga 6,44 ), “Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” ( Ga 6,45 ). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan tẩy giả biết Ðức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Ðức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhận những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
- Thánh Gioan Tiền Hô (x. CN II và III Mùa vọng) xuất hiện hôm nay, giới thiệu Đức Kitô cho chúng ta rồi Ngài biến vào bóng tối. Ngay từ thời niên thiếu, Gioan tiền hô đã vào hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng. Ông xuất hiện bên bờ sông Giócđan. Ông tiếp nhận mọi người, không phân biệt, không loại trừ, không sợ hãi. Ông trao ban phép rửa sám hối. Đây không phải là một bí tích, nhưng chỉ là một nghi thức chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Với tất cả sự khiêm tốn, ông đã trả lời cho những kẻ đến hỏi ông là ai: Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến. Khi được hỏi về vai trò và chỗ đứng của mình, ông đã xác quyết: Phần tôi, tôi rửa trong nước, nhưng giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Được chọn giữa muôn người để là sứ giả, làm tiền hô, kêu gọi mọi người dọn đường, tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế, ông đã không huênh hoang tự đắc, trái lại luôn khiêm tốn ý thức vai trò và địa vị nhỏ bé của mình. Ông không bao giờ muốn giữ người khác lại cho riêng mình. Trái lại, ông đã thẳng thắn tuyên bố: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Và rồi khi thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình, ông đã long trọng giới thiệu Ngài với đám đông dân chúng: Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Khi long trọng giới thiệu như thế, ông làm cho chúng ta liên tưởng tới lời tiên báo của Isaia về một Đấng Cứu Thế đau khổ, Ngài giống như một con chiên bị dẫn tới lò sát sinh, hay như một con chiên không mở miệng kêu la khi bị xén lông.
- Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Hôm nay, tội lỗi của chúng ta cũng như của nhân loại còn đang chất ngất. Thế nên, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục hiến tế thân mình để xoá tội trần gian. Hiến tế thập giá trên đồi Can-vê năm xưa, nay được hiện tại hoá, tức đang diễn ra cách mầu nhiệm mỗi lần thánh lễ được cử hành: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Và vẫn kêu lên “Agnus Dei…” “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con… Xin ban bình an cho chúng con”. Nhưng, hôm nay, là cơ hội tái thiết định nơi mỗi tâm hồn một niềm tin tưởng, một niềm vui hạnh phúc, và bình an đích thực nơi Đức Giêsu, con Chiên Thiên Chúa, và cụ thể nhất là rước lấy Thịt Máu Con Chiên Thiên Chúa vào trong tâm hồn mình cách xứng đáng. Vì ân sủng và bình an của chúng ta hôm nay là được hưởng ơn cứu chuộc nhờ máu Con Chiên như thánh Phaolô nguyện xin: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (1 Cr 1,3). Vì thế, chúng ta hãy hiệp thông với Chúa Giê-su trong từng phút sống, cùng vác thập giá với Chúa bằng cách làm tốt các việc bổn phận hằng ngày, cùng dâng trọn vẹn cuộc sống của chúng ta làm hiến lễ cho Thiên Chúa Cha, để cầu xin Cha ban ơn cứu độ cho bao người tội lỗi. Như vậy, của lễ xá tội mang lại cho con người ơn hòa giải để tái nhận lãnh ân sủng mà nguyên tổ đã đánh mất không thể là những lễ vật hữu hạn theo quan niệm Do Thái, mà phải là chính Con Chiên Thiên Chúa.
Nhiều người không nhận ra Chúa bởi họ không nhận ra chính mình, là người tội lỗi. Nếu tôi không có tội lỗi gì thì tôi không cần Chúa, có thế thôi. Chúng ta đi tìm kiếm Chúa không phải chỉ để nhìn thấy tội chúng ta, mà còn nhìn thấy Đấng Cứu Độ Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng xót thương. “Đây là Chiên |Thiên Chúa, đây đấng xoá bỏ tội trần gian.” (Ga 1,29) Đã bao lần tôi đã xúc phạm đến Chúa trong lời nói và việc làm, trong gia đình và ngoài xã hội, với bản thân và với tha nhân; nhưng tôi vẫn không nhận ra lỗi lầm mình và lòng thương xót cuả Ngài. Cho một cảm nghiệm thấy Chúa đang thương cứu tôi? Xin cho chúng con cũng biết quý trọng chính sinh mạng và phần rỗi của mình, để hết lòng sống lương thiện, can đảm và kiên trì thực hành những điều Chúa răn dạy. Amen
Được cứu chuộc nhờ Máu Thánh của Con Chiên tuyệt đối tinh tuyền, hiền lành, khiêm nhường và đại lượng, chúng ta được sáp nhập vào sự sống của Đức Kitô và tham phần với Ngài trong sứ vụ làm chứng cho tình yêu Thập giá. Là những Kitô hữu, chúng ta hãnh diện khi được bạn bè lương dân gọi là « những con chiên của Chúa », và càng vui hơn khi được khen là « con chiên ngoan đạo». Đó là danh thiêng tuyệt vời, nói lên mối tương giao mật thiết của chúng ta với Đức Kitô, Đấng đã cứu độ và « mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa ». Là Kitô hữu mang danh «con chiên», chúng ta hãy lắng tâm đặt mình trong Bữa Tiệc Vượt Qua năm xưa để cám tạ, tri ân Chiên Thiên Chúa đã không tiếc mình hiến dâng Máu Thánh cứu độ ta. Là Kitô hữu mang danh «con chiên», chúng ta luôn trân trọng, nâng niu, giữ gìn tấm áo trắng tinh tuyền mang dấu ấn của Con Chiên vô tỳ vết. Là Kitô hữu mang danh «con chiên», chúng ta hãy là họa ảnh của Chiên Thiên Chúa hiền lành và khiêm nhường ; sống động, hấp dẫn đối với hết thảy những ai đang thành tâm thiện chí dấn thân cho chân lý tối hậu ngay giữa đời thường. Là Kitô hữu mang danh «con chiên», ước mong cuộc đời chúng ta là chứng tá hùng hồn theo gương Đức Kitô, vác chung Thập giá với những người đang đau khổ vì mất tự do tối thượng, không được sống xứng với phẩm giá của một con người đích thực.
Ngày nay Hội Thánh chính là đoàn chiên của Thiên Chúa cũng được mời gọi kết hiệp với Đức Giê-su là Con Chiên Vượt Qua cứu độ nhân loại. Nhờ bí tích thánh tẩy, mỗi tín hữu được trở thành chi thể của Chúa Giê-su và được tham phần vào chức vụ tư tế của Người nên chúng ta cũng được mời gọi làm con chiên đền tội, để cùng với Người, chúng ta dâng trót đời mình làm hy lễ cứu rỗi thế gian. Mỗi tín hữu cần luôn hiệp thông với Chúa Giê-su bằng việc mỗi ngày chu toàn việc bổn phận, dâng lên Chúa các việc hy sinh hãm mình, việc bác ái, các đau khổ gặp phải khi bị người chung quanh hiểu lầm chống đối… để kết hiệp với của lễ trên bàn thờ là Chúa Giê-su Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết trên bàn thờ thập giá để xin ơn tha tội cho mọi người. Hình bóng của con chiên Cựu Ước đã được nên trọn trong Đức Giê-su Chiên Thiên Chúa thời Tân Ước.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
- Như Gioan Tẩy giả xưa, xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng tuyên xưng niềm tin của mình vào Chiên Thiên Chúa và hăng say ra đi loan báo cho thế giới này biết đến Đấng cứu độ duy nhất là Đức Giêsu Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống. Thánh Gioan vâng lời Thiên Chúa Cha và trung thành với lời chứng của Thiên Chúa Cha, dù phải chấp nhận hy sinh trở nên bé nhỏ đi để Chúa Kitô lớn lên trong tâm hồn kẻ khác. Sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan. Sứ mạng của người làm chứng có mục đích hướng dẫn người ta đến gặp Chúa, và khi người nghe đã gặp được Chúa rồi thì người làm chứng phải rút đi, vai trò của mình đã xong, hãy để cho Chúa Kitô trực tiếp hướng dẫn các linh hồn trên con đường mà Ngài muốn. Người làm chứng biết là Chúa Kitô trọng tự do lương tâm của người nghe. Hai người môn đệ của Gioan đã theo Chúa và ở lại với Chúa, họ đã quên đi Gioan để rồi đến phiên họ, họ cũng làm chứng cho Chúa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Gặp gỡ với Chúa Kitô luôn luôn mời gọi mọi người chúng ta làm chứng cho Ngài, và cuối cùng vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất người làm chứng với Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn cho người làm chứng được mỗi ngày một trở nên giống như Chúa Kitô hơn.
Tuy nhiên, hãy học cách giới thiệu của Gioan, ông đã luôn sống sự khiêm nhường thẳm sâu để cho Đức Kitô được nổi bật lên. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3, 26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga 3,30).Một gương khiêm tốn lạ lùng! Hiếm có! Không chỉ cần trong thời gian xa xưa đó, mà ngay chính trong cuộc sống hôm nay, bài học ấy lại còn rất cần, rất thiết thực hơn bao giờ hết! Chúng ta cũng vậy, muốn chu toàn sứ vụ tốt đẹp, chúng ta cũng không còn cách nào khác bằng cách khiêm tốn, hiền hậu để khuôn mặt của Đức Giêsu được lộ hiện lên trên khuôn mặt, qua những công việc của chính chúng ta.
Bài học khiêm nhu của thánh Gioan: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” cũng là tinh thần, thái độ chúng ta phải có khi giới thiệu và làm chứng về Đức Kitô vậy! Nhờ sống bằng sức sống của Con Chiên Thiên Chúa, nơi Tiệc Thánh Thể, mà chúng ta có hy vọng: nên tinh tuyền, trong sạch, không vương tỳ ố trong Chúa Giêsu, nên hiền lành khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu, và bằng lòng chịu sát tế đời mình nên của lễ đền tội cho mình và cho nhiều người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể. Giáo hội mời gọi chúng ta yêu mến và đền đáp công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Đồng thời, cũng kêu gọi chúng ta hãy đi làm nhân chứng cho Người. Nghĩa là giới thiệu cho người khác. Đây Con Thiên Chúa. Tình yêu đáp lại tình yêu, ân tình đền đáp ân tình, tình yêu Thiên Chúa cao mãi muôn đời. Đó là qui luật căn bản nhất của con người, người kitô hữu: là mang ơn, là đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Đáp trả ân tình Chúa không chỉ là thiết tha yêu mến Người, mà còn là quyết tâm sống hiến thân như Người đã sống. Thành người thanh sạch trinh trong vẹn tuyền. Đền đáp ân tình Chúa không chỉ là nhìn nhận những ân huệ Người ban, mà còn luôn biết chia sẽ cách quảng đại cho anh em mình những ân huệ đã nhận được nhưng không từ Thiên Chúa. Đáp đền ân tình Chúa không chỉ là biết yêu thương con người mà còn là yêu thương không mong đền đáp, là cho đi không tính toán thiệt hơn.Tất cả những ai quảng đại đáp trả ân tình Chúa thì đều là những chứng nhân cho Đức Kitô. Làm chứng cho Đức Kitô cách hữu hiệu nhất là hiến trọn đời mình, dâng trọn xác hồn cho Thiên Chúa, để con người chúng ta biểu lộ tình yêu và lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa trước mặt người đời. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN A (x. CN 3 năm B, CN 5 năm C)
Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”- Ơn Gọi
Bài đọc 1: Is 8,23-9,3- Bối cảnh lịch sử: năm 721, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, về sau được gọi là miền Galilê, trong đoạn Tin Mừng này nó được gọi là “đất Dabulon và Néptali”). Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác đến lập cư ở xứ này, vì thế Galilê lại được gọi là vùng đất của lương dân, là vùng đất tối tăm. Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó, và đám dân lầm than trong bóng tối ấy sẽ được ánh sáng chiếu rọi.
Thực vậy, trước khi Chúa Giêsu giáng lâm, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ y hệt. Bóng đêm dữ dội và kinh khiếp quá đến nỗi nhiều người phải than khóc. Nhưng ngay giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan màn đêm tăm tối. Và lời hứa của Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu giáng lâm.
Bài đọc 2: 1 Cr 1,10-13.17- Ðức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Ðức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao!
Tin Mừng: Mt 4,12-23
- Đạo Do Thái thời Đức Giê-su đã xuống cấp trầm trọng: Các đầu mục Do thái là các kinh sư và người pha-ri-sêu quá câu nệ hình thức đạo đức, coi trọng kinh kệ lễ nghi bề ngoài mà coi thường tâm tình mến Chúa bên trong nên đã bị Đức Giê-su nặng lời khiển trách là bọn đạo đức giả như sau: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình”. Vì họ đã tỏ ra cố chấp không những không gia nhập vào Nước Trời do Người rao giảng, mà còn ngăn cản người khác không cho họ vào (x. Mt 23,13); Vì họ tìm cách thu gom tiền bạc bẵng các lễ nghi kinh kệ dài dòng (x. Mt 23,14); Vì đã không lo dạy dỗ dân chúng (x. Mt 23,15), coi trọng những điều tùy phụ như nộp thuế thập phân hoa màu mà coi nhẹ điều cốt yếu là sự công bình, lòng nhân và thành tín (Mt 23,23-24)… Đức Giê-su đến không hủy bỏ Lề Luật Mô-sê nhưng để kiện toàn, để canh tân bằng việc đưa vào Luật một tinh thần mới, tóm lại trong hai giới răn quan trọng là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình” (x. Mt 22,35-40); Người cũng bãi bỏ hy lễ và hiến lễ toàn thiêu bằng chiên cừu của đạo cũ bằng việc thiết lập một lễ tế mới là Người dâng mình là Con Chiên Thiên Chúa chịu sát tế trên bàn thờ thập giá để đền tội cho nhân loại (x. Hr 10, 8-10).
- Ðoạn Tin Mừng này đánh dấu kết thúc sứ mạng của Gioan Tẩy giả và bắt đầu sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðức Giêsu bắt đầu sứ mạng tại Galilê, một miền đất vốn được coi là tối tăm, là đất của lương dân. Chính tại miền đất này, Ðức Giêsu tuyên bố “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Như thế, Ðức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia (Bài đọc 1).
Là một nhà cách mạng tôn giáo, nhưng Đức Giêsu lại xuất thân từ Nadarét, thuộc vùng Galilê (miền Bắc), là «miền đất của dân ngoại», chứ Ngài không sống ở vùng Giu-đê (miền Nam) là vùng của Do thái giáo với kinh đô và đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế, Đức Giêsu được gọi là «người Galilê» (x. Mt 21,10; 26,69; Lc 23,6; 26,59; Mt 21,11). Theo quan niệm của dân chúng thì Galilê chẳng phát sinh được điều gì đáng giá: «Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Galilê sao?» (Ga 7,41). «Ông cứ nghiên cứu đi rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả» (Ga 7,52).
Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Gioan chỉ đóng vai trò giới thiệu, còn Đức Giêsu thì chính là nội dung của lời giới thiệu đó. Vì thế khi Gioan bị bắt và bị cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphácnaum, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali và bắt đầu giảng dạy. “Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (x. Bài đọc 1).
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có 66 lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất. Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê… nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê. Galilê là ngã ba đường nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái. Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người. “Ánh sáng đã xuất hiện trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”. Đức Giê-su Ki-tô chính là ánh sáng không những đã được tiên tri từ 5 thế kỷ trước (Is 49, 6), mà ngay người môn đệ ưu ái của Người là Gio-an thánh sử – một nhân chứng sống động, thực tế nhất – cũng khẳng định về Ngưới: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay.
Ơn cứu độ không dành riêng cho ai, cho dân tộc, cho một quốc gia nào. Thánh Phaolô nói:”Sự giàu có,khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người ,ai dò cho thấu! Đường lối của Người,ai theo dõi được!”(Rm 11,33 ) Chúa đã chọn Galilêa để loan báo Tin Mừng đầu tiên. Galilêa không phải là nơi con người ngoan đạo,siêng năng đọc kinh,giữ luật,giữ đạo:đây là vùng đất bị coi là khô khan ,là nơi lạc lõng của các chiên lạc nhà Israen .Chúa chọn vùng đất này vì thương xót dân, họ bơ vơ, vất vưởng không người dậy dỗ, họ lang thang phiêu bạt, mò mẫm tìm tòi chân lý, tìm tòi lẽ sống. Chúa đến đó để nói cho họ và mọi người hay rằng:”Chúa chạnh thương họ,Chúa muốn cứu họ vì họ chưa được nghe loan báo Tin Mừng, chưa được ai củng cố lòng tin. Họ không có phẩm trật, không có cơ cấu, họ quả thực bơ vơ và lạc lõng giữa biển đời muôn vàn sóng gió, trăm ngàn thử thách. Lời Chúa vang lên:”Hãy sám hối vì triều đại Thiên Chúa đã gần “(Mt 4,17). Lời Chúa vang vọng là Lời thúc bách nhân loại, thúc bách mọi người hãy quay trở về, hãy sống công chính, hãy sống tốt lành để Chúa ngự trị nơi con người. Nước Chúa đang ở đó, Nước Chúa đang hiện diện, tình thương sẽ làm cho nước Chúa sáng lên. Nơi đâu có tình thương, nơi đó có thiên đàng. Nơi đâu hận thù xâm lấn, nơi đó hỏa ngục dấy loạn.
- Ngài khởi sự rao giảng rằng: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì nước trời đã đến gần”.
Đây cũng chính là lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 3, 2). Và thánh Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (x. Cv 2, 38). Quả thực, trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Sám hối để biết Chúa là chân lý, là ánh sáng, là lẽ sống, là sự thật. Sám hối cũng chính là ý thức mình cần đến Chúa, đi theo Chúa và chọn Chúa là lý tưởng, là mục đích tối hậu của cuộc đời. Qua hành vi sám hối, con người dễ nhận biết mình yếu đuối, bất toàn, mong manh và mỏng dòn.
Đức Giêsu công bố khởi đầu Triều Đại Thiên Chúa. Triều đại ấy ở ngay trên thế gian này. Ăn năn và sám hối là điều kiện tiên quyết để vào triều đại này. Triều Đại của Tình Yêu và Thánh Thiện này là cho cả nhân loại không phân biệt màu da hay chủng tộc. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa can thiệp một cách đặc biệt để cứu rỗi nhân loại. Ngài cũng muốn chúng ta phải mở lòng cho ân sủng của Thiên Chúa và cải thiện đời sống chúng ta.
Sám hối là từ bỏ cuộc sống cũ, trong đó con người không nhận biết nhau là anh em, sẵn sàng lên án, chỉ trích, nói xấu lẫn nhau. Đời sống cũ phải từ bỏ còn là những đam mê tội lỗi, những thu vén ích kỉ, ghen tương đố kỵ, khiến người với người sống trong canh chừng, đề phòng lẫn nhau. Một cuộc sống bất an vì sợ sệt, vì tội ác tràn lan . . . Tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giê-su, là biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, tin vào Lời của Con Thiên Chúa ở giữa nhân lọai. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.
Sám hối (metanoia trong Hy ngữ) là trở về, là từ bỏ con đường tội lỗi, là thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin mừng. Không chỉ từ bỏ hành động tội lỗi nhưng còn là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ hướng ta tới hành động đó, tức là một cuộc hoán cải chính trong nội tâm của mình, hoán cải một cách tận căn và toàn diện. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tràn, xã hội loạn lạc lầm than.
Nhưng tại sao cần phải sám hối? Lý do vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Chúa Giêsu chính là nước Thiên Chúa. Sống theo Tin mừng là trực tiếp tin vào chính Chúa Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ trần gian. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi trần gian. Ngài đã đến để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ. Nước Thiên Chúa chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là sống theo những thực tại của nước trời mà Chúa Giêsu đem đến. Đó chính là bác ái, bình an, thông cảm, tha thứ, phục vụ quên mình. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời được đến giữa mọi người. Nơi nào có bình an, bác ái, tha thứ,…, nơi đó có Chúa hiện diện, nơi đó chính là nước Thiên Chúa. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến. Nguyện cho lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta, đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.
Nước Trời đã hiện diện giữa chúng ta với sự xuất hiện của Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người và cư ngụ giữa chúng ta (Em-ma-nu-en). Nước Trời đang mỗi ngày một hình thành rõ nét hơn trong thế giới loài người thông qua những hành động yêu thương và cứu độ mà mỗi con người thể hiện trong cuộc sống.
Nước trời chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị ấy.
- Người Kito hữu chúng ta đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.
Chuyện kể một nhà kinh doanh nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: “Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho… và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho bạn bè hay hàng xóm của ngươi như thế… và có khi gấp đôi luôn”. Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: “Nếu bây giờ mình xin một chiếc xe hơi thì mấy thằng bạn…chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm… họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong khi mình chỉ có một… Thời buổi kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được”.
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với thần: “Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt”.Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trổi hơn. Song lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là hẹp hòi, tham lam, ích kỷ và độc ác.
Thế nhưng, nếu thành thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức là những đố kỵ, ghen ghét, tham lam, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất hẹp hòi, tham lam, ích kỷ và độc ác kia sẽ bùng lên khó lòng dập tắt. Thấy người khác hơn mình ghen tị, dèm pha,… Chính cái chất đố kỵ, ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của bao chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn. Và đây chính là điều mà chúng ta cần sám hối.
Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo hội. Và đâu phải chỉ có trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra như trong Bài đọc 2: “Tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Phêrô, tôi thuộc về Đức Kitô”. Tín hữu Côrintô đã chia ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm dựa vào một thừa sai và chống lại các nhóm kia: nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apollô, nhóm theo Phêrô (Kêpha) và nhóm theo Ðức Kitô. Phaolô lập luận để cho thấy việc chia bè phái như thế là sai: tất cả đều thuộc về Ðức Kitô, mà Ðức Kitô không thể bị chia năm xẻ bảy như thế. Và Phaolô kêu gọi họ hãy hòa thuận, một lòng một ý với nhau.
Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy “vui với người vui”, vì điều đó đôi khi còn khó hơn “khóc với người khóc”. Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với nhau.
Như các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Ngoài sự sám hối về tội lỗi, chúng ta còn phải sám hối vì những thiếu sót như kinh cáo mình chúng ta đọc đầu thánh lễ, vì sự thờ ơ của chúng ta với những bất công, với những đau khổ của người khác. Nhiều người không còn tính người, đối xử độc ác với đồng loại. Nhưng cũng lại có biết bao nhiêu người khác thờ ơ với nỗi khổ của những nạn nhân này. Chính chúng ta cũng đã nhiều lần thơ ơ với những đau khổ của người khác: những người cần sự giúp đỡ của chúng ta nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ; những người bị đối xử bất công, nhưng chúng ta không lên tiếng bênh vực,…. Ngày phán xét, Chúa cũng sẽ phán xét chúng ta về sự thờ ơ đối với những đau khổ của người khác (Mt 25): Ta đói các ngươi không cho Ta ăn,… vì Chúa đồng hóa chính mình với những người khác. Khi thấy tha nhân cần giúp đỡ, bạn có nhìn ra Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25,31-64). Đây cũng chính là điều chúng ta phải sám hối.
Hãy ngắm nhìn Ðức Giêsu trên những nẻo đường. Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23),
Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Ðức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, nước trời thực sự đang đến.
Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm: “Dân chúng đang sống trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Ánh sáng đó sẽ toả chiếu trên những kẻ sống trong vùng tối tăm chết chóc”.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn. Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Ðèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy: Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
- Dọc biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ Người.
Theo truyền thống, môn đệ chọn một người thầy (rabbi) để học Luật để trở thành một ông thầy. Trái lại, Đức Giêsu, một người thầy, lại tuyển chọn môn đệ. Các thầy khác dạy Luật, Đức Giêsu rao giảng về Triều Đại Thiên Chúa, và tìm sự thông hiệp với đường lối của Ngài.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Thiên Chúa thích kêu gọi những người tự thấy mình hèn mọn yếu đuối, để họ trở thành một công cụ tốt, ngoan ngùy dưới tay của Ngài. Và chính khi sử dụng những người như thế, Ngài mới có thể biểu lộ quyền năng và sức mạnh của Ngài. Nếu sử dụng những người tài giỏi, mọi người sẽ nghĩ rằng sự thành công đó là do tài trí và sức mạnh của con người chứ không phải do quyền năng của Ngài.
Ánh Sáng chiếu giãi chan hòa trên những ngư dân đơn sơ, khiêm hạ, chân tình, thâm nhập dễ dàng vào lòng trí họ, vì họ cởi mở rộng rãi, mau mắn đón nhận, không bị ngăn trở, không bị sốc vì kiêu căng với học thức, vì vô cảm với giàu sang phú quý, vì tự mãn với lòng đạo đức hình thức, giáo điều mê muội. Các ông chẳng còn e ngại phong ba bão táp, vất vả, khó khăn, gian truân, mà cháy lửa Tình Yêu, xả thân, cuồng nhiệt theo Thầy Giêsu, dấn bước phiêu lưu, chuyên cần rao giảng Tin Mừng. “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những người lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người. (Mt 4, 19-20) “Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.”(Mt 4, 21-22)
Điều mà Ngài cần nơi những người cộng tác với Ngài là: mau mắn, không chần chừ tính toán. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giêsu mời gọi, thì Phêrô và Anrê «lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người». Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: «lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người». Sự mau mắn, không chần chừ tính toán được Matthêu diễn tả bằng hai chữ «lập tức». Nó đòi hỏi phải có một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người. Từ những con người chết nhát, các ông đã trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu, không chút sợ hãi (x. Cv 4,29.31; 9,27-28; 18,26; 19,8; 28,31).
Chúa vẫn hay gọi con người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó. Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen biết ít nhiều về Ðức Giêsu, nghe lời Ngài giảng và thấy phép lạ Ngài làm, nhưng họ không ngờ là một ngày nào đó, Ngài sẽ gọi họ làm môn đệ. Ðức Giêsu đi dọc theo bờ biển như một sự tình cờ. Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm việc, kẻ quăng chài, người vá lưới. Tất cả ở trong một bầu khí êm đềm và huynh đệ. Ðức Giêsu biết việc mình sắp làm. Ngài gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất ngờ. Tiếng gọi đưa đến những chia cắt không thể nói là không đau đớn. Các môn đệ đầu tiên đã phải từ giã nghề chài lưới, nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp họ trưởng thành, nghề đã đem lại cho họ biết bao kỷ niệm buồn vui. Chấp nhận bỏ nghề là chấp nhận bấp bênh. Các ngư phủ nay phải sống trên bờ để đi theo một ông thợ mộc đã bỏ nghề! Hơn nữa, họ còn phải từ giã gia đình, và họ hàng thân thuộc. Chắc chắn Simon Phêrô đã phải cố gắng lắm để có thể chia tay với người vợ, người đã trở nên một phần xương thịt của ông. Giacôbê và Gioan cũng phải từ giã cha là ông Dêbêđê. Ông này sẽ sống bằng gì khi hai cậu con của ông ra đi? Tiếng gọi của Chúa có khi gây ảnh hưởng trên cả những người thân và đòi họ những hy sinh to lớn.
Ðoạn Tin Mừng trên đây về việc Ðức Giêsu gọi các môn đệ có thể khiến ta ngạc nhiên vì sự đơn giản của nó. Các ông đánh cá vùng Galilê đi theo Ðức Giêsu một cách khá dễ dàng, chỉ sau một lời mời gọi. Họ đã bỏ những điều rất quý và thân thương. Người ta chỉ bỏ một điều cao quý vì một điều cao quý hơn. Các môn đệ chẳng ngây thơ chút nào khi chọn theo Ðức Giêsu. Họ đã coi Ngài hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương lai; Vậy hẳn họ phải biết Ngài và đã có lòng tin nào đó vào Ngài rồi. Dù sao thái độ của các môn đệ đầu tiên thật đáng phục. Ðó là thái độ lý tưởng của người mới nghe Chúa gọi, đã sẵn sàng theo Ngài ngay lập tức.
Simon Phêrô, và các tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống”, mà chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.
- Nhiều khi ta vờ không nghe thấy Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và đoạn tuyệt. Có nhiều thụ tạo quấn lấy đời ta, không dễ gì gỡ được: tiền bạc, sự ổn định, sự thoái mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thỏa mãn nơi thân xác? Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất vượt trên mọi giá trị. Phải có tình yêu lớn lao mới có thể từ bỏ lập tức những gì ta đang ôm ấp. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta đối với Thiên Chúa.
Các môn đệ đã bỏ những điều tự nó không phải là xấu, như nghề nghiệp, gia đình. Một điều trở nên xấu khi nó cản trở tôi thực thi ý Chúa. Nếu vì quyến luyến với vợ con mà ông Simon không dám đáp lại lời mời của Ðức Giêsu, thì quyến luyến đó bị coi là lệch lạc. Kitô hữu không phải là những người vô cảm; họ có trái tim biết yêu, nhưng yêu mọi sự trong Chúa và dưới Chúa. Sau này ông Simon sẽ còn bày tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu qua cái chết tử đạo. Mạng sống là điều quý, ai cũng trân trọng, nhưng lòng trung tín đối với Chúa còn quý hơn. Tôi phải gắn bó với điều tốt, nhưng cũng phải sẵn sàng từ bỏ để chọn điều tốt hơn theo ý Chúa. Nói cách khác, tôi vẫn phải giữ một khoảng cách nào đó đối với cả những điều tốt. Ðời người Kitô hữu là một cuộc tìm kiếm không ngừng, lắng nghe không ngừng những tiếng gọi mới. Chỉ có những ai biết yêu mới tìm thấy, mới nghe thấy và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng ngày, từng biến cố của đời mình.
Không phải một người đã chết từ 20 thế kỷ gọi tôi, nhưng là một Ðấng đang sống. Chúa Giêsu gọi tôi như xưa Ngài đã gọi các môn đệ đầu tiên bên hồ Galilê. Ngài gọi tôi vì Ngài cần tôi. Ngài gọi đúng tên tôi và Ngài muốn giao cho tôi một công tác đặc biệt. Chúa phục sinh hôm nay vẫn cứ mời gọi từng người chúng ta cộng tác với Ngài trong một chương trình vĩ đại, đó là chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không? Tôi có muốn nghe được tiếng của Ngài không?
Có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa. Một thứ tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ nét, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Ðáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh của đời mình, và từ đó đời mình đổi khác. Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại vùng đất thuộc Nam Tư ngày nay. Năm 18 tuổi Mẹ nhập Dòng Nữ Tu Ðức Bà Loréttô bên nước Ai-len. Ðược cử ngay sang Ấn Ðộ để vào tập viện tại đó, chị nữ tu này đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng ở Calcutta, trường này chuyên giúp giới thiếu nữ thuộc các gia đình khá giả. Nếu Chúa không đưa ra một tiếng gọi mới, chắc chắn cuộc đời Têrêsa sẽ trôi êm bên đám học trò mê môn địa lý. Nhưng vào một ngày nọ (tháng 9-1946), nhân đi qua một phố Calcutta, nữ tu Têrêsa bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột, kiến đã kéo đến gặm nhấm người bất hạnh. Têrêsa liền vực thiếu phụ tới nhà thương, nhưng nhà thương chẳng còn lấy một chỗ. Têrêsa nhất định cứ đứng trước cổng nhà thương cho tới khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết vào. Từ biến cố này, nữ tu Têrêsa cảm nhận được lời yêu cầu của Chúa Giêsu, Ngài muốn chị hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Têrêsa đã xin ra khỏi Dòng và đến sống ở một khu nghèo của thành phố. Chắc lúc ấy, Têrêsa không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới, chuyên lo việc bác ái.
Có thể nói một trong những hoạt động chính của Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài không ngừng làm điều đó với một sự kiên nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người dưới trăm ngàn hình thức. Không phải chỉ là gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả các giáo dân theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi trường xã hội để làm chứng cho Ngài. Chúa Giêsu vẫn cứ gọi và lay động trái tim mọi người, kể cả những kẻ chưa biết Ngài. Ðời chúng ta là một chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi lúc nào cũng mới mẻ và cụ thể. Nếu chúng ta đáp lại, Ngài sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua những tiếng gọi mới.
Các môn đệ đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự. Chúa không mời gọi mọi người bỏ đời gia đình để sống đời thánh hiến, nhưng Chúa lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ sự ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống yêu thương tha nhân. Bỏ một cái gì ngoài mình, không phải là điều quá khó. Nhưng bỏ chính bản thân mình với những dự tính ước mơ, điều đó khó hơn nhiều. Chúng ta không nên nuối tiếc về những gì mình đã xây đắp, nay không còn phù hợp với tiếng gọi mới của Chúa. Thật ra, chẳng có gì là vô ích trước mặt Ngài.
Nghe tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và đi theo: đó là chu trình mà người tín hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong đời “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với tôi câu đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở trong tự do yêu mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi là “lập tức” bỏ tất cả mà đi theo, không chần chừ, so đo, tính toán hơn thiệt. Xin ban cho chúng con tấm lòng nhiệt thành, trái tim quả cảm, tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Chúa trong mọi sự.
Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi. Ơn gọi là tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người và Chúa mời gọi ta đáp lại tình yêu đó. Chính Thiên Chúa gọi ta và Người mong một ngày nào đó ta nghe được tiếng Người. Đây là tiếng gọi từ muôn thuở, từ lúc chưa có loài người sống trên mặt đất, chưa có đất trời, núi đồi, biển cả… Ngài yêu từng người, như thể chỉ có mình họ trên đời; do đó, Ngài cũng gọi từng người và đặt họ vào những con đường khác nhau từ lúc họ chưa được tạo thành:
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1, 5)
“Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.” (Gl 1, 15)
“Mỗi đời sống là một ơn gọi.” Việc ý thức đời sống như một ơn gọi sẽ khơi dậy trong con người niềm khát vọng trước tương lai, đồng thời loại bỏ quan niệm về một đời sống thụ động, buồn nản và tầm thường. Như thế, đời sống luôn mang giá trị của “ân ban đã lãnh nhận mà theo bản tính nhằm trở nên điều thiện hảo được ban lại cho kẻ khác.”
Thiên Chúa còn mời gọi con người vào một bậc sống nào đó và trao cho họ một sứ mệnh. Chúa có thể kêu gọi những người hèn mọn, bất tài, cả những người đang chống lại Chúa, để làm những công việc vĩ đại cho Ngài.
Mỗi đời sống là một ơn gọi, nên có nhiều ơn gọi khác nhau.
Theo Chúa hôm nay không nhất thiết là rời bỏ căn nhà, gia đình, người thân như các Tông đồ ngày xưa mà quan trọng hơn cả là biết “Sám hối”, từ bỏ chính mình, từ bỏ những thói xấu của từng người. Biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống. Nếu có sám hối và tin vào Đức Giêsu thì mới dứt khoát và sẵn sàng ra đi để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Có sám hối thì mới không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc để toàn tâm toàn ý lo những việc chính yếu của sứ mạng.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN A (x. CN 6 năm C; Lễ Giao thừa; Lễ các thánh)
Bát phúc
Bài đọc 1: Xp 2,3; 3,12-13 Dưới ách đô hộ của đế quốc Assyria, Israel trở thành nghèo hèn, bé nhỏ. Nhưng ngôn sứ Xôphônia lại xem đó là điều kiện căn bản để họ trở thành dân của Chúa. Vì thế ngôn sứ vừa an ủi họ, vừa khuyến khích họ sống công chính và khiêm nhu.Bài đọc 1 khẳng định là “Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Ðức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhượng thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Ðức Chúa” Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa” Hay nói một cách cụ thể hơn theo bài đọc 2, 1Cr 1, 26-31, là “chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Ðức Kitô Giêsu? Ðấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.” (1Cr 1, 30-31). Bài đọc II của Chúa nhựt trước cho thấy tình trạng chia rẽ của giáo đoàn Côrintô: họ đã chia thành 4 nhóm chống đối nhau. Ðoạn hôm nay cho biết lý do: sở dĩ họ chia rẽ là vì họ kiêu căng cho rằng mình khôn ngoan hơn người khác. Thánh Phaolô lập luận cho họ thấy thứ khôn ngoan mà họ tự phụ ấy chẳng có chút giá trị gì. Ngài trình bày cho họ biết sự khôn ngoan của Chúa: những gì thế gian cho là điên dại, yếu kém, hèn mạt thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan. Chúa đã chọn những người nghèo hèn trong cộng đồng Cô-rin-tô của thời Thánh Phao-lô làm các Ki-tô hữu.
Các Tiên tri đã giới thiệu những người cô thế, nghèo túng, goá bụa, hiền lành…là những người chỉ biết cậy dựa vào một mình Thiên Chúa, như những mẫu gương tâm linh cho giáo hữu đương thời. Bài đọc I Tiên tri Xophonia còn mạnh dạn nói với dân chúng hãy “chọn những người thấp hèn nhất trong xã hội để làm thầy dạy và làm cố vấn cho mình.” Chỉ khi nào con người cảm thấy mình thiếu thốn, yếu đuối, cô đơn, lúc đó họ mới thực sự sẵn sàng chào đón Chúa vào trong đời sống mình.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những thụ tạo chóng tàn. Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa. Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Ngài bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.
Tin Mừng: Mt 5, 1 – 12a
- Tất cả các mối phúc mà Ðức Giêsu công bố trong bài Tin Mừng hôm nay đều là hoa trái của sự công chính của chính Thiên Chúa. Chính sự công chính của Thiên Chúa mang lại ơn cứu độ là hạnh phúc cho con người. 8 mối phúc này đều quy về mối thứ nhất là tâm hồn nghèo và đều dẫn tới hạnh phúc là được hưởng Nước Trời.
Bài Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của Bài Giảng Trên Núi. Qua đó tác giả Matthêu cho thấy Ðức Giêsu quả thật là vị tân lãnh đạo của dân mới của Thiên Chúa. Như xưa ông Môsê từ núi Sinai mang mười giới răn của Thiên Chúa công bố cho dân Ít-ra-en như thế nào, thì nay Ðức Giêsu cũng công bố luật mới của Thiên Chúa như được kiện toàn nơi bản thân Người như vậy. Dân mới của Thiên Chúa bao gồm tất cả những người được Ðức Giêsu mời gọi trở nên môn đệ của Người. Ngài không đứng trung lập nhưng nghiêng hẳn về những kẻ bé nhỏ; Ngài không loại bỏ người giầu, nhưng buộc người giầu phải được hoán cải để tham dự vào Tình Yêu Thiên Chúa là đặt mình phục vụ người nghèo.
Chúa nhựt vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu loan báo “Nước Trời đã đến gần”. Hôm nay, chúng ta sẽ nghe Đức Giêsu cho biết những người được hạnh phúc và những ai sẽ được làm công dân Nước Trời: đó là những người có tâm hồn nghèo, những người sống hiền hòa, những người khao khát sự công chính v.v. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Chính đó là lý do tại sao Ðức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. “Tinh sạch trong lòng”; tương đương với “trong tinh thần” của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm. Matthêu chú trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng.
“Bài Giảng Trên Núi” hay “Hiến Chương Nước Trời” là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Ðức Kitô. Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.
Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la. Nhưng đó chỉ là thứ hạnh phúc tạm thời. Chúa Giêsu muốn con người tìm về cội nguồn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Một thứ hạnh phúc vĩnh hằng, có mãi và đem lại vui mừng hân hoan, bằng an cho tâm hồn. Dùng sự khó nghèo tâm linh như một yếu tố cần thiết để đón nhận phúc lành, và cũng để mở đầu cho Hiến Chương Tin Mừng của Ngài, là Ngài muốn chúng ta suy niệm một cách cốt lõi về ý nghĩa của cuộc đời và hạnh phúc thật sự mà con người phải tìm kiếm.
- Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu. và chúng ta được mời gọi để trở nên giống Ngài mỗi ngày một hơn. Bởi vậy, tiên tri Sophonia mời gọi “Hãy tìm kiếm Chúa”. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà. Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận. Chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người, “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Đó là con đường Chúa đã chọn: con đường Tình yêu. Giống như người mẹ đau đớn sinh con, … Giống như 1 sinh viên thức khuya dậy sớm để học tập, giống như 2 người yêu nhau chấp nhận đau khổ vì nhau, hy sinh cho nhau mà cảm thấy hạnh phúc. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả dối… Hạnh phúc không do những gì mình chiếm đoạt, nhưng hệ tại do những gì mình trao hiến. Hạnh phúc thật bao giờ cũng được trao đổi bởi khổ đau, nước mắt,hy sinh. Và chỉ ai biết yêu, người đó mới cảm nhận được hạnh phúc đích thật. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Con không xin Chúa sang giàu, cũng đừng để con quá nghèo, vì nếu quá sang giàu, con sẽ bỏ quên Chúa…. Xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? Như vậy, Chúa trở thành gia sản của mình, ” …, vì Nước Trời là của họ “.”Phúc thật” Thiên Chúa là hạnh phúc thật. Hạnh phúc là Thiên Chúa, chứ không phải là sự nghèo khó, hay hiền lành, hay than khóc, hay đói khát… Những điều Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm chỉ là phương thế để đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc là được sống với Chúa, chia sẻ với Chúa, nên giống Chúa…Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một của Người, để những ai tin vào….có sự sống đời đời
+ Ai chấp nhận gương hiền hậu và khiêm nhường của Ðức Giêsu (x. Mt 11, 28-29) sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (c.4).
+ Ai chấp nhận nỗi sầu khổ của Ðức Giêsu tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26, 36-46) là nỗi sầu khổ cứu mình khỏi tội, người đó sẽ được chính Thiên Chúa ủi an (c.5)
+ Ai ước ao giữ trọn đức công chính theo gương Ðức Giêsu (x. Mt 3,15), người đó sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng (c.6).
+ Ai biết noi gương Ðức Giêsu, Ðấng đã xin với Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đóng đinh mình trên thập tư, người đó đã được Thiên Chúa xót thương vì được Ngài cho nên giống Con của Ngài (c.7).
+ Mối phúc được nhìn thấy Thiên Chúa phải là mối phúc do chính Ðức Giêsu thông ban theo lời Người tuyên bố rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (c.8; x. Mt 11, 27).
+ Mối phúc làm con Thiên Chúa (c.9) nhất thiết cũng phải do chính Ðức Giêsu là “con yêu dấu của Thiên Chúa” (Mt 3,17); chính nhờ tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu, ta xây dựng bình an đích thực và dự phần vào tư cách làm Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu.
+ Mối phúc cuối cùng (cc.10-12) chỉ là việc ta kết hiệp mật thiết với chính Ðấng thiết lập nên Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài là Ðức Giêsu Kitô: “Nào Ðức Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang ư?” (Lc 24, 25).
Vậy bài giảng về các mối phúc thật ra cũng chỉ qui về một mối phúc chính là tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi Ðức Giêsu làng Nadarét. Tình yêu ấy khi xuất hiện trong bối cảnh văn hoá xã hội Do thái đã chọn đứng về phiá người nghèo.
Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền. Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn.
Ðời sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt,
những mất mát, yếu kém không thể bù đắp,
nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn ven.
Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng
Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó với Nguồi cội,
với Ðấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.
Chúa Giêsu dạy con người qua Tám Mối Phúc bởi vì Ngài muốn con người đừng quá nô lệ của cải, đừng quá dính bén thế gian, Ngài chỉ muốn con người hạnh phúc khi tâm hồn họ thanh thản không quá bận tâm đến của cải mà tìm kiếm Nước Trời. Đúng ra, Ngài muốn nói chính Ngài mới là hạnh phúc thật. Và chỉ ở trong Ngài, con người mới có hạnh phúc và được hạnh phúc. Điều này thánh Augustine sau suốt thời gian ăn chơi trác táng, khi đón nhận ánh sáng Tin Mừng đã thổn thức ghi lại: “Chúa dựng nên tôi có một quả tim, và tim tôi không ngừng thao thức cho đến khi nó được nghỉ yên trong Ngài”. Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa Giêsu là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc.
- Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Ðức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
Tinh thần nghèo khó là gì? Đó là một tâm hồn không dính bén, không nô lệ vật chất, của cải; có được một tâm hồn siêu thoát như vậy, người ta sẽ được hạnh phúc. Có biết bao người nghèo nàn túng thiếu nhưng không có tinh thần nghèo khó, bởi lẽ lòng họ mơ tưởng nhiều thứ quá (nhà lầu, xe hơi, vàng bạc..) Người giàu nhưng vẫn có tinh thần nghèo khó khi không bị chi phối bởi của cải: “Có cũng như không, sử dụng như không sử dụng” (thánh Phaolô.) Nếu Tin mừng Luca nhấn mạnh đến những người nghèo thật sự, thì Thánh sử Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự khó nghèo về tinh thần hơn là sự thiếu thốn về tiền bạc, vật chất. Người khó nghèo về tinh thần không cho phép mình sinh ra kiêu căng, ỷ lại vào tiền của, nhưng luôn hướng mình đến kẻ khác và nhất là trông cậy vào Thiên Chúa. Mátthêu dùng từ ngữ “nghèo khó” (to pnêumati) mang chiều kích tôn giáo như được nói đến trong Cựu ước để nói đến những người nghèo khổ khiêm cung biết chạy đến Chúa, chỉ trông cậy vào Chúa như những kẻ hành khất mà thôi.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN A
Các con là muối đất, các con là sự sáng thế gian
Bài đọc I (Is 58,7-10): Ðoạn này thuộc về phần III của sách Isaia (các chương 56-66, được gọi là Ðệ Tam Isaia), được viết khi dân Do Thái từ chốn lưu đày đã được trở về quê hương. Đây là lời Đức Chúa phán: “Ngươi hãy chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây! ” Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.”
Bài đọc II (1 Cr 2,1-5):
Tín hữu Côrintô chia rẽ nhau (đoạn được trích đọc Chúa nhựt III), lý do là họ tự cho mình là khôn ngoan hơn người khác. Phaolô bảo rằng cái mà thế gian cho là khôn ngoan thì thực ra chỉ là điên dại trước mặt Chúa, còn cái mà thế gian cho là điên dại thì lại là sự khôn ngoan (Chúa nhựt IV)
Tin Mừng (Mt 5,13-16)
- Sau khi công bố Tám mối phúc thật (Tin Mừng Chúa nhựt IV vừa qua), Ðức Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Ngài ra thi hành. Làm được như thế, họ sẽ trở thành muối ướp mặn cho đời và ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Không có ánh sáng, cỏ cây sẽ úa tàn. Không có muối, sơn hào hải vị cũng sẽ ra nhạt phèo. Chúa Giêsu ví các môn đệ của Ngài như muối đất và ánh sáng của trần gian. Đây là một vinh dự cho các môn đệ vì họ được mời gọi tham dự vào sứ mệnh làm muối đất, ánh sáng của Chúa Kitô.
Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối ướp cho đời khỏi ươn thối. Các con là tấm men làm cho khối bột là xã hội đang băng hoại về phương diện đạo đức, được dậy lên sự thánh thiện. Các con là ánh sáng chiếu soi vào thế gian tăm tối. Ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc thiện các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
- Chúa Giêsu dùng hình ảnh rất thực tế của muối để nói về công việc đức tin của các môn đệ giữa thế gian này. Muối có công dụng giữ cho thịt, cá không bị hư thối. Muối giúp cho thức ăn được đậm đà ngon miệng. Thức ăn có thể không có những gia vị khác, nhưng thiếu muối lại không được. Để giúp cho thịt cá khỏi ươn, giúp cho thức ăn được đậm đà muối phải tan biến đi vào những thứ ấy. Cũng vậy, đức tin của các môn đệ cần được mặn như muối để giúp cho những người đang sống tan rữa vì không có niềm tin, hay niềm tin đang lạnh nhạt. Chính Chúa Giêsu cũng đã là muối, là ánh sáng cho thế gian, cho tôi và Ngài đã hy sinh mạng sống mình. Là môn đệ Chúa Giêsu và để là hạt muối đức tin, tôi cũng cần tan biến đi cái tôi và sự hy sinh. Nếu hạt muối không tan biến mà chỉ nằm trơ trơ nguyên vẹn thì có lẽ chẳng có công dụng gì và cũng chẳng khác gì một hòn đá mà thôi. Nguồn cung cấp muối là biển cả mênh mông, nguồn cung cấp muối đức tin, giữ cho muối được mặn là Chúa Giêsu, là Lời Chúa
“Nếu muối lạt… nó không còn được sử dụng vào việc chi, chỉ còn ném ra ngoài. Giá trị của món đồ hàng đó là chính chất lượng. Gíá trị của một công trình xây dựng đó chính là thiện ích nó phục vụ. Gíá trị của một con người hệ tại chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa. Và chúng ta chỉ “thực sự là mình” khi chúng ta biết sống “thật có ích lợi”. Một con người mà:mất hết tính người, chỉ còn cái “vỏ người”, không còn tình người: không biết cảm thông, chia sẻ, đớn đau trước nỗi khổ của anh chị em đồng loại mình; không biết sống, suy tư, làm việc, hành động như con người, mà trở thành kẻ thủ đoạn, tham ô, trở thành gánh nặng cho tha nhân, chỉ biết hưởng thụ vui sướng cho bản thân mình, “Nó không còn được sử dụng vào việc chi, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên”. Loại người như thế đã bị Đức Giê-su nguyền rủa : “Đổ ra đường cho người ta dẵm đạp” (Mt 5, 13b) Hạt muối là để hòa tan. Hạt Muối phải chịu tan biến chính mình mới thể hiện giá trị đích thực của hạt muối. Muối đã lạt và không còn khả năng hòa tan thì cũng bị quên lãng hay vứt bỏ ta đường cho người qua lại dẫm đạp mà thôi! Muối đã lạt thì vứt đi. Con người lạt tình người, lạt trách nhiệm sẽ trở nên vô dụng và bị bị lãng quên. Khi ví người môn đệ như là muối ướp, Đức Giêsu muốn nói đến bản chất của người môn đệ là phải mặn. Người môn đệ phải mang trong mình vị mặn của tình yêu, tha thứ, bao dung và liên đới. Nếu không có vị mặn như thế thì không còn đóng giữ vai trò của mình nữa.
Như vậy, nếu không để cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa ướp chúng ta, nói cách khác, không kết hiệp và sống mật thiết với Lời và Thánh Thể của người, hẳn chúng ta là những hạt muối nhạt nhẽo, bị vứt đi cho người ta chà đạp. Là muối cho đời thì chính nó phải mặn nồng tình Chúa, chan chứa tình người để ướp mặn đời.
- Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (x. Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật. Không như những thầy dạy tôn giáo thường, Ngài đã khẳng khái nói về mình: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12). Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105).
Chúa Giêsu nói rất rõ là “chính anh em là muối cho đời” và “chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (cc. 13-14). Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời (c.16).
Ánh sáng của ta phải được thắp từ ngọn lửa phục sinh Chúa để chiếu soi những nơi tăm tối, sưởi ấm những nơi nguội lạnh, đốt cháy những lầm lỡ, tội khiên. Người Ki-tô hữu chỉ có thể là một tấm gương trung thực phản chiếu Ánh Sáng Chúa Ki-tô như trong đêm vọng Phục Sinh vẫn thường được tuyên xưng và chia sẻ cho mọi người. Mà muốn là tấm gương trung thực phản chiếu “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”, thì điều kiện tiên quyết vẫn phải là một tấm gương trong sạch, không bụi bẩn, không tì vết. Một cách cụ thể, để phản chiếu trung thực Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ, anh cần phải sống đủ, sống đúng vai trò một Ki-tô hữu trong cộng đồng, để mọi người nhìn anh và nhận ra đó là môn đệ chính tông (tông đồ) của Vua Ánh Sáng Giê-su Ki-tô (“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 35).
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,19-21). “Xưa kia anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5,8-10).
Người theo Chúa không phải là chỉ trên giấy tờ. Không thể trình giấy chứng nhận rửa tội là tôi có thể nói mình là người công giáo. Những bằng chứng như thế không đủ để vào Nước trời. Nước Trời không căn cứ trên những gì chúng ta “có” mà những gì chúng ta “là” để ban tặng hạnh phúc đời đời cho chúng ta. Vậy, người theo Chúa phải được thắp sáng bởi đèn trời. Đèn cháy sáng là nhờ đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng muôn dân. Theo Chúa mà hổ thẹn khi làm chứng cho Chúa thì đâu còn nói là môn đệ Ngài. Theo Chúa mà việc làm của chúng ta không phản ảnh được tinh thần Kitô giáo thì làm sao ăn nói với Thiên Chúa chúng ta tôn thờ được. Không ai theo Chúa mà lại có thể thích sống trong bóng tối. Ngọn đèn Tin Mừng luôn chiếu toả trên chúng ta để chúng ta cũng được rực sáng lên để chiếu soi cho mọi người trong phạm vi chúng ta đang sống.
- Khi nói đến muối Đức Giê-su có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội. Đó là một hiện diện khiêm nhường. Đức Giêsu không ân cần mời gọi tín hữu trở nên những cao lương mỹ vị quý hiếm và đắt giá, như sâm, nhung, yến. Chẳng kêu gọi trở nên những ngôi sao trong lãnh vực văn hóa, thể thao, nghệ thuật, kinh doanh hay chính trị. Cũng chẳng mong đợi mọi người trở nên VIP, thần tượng, vĩ nhân, được đông đảo quần chúng hâm mộ quý mến. Người chỉ mong muốn tín hữu trở nên hạt muối bình dị, khiêm tốn, phổ thông, hay đúng hơn là một gia vị dân dã, giản dị, bình thường, hữu dụng, thiết yếu, gần gũi với mọi người, mọi nơi và mọi thời. Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ. Người ta chưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai chưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc lớn. Trong bữa tiệc người ta khen cá ngon, thịt ngon… chẳng ai khen muối. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu.
Cảnh vật đẹp nhờ có ánh sáng. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng. Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”. Bởi đó, thánh Phaolô Tông Đồ trong bài đọc thứ hai, hoàn toàn không dựa vào sức riêng của cá nhân, cũng chẳng “cậy dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng của Người”.
Đó là một hiện diện quên mình. Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích. Ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa, bị tan biến đi và cho đi ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh rất gần gũi để gọi các môn đệ của Người: muối cho đời, ánh sáng cho thế gian. Cả 2 hình ảnh này đều giống nhau ở điểm là chúng không hiện hữu cho riêng mình, nhưng hiện hữu để góp phần gìn giữ, tô bồi hay xây dựng cho một đối tượng khác. Đó chính là bản chất cuộc sống của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, để làm cho cuộc sống con người thêm sung mãn tràn đầy, để dẫn con người hướng về Thiên Chúa là Nguồn Chân-Thiện-Mỹ và đạt được hạnh phúc đời đời. Ngôi Lời đã hóa thân thành nhục thể, và có thể nói, đã hóa thân thành muối cho đời. Hạt muối Giêsu mặn nồng tình yêu với Chúa Cha, với nhân loại, mặn nồng một niềm tin tưởng phó thác vào tay Cha, mặn nghĩa mặn tình với những con người cùng khổ, tội lỗi…nhờ “Vâng ý Cha” mà trao hiến chính Thánh Thể của mình cho con người, trở nên tấm bánh bẻ ra nuôi sống con người.Khi gọi các môn đệ là “muối cho đời”, là “ánh sáng cho thế gian”, Chúa Giêsu muốn nói họ phải trở nên giống Người, nên những “Chúa Kitô khác”, những con người biết hy sinh quên mình để sống cho người khác và góp phần làm đẹp cuộc sống cho người và cho đời.
Muối không quyến luyến, vấn vương, lưu giữ chút gì cho mình, hoàn toàn xả kỷ vị tha. Sống và chết cho tình yêu. “Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến, là Đấng ấy đã thí mạng vì ta; và ta , ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga, 3, 16) Chúa Giê-su mời gọi người tín hữu phải biết hòa tan trong cuộc đời. Như hạt muối hòa tan trong môi trường để ướp mặn cuộc đời. Như ánh sáng hòa tan trong không gian để xua tan bóng tối. Muối và ánh sáng đều phải chịu tan biến mới sinh ích cho con người. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Là người ky-tô hữu cũng phải hòa tan cuộc đời mình trong dòng chảy tình yêu để mang lại sức sống cho con người.
Chính Chúa Giê-su đã chấp nhận hòa tan chính mình trong dòng chảy của cuộc đời. Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người. Ngài đã sống để dâng hiến và phục vụ con người trong yêu thương hết mình như thánh Gioan đã nói: “Ngài đã yêu thì yêu cho đến cùng”. Đỉnh cao của hòa tan là chấp nhận tiêu hao chính mình “như hạt lúa chịu mục nát để sinh nhiều bông trái”.
Khi so sánh đức tin của người môn đệ với cây đèn và hạt muối, Ðức Giêsu đã đưa ra một định hướng rất rõ: đức tin là để tỏa ra, đức tin là phải hướng đến người khác. Nếu không tỏa ra, đức tin sẽ là hạt muối lạt, cây đèn sẽ tắt… Chỉ còn ném bỏ. Như thế, cách nuôi lớn đức tin là tập quên mình để sống cho người khác, sống vì người khác. Khi các tín hữu, nghĩa là người có đức tin, biết hướng đến người khác thì Giáo Hội sẽ phát triển, những khó khăn nội bộ của Giáo Hội cũng dần dần biến tan.
- Một căn nhà có đèn sáng báo hiệu đang có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn đem lại niềm vui và thu hút mọi người.“Các con là ánh sáng thế gian”, đây là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
Mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Ki-tô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, không sống đạo thật sự, nghĩa là chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ thật sự không áp dụng tinh thần Ðức Ki-tô vào trong đời sống của mình. Nhà cách mạng lừng danh Gandhi, được dân Ấn độ xem là một vị thánh – tuy ông không phải là người Công Giáo, nhưng ông rất say mê Thánh Kinh. Thánh Kinh chính là Cuốn Sách gối đầu giường của ông. Nhờ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm mà ông đã chủ trương bất bạo động, lấy tình thương xóa hận thù để buộc chính quyền Anh phải trả lại độc lập cho dân tộc Ấn, và còn giúp dân Ấn xây dựng đất nước! Nhờ trải nghiệm này mà ông đã nói với mọi người rằng : “Đời chỉ thành công bao lâu dám thí nghiệm sống chân lý Phúc Âm”. Đức Tin đã đâm rễ sâu vào ông Gandhi đến thế, nhưng sao đến cuối đời ông vẫn không xin theo đạo? Lý do là vì lần kia, ông muốn vào cầu nguyện tại một Nhà Thờ của người da trắng, với hy vọng sẽ gặp một linh mục để xin học giáo lý và được lãnh Bí tích Thánh Tẩy, nhưng khi ông vừa mới bước lên bậc thềm của ngôi thánh đường, thì một người da trắng từ bên trong bước ra cản không cho ông vào và nói : Nhà Thờ này dành cho người da trắng, ông muốn cầu kinh thì đi Nhà Thờ khác! Từ đó ông quyết định không theo đạo Công Giáo nữa!
Ta hãy nghe Mahatma Gandhi nói về cách sống đạo của những Ki-tô hữu trong xã hội của ông. Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ họ: Nếu những người Ki-tô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Ðức Ki-tô, thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Ki-tô hữu hết. Trước mắt ông, người Ki-tô hữu – cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông – cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Ðức Ki-tô, nhưng ông không thể trở nên Ki-tô hữu, vì những người đem Ki-tô giáo đến với dân tộc ông – người Anh – lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Ông không thể tin rằng dân Ấn độ hiền lành của ông cứ phải gia nhập cái đạo của những người đang quàng ách nô lệ lên dân tộc ông thì mới được cứu rỗi. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông một cách bỉ ổi mà được Thượng Ðế thưởng công chỉ vì họ là người Ki-tô hữu, đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì một vị Thượng Ðế như thế không thể chấp nhận được! Cũng vậy, biết bao người như Gandhi rất mộ mến Ðức Giê-su, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Ki-tô hữu chung quanh họ, là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Ki-tô giáo làm gì. Vì người Ki-tô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu… Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Ki-tô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?
Hãy tự xét mình xem chất “muối” của ta có còn vị “mặn” không? Có còn tác dụng “ướp” nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của tôi trong gia đình, trong tổ dân phố, trong xứ đạo, trong xã hội, trong nơi ta làm việc… có làm “ánh sáng” dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông người Ki-tô hữu có trật tự xã hội và mức phát triển về mọi mặt – nhất là mặt đạo đức – cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho vùng chung quanh không? Nghĩa là có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không? Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác, để làm gì?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác! Nhiều khi chúng ta lại phản chứng, làm cho người ta xa lánh Chúa….
Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị. Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.
Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng – không thể có sự sống. Cũng thế, không có ánh sáng thì cũng không có mầu sắc, không có vẻ đẹp. Ngày thứ nhất trong công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng trước hết. Khi có ánh sáng, người ta không thể che giấu được vật gì, tốt cũng như xấu. Ðể diễn tả điều này, Chúa Giê-su nói: “Một thành phố xây dựng trên núi, không tài nào che giấu được”. Một sự kiện lớn khi được ánh sáng chiếu vào, thì không ai là không thấy. Ơn Cứu Ðộ của Chúa phổ quát, sức sống của Hội Thánh mãnh liệt như vậy, không thể không được mọi người biết đến.
Chúa Giê-su dùng sự kiện thắp đèn để khẳng định điều này: “Không ai thắp đèn rồi lấy thúng úp lại”. Chúa muốn chúng ta, những Ki-tô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Ki-tô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Ki-tô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của trần gian. Xin được mượn lời bài hát “Tâm tình hiến dâng” của cha Oanh Sông Lam để cảm tạ Chúa và quyết tâm sống như người môn đệ Chúa Ki-tô:
“Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền, hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.
Thương con tự ngàn xưa, một tình yêu chan chứa, và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian. Cho con say tình mến, và này con xin đến: một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời.
Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem Lời Chân lý đền cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người…”
Một thầy dòng chuyên về giáo dục có kể lại câu chuyện sau:
Hai cô gái cùng học một trường, ở chung một phòng. Nhưng một người có đạo, còn người kia lại là ngoại giáo. Các ngày trong tuần, hai cô bận rộn miệt mài với sách vở. Chỉ có thứ Bảy và Chúa Nhật mới có thời giờ đi đó đây. Thường thường, đến ngày cuối tuần, cô ngoại giáo hay rủ cô kia đi chơi xa hoặc mua sắm: hôm thì rủ đi shopping vì đang có “sale” ở Nordstrom, Robinson, hay Eastridge; hôm thì rủ đi coi phim hay tham dự party; nhưng hầu như lúc nào cô gái có đạo kia cũng đều từ chối, viện lẽ phải đi tập hát ca đoàn, tham dự tĩnh tâm, hay có công tác đặc biệt gì đó ở nhà thờ. Sau bao lần “bị” cô ngoại giáo kì kèo năn nỉ, cô có đạo vẫn khăng khăng cự tuyệt lại còn trách nhẹ:
– “Bạn kỳ ghê, đã mấy lần người ta từ chối mà cứ rủ hoài. Thật mình không hiểu nổi!”
– “Người không hiểu nổi phải là mình chứ không phải bạn”, cô kia đáp lại.
– “Tại sao vậy?” Cô có đạo ngạc nhiên.
– “Nếu bạn thấy đi lễ, tập hát, tĩnh tâm là điều sung sướng, sao bạn không rủ mình đi với”.
Dường như lắm khi người ta giữ đạo chứ không truyền đạo. Làm thật nhiều điều tốt nhưng có lẽ chỉ vì luật buộc hay sợ sa hỏa ngục chứ chưa có tinh thần rao giảng Tin Mừng là làm cho “danh Cha được ngợi khen” qua việc chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho đồng loại. Nếu chỉ biết tìm đến đạo nơi nhà thờ, hay tệ hại hơn, xem việc sống đạo, giữ luật Chúa, tuân theo giáo huấn Giáo hội như một gánh nặng thì làm sao hồn tôi có được Tin Vui để chia sẻ và loan truyền. Và như thế không chừng cuộc sống tôi đã không làm “rạng danh Cha”, lại còn làm “hổ danh Cha” thì xót xa biết mấy.
Thánh Tông đồ Giacobe nói rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Nghĩa là có đức tin mà không hành động theo đức tin là đức tin đó kể như không có. CGS cũng nói: không phải chỉ thưa với Chúa: lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào nước trời cả đâu, chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa… hoặc: dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng… Và trong bài TM hôm nay Chúa bảo chúng ta phải là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian. Muối chính là tình yêu, là hy sinh, phục vụ… đây là những yếu tố làm cho đời sống con người hạnh phúc, vui tươi, yêu thương nhau… Sống trong môi trường nào, chúng ta phải là muối của yêu thương để làm cho mọi người vui tươi, phấn khởi…Còn ánh sáng cho trần gian thì sao? Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”. Chủ đề của đoạn Phúc Âm hôm nay mà Chúa Giêsu nói đến chính là sự bác ái, bác ái chính là men, là muối, là ánh sáng cho đời. Thánh Phaolo nói: “Cho dù anh em có nói được tiếng nói của loài người và của các thiên thần, nhưng không có lòng bác ái, thì cũng giống như não bạt, phèng la kêu chũm chọe …” ( 1Cr 13, 1-13).
Không chỉ là muối phải mặn, đèn phải thắp sáng nhưng còn phải chủ động ướp mặn cho đời, phải thắp lửa cho đời nữa. Thật vậy, người môn đệ trở nên muối trước tiên là ướp chính mình; sau là ướp cho đời.
Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.
Thức ăn bị nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài làm cho hư thối. Xã hội con người cũng bị những yếu tố nội tại lẫn ngoại tại làm cho hư hỏng, tồi tệ, và trở nên đau khổ. Vì thế, khi Ðức Giê-su nói: “Chính anh em là muối cho đời”, thì một cách nào đó, Ngài muốn giao cho chúng ta, là người Ki-tô hữu hay môn đệ Ngài, một nhiệm vụ rất quan trọng đối với xã môi trường mình đang sống. Ðó là: phải làm sao giữ cho môi trường ấy không bị hư hỏng và đau khổ bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta… Người Ki-tô hữu cần ý thức nhiệm vụ ấy.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN A (x. CN 9 năm B)
Kiện toàn lề luật
BÀI ĐỌC I: Hc 15,15-20- “Nếu con muốn sống thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người.” Người khôn ngoan là người tuân giữ Luật Chúa. Muốn giữ luật Chúa hay không là tuỳ mỗi người, cũng như mỗi người đứng trước hai con đường. Ai muốn đi con đường nào tuỳ ý. Nhưng con đường thứ nhất là nước, sự sống, sự lành; con đường thứ hai là lửa, sự chết và sự dữ. Sống theo Luật Chúa chính là chọn theo con đường thứ nhất.
Thiên Chúa ban cho con người có tự do và để con người tự do định đoạt số phận của đời mình: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”.
Trong Bài Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giê-su đặt những người đồng hương của Người vào tư thế phài chọn lựa giữa cái cũ và cái mới. Ý của Chúa Giê-su hiển nhiên là người ta nên/phải chọn cái mới vì cái cũ đã qua, cái mới đã tới và cái mới thì trổi vượt và hoàn hảo hơn cái cũ.
BÀI ĐỌC II: 1Cr 2,6-10- “Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển. Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá. Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người.”
TIN MỪNG: Mt 5,17-37
- Tại sao Chúa Giêsu lại phải kiện toàn những luật lệ, vốn dĩ đã được coi là thánh luật, thiên luật, tức là luật mà Giavê Thiên Chúa đã truyền cho Môisê. Cũng không khó để trả lời thắc mắc này. Thứ nhất, vì theo thời gian, con người đã thêm thắt hay chi tiết hoá và làm cho luật bị méo mó, lệch lạc. Thứ hai, vì lề luật cũng có tính cách tiệm tiến như mạc khải. Nghĩa là không thể một lúc, một thời mà luật trở nên hoàn hảo được. Không phải vì Thiên Chúa không hoàn hảo, mà vì khả năng của người tiếp thu, lĩnh hội luật có giới hạn và bất toàn. Chúa Giêsu không hủy bỏ lề luật, nhưng Ngài muốn làm cho luật nên hòan hảo, và thực sự vì lợi ích và đem lại hạnh phúc cho con người.
Một câu hỏi nữa đựơc đặt ra đó là Chúa Giêsu đã kiện toàn luật ở những điểm nào?
Trước hết, Ngài kiện toàn nội dung của luật (gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán,…). Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật. Và luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại. Sau nữa là Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến (mến Chúa yêu người) chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức sẽ làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, và cằn cỗi.
Hơn ai hết, các luật sĩ và biệt phái Do thái là những người giữ luật nghiêm ngặt và cũng rất chi li tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc đến vô hồn. Là những bậc thầy trong dân, thay vì dạy dân sống tinh thần của luật, thì cung cách sống của họ làm cho mọi người nghĩ rằng sự công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật. Và tệ hại nhất là chính họ đã biến luật thành một cái ách sần sùi chai cứng và một cái gánh quá nặng nề đối với dân chúng.
Luật cũ chỉ nắm vai trò dẫn đường, chuẩn bị, khai mở mà thôi; mặt khác, nó đã bị những người nắm giữ vai trò giải thích Luật lạm dụng và làm cho nó trở nên nặng nề như cái gông cái ách quá nặng để đè lên vai con người, mặc dù những người đó không đủ sức mang vác.
Những điều được ghi chép trong Cựu ước tiêu biểu qua luật Môsen và lời các ngôn sứ vẫn có giá trị đặc thù của chúng. Chúng thật sự là lời của chân lý Giavê Thiên Chúa ban cho dân Người. Chúng đã từng hướng dẫn, răn dạy, cảm hóa dân Chúa và sẽ mãi mãi tiếp tục làm các công việc ấy. Vì thế, dân Chúa cũng phải tiếp tục tuân giữ mọi điều Cựu ước truyền dạy. Tuy nhiên, vì Cựu ước mới chỉ là những bước chuẩn bị cho Tân ước nên nó cũng cần được điều chỉnh, bổ sung để đi đến chỗ hoàn hảo. Chúa Giêsu chính là người sẽ thực hiện điều này khi tuyên bố rằng: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn”. Chúa Giêsu gián tiếp nói lên sứ mạng thiên sai của mình. Chỉ trong Ngài, chương trình mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi trần gian mới đạt được mức viên mãn mà thôi. Bởi Ngài là cùng đích nên Ngài có toàn quyền để hướng mọi sự về cùng đích này. Ngài không đi ngược lại những điều Môsen và các ngôn sứ đã nói, nhưng Ngài lại hướng những lời nói ấy đến cùng đích của chúng. Trong các bài giảng của Ngài không khi nào Ngài lên án hay phê phán lề luật và lời các ngôn sứ. Ngài chỉ lên án những ai lợi dụng các điều ấy cho các mục đích sai trái, hoặc Ngài chỉ nâng các điều ấy lên mức hoàn thiện cao hơn mà thôi. Khi tuyên bố: “Các con đã nghe luật dạy người xưa rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho các con biết…” Chúa Giêsu không có ý chê bai lề luật, mà chỉ muốn nói rằng đã đến lúc phải hiểu lề luật với một tinh thần mới.
Thời đại thiên sai được Chúa Giêsu ví như rượu mới phải được bỏ vào bầu da mới: Ðã đến lúc phải bỏ cái bầu da cũ ấy đi và thay vào đó một bầu da mới. Trong bầu da mới này, rượu lề luật dậy men tình yêu và cho ra một thứ rượu mới làm say mê lòng người. Từ nay, lề luật mang một tên mới là luật tình yêu. Và với một cái nhìn của tình yêu thì không có việc gì là nhỏ mọn vô nghĩa. Tình yêu đòi hỏi phải luôn trung tín, nhưng sự trung tín trong tình yêu lại khác xa với sự trung tín chỉ vì lề luật. Từ cái nhìn này, Chúa Giêsu mời gọi dân chúng quay trở lại với lề luật, để khám phá ra những nét mới lạ trong đó và sống cách triệt để khám phá này. Lúc ấy, họ sẽ nhận ra rằng quả thực, dù chỉ một điều nhỏ mọn nhưng được nhìn với cặp mắt yêu thương thì sẽ trở nên vô cùng giá trị, nhờ đó sẽ không ai đành lòng bỏ qua dù chỉ một điều nhỏ nhặt để kiện toàn lề luật ấy. “Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thánh Thần. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thánh Thần mới ban sự sống “( 2Cor 2, 6). “Nhưng người Do Thái đích thực là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì đích thực là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật, chớ không phải theo chữ viết của Lề Luật…” (Rom 2, 29).
- Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
a/ Luật cũ cấm giết người – Luật mới dạy phải coi người khác là anh em và cấm “giết” anh em mình (chữ “anh em” được dùng rất nhiều lần trong tiểu đoạn nay). Đã là anh em với nhau thì phải thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau. Phẫn nộ với nhau, chửi nhau là ngốc là khùng, hay giữ mãi sự bất hòa với nhau tức là không coi nhau là anh em; nói cách khác, tức là “giết” chết người anh em đó rồi, vì người đó không còn là “anh em” của mình nữa mà đã trở thành người ngoài, người dưng. Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.
Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình, tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim. Thánh Gioan Tông đồ cũng viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).
Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau? Cần phải hoà giải, thiết lập lại tình huynh đệ đối với những ai bị xúc phạm, nếu không lỗi phạm đó có thể làm tổn thương đến mối giao hảo với Chúa: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ của mình” ( Mt 5, 23-24).
b/ Luật cũ cấm hành vi ngoại tình – Luật mới ngăn chận ngoại tình từ ước muốn. Vậy phải chận đứng tất cả những gì gây nên ước muốn xấu xa đó, như con mắt, cái tay, cái chân…
Điều răn thứ sáu dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người. Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, thì sớm muộn, con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Vậy muốn diệt thì phải diệt tận gốc chứ không chỉ có cái ngọn.
Chúa Giêsu thật chí lý khi dặn dò chúng ta giữ tâm hồn thanh sạch. Nếu đức trong sạch được trân quí nơi ý thức của mỗi cá nhân, nơi giáo dục của mỗi gia đình, nơi chủ trương của xã hội thì ắt hẳn sẽ có một xã hội đầy nhân tính, xứng nhân phẩm, trọn vẹn nhân ái đúng nghĩa mà Thiên Chúa muốn.
c/ Luật cũ quy định thủ tục li dị – Luật mới triệt để cấm li dị.
d/ Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”. Còn Đức Giêsu bảo: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả… Luật cũ cấm thề gian – Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa. Lòng ngay chính thật thà có thể nói sẽ hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Và yêu thương chân thành sẽ là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của những lạc thú xác thịt, của những âm mưu chia rẻ, âm mưu gây hận thù, oán trách.
Chú ý: vì muốn nhấn mạnh về những giáo huấn của Luật mới, Chúa Giêsu nhiều lần dùng kiểu nói cường điệu như: chửi anh em là khùng thì bị vạ lửa địa ngục, để lễ vật lại ở bàn thờ, chặt tay móc mắt v.v. Chúng ta đừng hiểu những kiểu diễn tả cường điệu ấy theo sát nghĩa đen.
- Giới Biệt phái tin rằng chỉ cần giữ Luật Mô-sê là đủ nên công chính. Vì luật do Thiên Chúa ban, nên luật là thánh. Càng giữ luật, càng thánh thiện. Nhưng Chúa dạy: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” “Người ta chỉ được trở nên công chính do lòng tin vào Chúa Ki-tô, chứ không phải do việc làm của Luật dạy” (Gl 2, 16). Thiên Chúa đã hứa qua ngôn sứ Isai rằng: “Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại Người.” Sự công chính ấy chính các môn đệ được tham dự và được trở nên cho hợp với Nước của Thiên Chúa mà Ðức Giêsu đến để thiết lập. Sự công chính ấy phải vượt trên sự công chính vì luật nơi các kinh sư và người Pharisêu (Mt 5, 20). Trong cụ thể, sau đây là sáu điều nổi bật về sự công chính của Tin Mừng Ðức Kitô đối chiếu với những điều tương đương trong Luật Cựu Ước (Mt 5,21-48):
- Luật xưa dạy cấm giết người (Xh 20,13). Nay Ðức Kitô tới dạy các môn đệ phải loại bỏ cả sự giận dữ cũng như những điều lăng nhục làm cớ cho tội sát nhân (Mt 5,21-26).
- Luật xưa dạy chớ ngoại tình (Xh 20,14;Ðnl5,18). Nay Ðức Kitô dạy phải loại bỏ cả ham muốn tình dục là điều dẫn tới ngoại tình: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27-30).
- Luật xưa dạy: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị” (Ðnl 24,1). Nay Ðức Kitô dạy: “Ai rẫy vợ mình là đẩy vợ mình đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5,31-32)
- Luật xưa dạy: “Chớ bội thề nhưng hãy trọn lời thề với Ðức Chúa” (Lv 19,12;Ds30,2;Ðnl 23,21). Còn Ðức Kitô dạy: “Ðừng thề chi cả? Nhưng hễ có thì nói có, không thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ” (Mt 5,38-42).
- Luật xưa dạy: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21, 23-24; Lv 24,19-20; Ðnl 19,21). Nay Ðức Kitô dạy: “Ðừng chống cự người ác” (Mt 5,38-42).
- Luật xưa dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Nay Ðức Kitô dạy các môn đệ: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,43-48).
- Kiện toàn
– Kiện toàn thái độ giữ Luật: Phải tránh thói giả hình khi làm các việc lành như bố thí, cầu nguyện và ăn chay… để mong tìm tiếng khen của tha nhân như các kinh sư và người Pha-ri-sêu thường làm (x. Mt 6,1-2.5.16). Đức Giê-su dạy môn đệ đừng bắt chước thái độ giả hình của các đầu mục Do thái như sau: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Người còn đòi môn đệ phải có đức công chính hơn các đầu mục Do Thái (x. Mt 5,20).
– Người kiện toàn về sự ô uế theo Luật Mô-se khi cho biết người ta bị ô uế không do việc ăn đồ ăn vật chất, mà do suy nghĩ điều sai quấy trong lòng và nói ra ngoài miệng những điều xấu xa (x. Mt 15,10-11).
– Người kiện toàn về sự thờ phượng Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên thờ Chúa không nhất thiết phải thờ trên núi Ga-ri-dim hay tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem như Luật dạy. “Những người thờ phượng đích thật từ nay sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).
– Người kiện toàn bằng việc gắn liền đức ái khi giữ các điều khoản Luật Mô-sê: Đức Giê-su đã cho biết: Luật được lập ra vì ích lợi cho con người, chứ không phải con người phải hy sinh cho Lề Luật bằng ngôn từ (x. Mt 12,6-8). Do đó, khi có sự đối nghịch giữa việc giữ Luật với luật bác ái, thì người ta phải vượt qua Lề Luật ngôn từ để làm theo Luật bác ái như Đức Giê-su đã làm: Chữa bệnh trong ngày hưu lễ bị Luật ngăn cấm. Cụ thể Người đã trả lời ông trưởng hội đường về lý do chữa bệnh trong ngày Sa-bát như sau: “Bà này là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?” (Lc 13,16) v.v…
– Chúa Kitô đã kiện toàn lề luật như thế nào mà các trang Tin Mừng đã tường thuật?
+ Đặt lề luật vào đúng vị trí của nó: Lề luật là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. “Ngày Sabbát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2, 27). Đã là phương tiện thì phải nhằm phục vụ mục đích. Khi không thể đạt mục đích hay đang đi lệch mục đích thì phương tiện không còn cần thiết và nhiều khi phải từ bỏ nó. Khi có người đến hỏi Chúa Giêsu rằng tại sao các môn đệ ông Gioan Tẩy Giả và các môn đệ người Pharisiêu ăn chay mà các môn đệ Người không ăn chay thì chính Chúa Giêsu đã nhắc nhớ họ về mục đích của việc ăn chay (x. Mc 2, 18-22). Vì sao ta ăn chay hay ta ăn chay để làm gì? Có người ăn chay là để sám hối ăn năn tội lỗi đã phạm, có người ăn chay để hãm mình hầu làm chủ các tham muốn vô độ, có người ăn chay chỉ vì để giảm béo… Khi đã xác định rõ mục đích thì chúng ta sẽ biết ăn chay khi nào và ăn chay thế nào, nghĩa là biết sử dụng một phương tiện đúng thời điểm và đúng cách thế.
+ Đặt lề luật vào đúng thứ tự trên dưới và mức độ hoàn bị cũng như bó buộc, xét theo nguồn gốc của lề luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi người đều phải tuân giữ, còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tính tương đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn hoá… Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật của Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của Thiên Chúa. Do đó, luật của con người cần phải lấy luật của Thiên Chúa làm điểm quy chiếu và nhất là không được trái với luật của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng sữa sai nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ về việc họ bỏ qua luật của Thiên Chúa mà bo bo giữ các tập tục nhân loại chẳng hạn như việc họ dạy người ta về luật Corban: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Người hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”(Mt 15,3-6). Khi người ta nói đến chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn nhân bất khả phân ly (x. Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
- Việc tuân giữ lề luật phải khởi đi từ thái độ chân thành bên trong tâm hồn. Cái bên ngoài là cách thế hữu hình rõ nét biểu lộ cái bên trong. Tuy nhiên, không phải luôn luôn có sự đồng nhất về ý nghĩa giữa tâm tình bên trong và điều biểu lộ bên ngoài. Chuyện “khẩu phật, tâm xà” là chuyện xưa nay không hiếm. Hơn nữa điều cần lưu ý đó là chính tâm tình bên trong mới quyết định giá trị cũng như ý nghĩa của cái biểu lộ bên ngoài. Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng hình thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng hình ảnh “mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví nhiều người giữ luật theo kiểu này. Ngưòi cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc nhớ họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (x. Mt 15,7-8).
Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới chủ yếu quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên ngoài. Đã nhiều lần Chúa Giêsu khẳng định rằng không phải những gì bên ngoài vào trong con người thì làm cho họ ra nhơ uế mà chính là những gì từ bên trong phát xuất ra (x. Mc 7,14-23). Nhiều khi dù chưa thực hiện bằng hành vi bên ngoài như giết người hay ngoại tình, nhưng đã quyết định loại bỏ người anh em ngay trong lòng mình, hoặc đã quyết định làm điều bất chính với một phụ nữ thì đã đáng tội rồi (x. Mt 5,21-28).
- Luật yêu thương là luật tối thượng. Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới răn: Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22,34-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Dù xác định là giới răn trọng nhất, nhưng chúa Giêsu đã phân thành hai điều trên dưới khác nhau là mến Chúa và yêu người. Chính nhờ biết kính mến Thiên Chúa nên chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân vượt quá cảm tính thường tình để rồi có thể yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bắt bớ, làm hại mình (x. Mt 5, 43-48). Tuy nhiên, tương tự như các bậc mẹ cha thường đón nhận việc con cái yêu thương, đùm bọc lẫn nhau là cách thế báo hiếu mẹ cha tuyệt vời nhất thì Thiên Chúa đã đoái nhận việc con người yêu thương nhau thật tình là cách thể tỏ bày lòng mến Chúa tuyệt hảo. Sau khi giảng dạy dân chúng nhiều điều thì Chúa Giêsu đã tóm gọn: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12; x.Lc 6,31).
- Sống tinh thần luật
Chỉ trích những tập tục rửa tay, rửa chén, những giải thích tỷ mỉ về vũ trụ, hình thức vụ luật của ngày Hưu lễ trong giới Biệt phái, luật sĩ, Chúa Kitô bị hai giới này kết tội phá luật Môsê. Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa không phá hủy luật Môsê, trái lại Chúa dạy làm hoàn hảo luật Môsê.
Nên biết Luật Môsê được ban hành cách Chúa giáng sinh trên ngàn năm và đuợc làm hòan hảo dần dần theo đà tiến bộ của mặc khải. Tới Chúa Kitô, Đấng đưa mặc khải tới trọn vẹn thì Luật Môsê cũng được Chúa đưa tới mức hòan hảo. Nhìn vào bài Tin Mừng hôm nay, ta đọc thấy các điều :
– Giới răn thứ năm: Luật Môsê dạy “chớ giết người”, Chúa dạy chẳng những không đuợc giết người mà còn không được khinh chê, không được đối xử bạc bẽo, không được nhiếc mắng người ta. Sống hòa thuận với mọi người là nền tảng cho lòng đạo đức, đến nỗi “dâng của lễ” là việc phụng vụ chóp đĩnh của tôn giáo, nhưng khi dâng lễ mà sực nhớ mình đã làm mất lòng ai đó, thì hãy để của lễ lại, đi làm hòa truớc đã rồi hãy trở lại dâng lễ.
– Giới răn thứ Chín: chớ ngoại tình. Luật Môsê chỉ đề cập tới hành động bên ngoài, còn Chúa không những dạy không được ngoại tình bằng việc làm mà còn không được ngoại tình trong tư tưởng nữa, vì tư tưỏng đi tới hành động, vì tư tưởng chỉ huy hành động, vì con người trọn vẹn phải bao gồm cả tư tưởng lẫn hành động. Vì thế, ao ước phạm tội thì đã phạm tội rồi.. Nhân thế, Chúa dạy phải đề phòng các dịp tội một cách quyết liệt, không chần chừ, không lý luận, nhất là những cơ quan tiếp xúc như con mắt, chân, tay. Lời nói mạnh của Chúa “móc mắt quăng đi, chặt tay, chân quăng đi” khi chúng tạo nên dịp tội cho ta, lời nói này không hiểu theo nghĩa đen, vì vứt quăng những thứ đó đi người ta vẫn phạm tội được (tội ở trong lòng, trong tư tưởng chứ không chỉ ở tay chân). Trái lại phải hiểu theo nghĩa bóng: nhấn mạnh tới thái độ quyết liệt, dứt khoát và tránh tội.
– Giới răn thứ Chín và thứ Sáu : Luật Môsê cho phép li dị vợ, ai li dị vợ thì hãy trao cho vợ tờ li hôn. Còn Chúa, Chúa cấm li dị. Ai lấy vợ đã li dị dầu hợp pháp hoặc không thì trước mặt Chúa họ phạm tội ngoại tình.
– Giới răn thứ Hai và thứ Tám : chớ thề gian và nói dối, Chúa dạy đừng thề thốt gì cả, đừng chỉ vật gì mà thể, có thì nói có, không thì nói không. Dạy như vậy, Chúa đặt nhân đức thành thực rồi, thì chính con người mình bảo đảm cho lời mình nói, không cần giấy chứng minh, không cần thề thốt nhờ cậy một bảo đảm nào khác. Ta nên biết dân Do thái, thề thốt luôn miệng; nhóm Luật sĩ, Biệt phái lại đưa ra những giải thích kỳ quặc: chỉ lễ vật mà thề thì phải giữ lời thề, chỉ bàn thờ mà thề thì không phải giữ. Thật là một thứ mánh khóe có thể lừa gạt người dốt nát. Chúa cấm thề thốt. Tuy nhiên thánh Phaolô vẫn thề khi cần thiết và Giáo Hội dạy thề trong những việc quan trọng. Vì thế, luật dạy đừng thề thốt gì cả của Chúa không tuyệt đối, và áp dụng cho từng trường hợp.
Đọc kỹ lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy rằng Chúa đặt tinh thần sống luật bên trên các khoản Luật. Có luật mới sống có trật tự, có văn minh, nhưng chỉ nhìn vào luật để sống, sống gò bó trong khuôn khổ luật, người ta tưởng như vậy là đầy đủ rồi, thực ra người ta đang sống trong “an nhàn” tự cho mình là đầy đủ, là thánh, chứ suy cho kỹ họ đang sống trong thiếu sót trầm trọng. Vì lề luật luôn luôn là mức tối thiếu để ta vươn lên, để ta tiến về phía trước. Nền tảng của luật Chúa không phải là khoản này khoản kia, mà là đức bác ái, là lòng mến. Lòng mến do lòng muốn thúc đẩy thì vô giới hạn luôn luôn đòi hỏi phải tiến xa, đi lên cao không mỏi mệt. Một người chỉ nhìn vào mặt chữ để thi hành, để giữ luật thì họ là những luật sĩ, Biệt phái. Chúa dạy ta phải có đức công chính vượt hơn biệt phái, luật sĩ, tức là không phải giữ luật theo mặt chữ dạy, nhưng phải giữ luật trên tinh thần bác ái. Thí dụ Luật Giáo Hội dạy xưng tội nặng một năm một lần, rước lễ một năm một lần trong mùa Phục sinh, nếu tôi chỉ xưng tội một năm một lần, rước lễ một lần trong Mùa Phục sinh, tôi cho là đầy đủ rồi vì tôi đã theo đúng luật dạy, như vậy tôi khó có thể tiến tới, luyện tập các nhân đức. Trái lại, ta phải biết rằng giữ luật Giáo Hội dạy để ta khỏi bị tụt xuống, rơi vào tình trạng nguy hiểm, và để ta vươn lên, không phải rước lễ một lần một năm, mà rước lễ hàng ngày, không phải xưng tội nặng một năm một lần mà để xưng tội hằng tháng, nhờ đó tôi sống đạo, sống tiến bộ mỗi ngày trên con đường làm thánh không giới hạn.
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Gilgal Zamir có thể là hiện thân của những Biệt phái thời Chúa Giêsu, nghĩa là luôn miệng nhân danh Chúa và lề luật. Cũng như những người Biệt phái, anh tin tưởng nơi Chúa, anh trung thành với lề luật, anh yêu tổ quốc. Nhưng anh thiếu một điều hệ trọng nhất để có thể sống như một con người, đó là một trái tim, một trái tim để biết yêu thương, để biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Khi con người không có một trái tim, thì họ sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, mà nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Tất cả vụ án của Chúa Giêsu đều bắt nguồn và xoay quanh những cuộc đối đầu về lề luật. Ðối đầu với những người Biệt phái cho đến cùng bằng cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu.
Giáo dục con người sống cho ra người có nghĩa là giáo dục cho con người biết sống yêu thương. Thông minh đĩnh đạc, mà không có trái tim để yêu thương, thì đó là một tai họa cho bản thân cũng như cho xã hội. Có tất cả mà không có một trái tim để yêu thương, thì đó là nỗi bất hạnh lớn nhất đối với con người. Cách mạng mà không xây dựng trên tình yêu thương, thì đó chỉ là phá hoại. Ðạo đức mà không có yêu thương, thì chỉ là một trò lừa bịp.
- Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã mạc khải cho chúng ta chân lý về con người. Mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng ta luôn ý thức rằng chúng ta chỉ đạt được định mệnh của mình bằng cuộc sống yêu thương mà thôi. Là môn đệ của Ðấng đã chết trên Thập giá để nêu gương yêu thương cho chúng ta, xin cho chúng ta ý thức rằng cốt lõi của đạo là giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta.
Khi nhân danh lề luật để kết án người khác, chúng ta lỗi luật yêu thương. Luật quan trọng nhất, cốt lõi của luật là yêu thương. Ngày phán xét, Chúa sẽ phán xét chúng ta về tình yêu (x. Mt 25). Đạo chúng ta được gọi là đạo yêu thương. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, và tất cả mọi điều răn đều quy tụ vào một giới răn duy nhất: đó là yêu mến Thiên Chúa với tất cả con tim, và yêu mến tha nhân như chính mình. “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Càng yêu thương, càng thánh thiện vì nên giống Chúa: Thiên Chúa là Tình Yêu. Thánh Kinh thường gọi Luật là “ách” và “gánh”. Nhưng luật của Chúa Giêsu là luật gia đình. Luật gia đình tuy cũng là “ách” và “gánh” nhưng rất nhẹ nhàng, êm ái: “Ách Ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Tinh thần bao trùm tất cả mọi khoản luật là tinh thần gia đình: đối xử với Thiên Chúa bằng tình hiếu thảo cha con và đối xử với người khác bằng tình huynh đệ anh em.
Khi thấy một người mù cần được giúp đỡ, thì Đức Giêsu động lòng thương và ra tay cứu giúp (x. Ga 9,1-41), bất chấp hôm đó là ngày sabát, là ngày mà luật Môsê cấm ngặt không được làm việc. Như vậy, Ngài coi việc cứu người quan trọng hơn việc giữ luật sabát, cho dù đây là luật buộc rất ngặt: người vi phạm ở mức nghiêm trọng có thể bị tử hình (x. Xh 31,14-15; 35,2). Còn người Pharisêu coi việc giữ luật sabát quan trọng hơn việc cứu người, vì đây là luật buộc rất ngặt. Theo họ, thà để người khác tiếp tục bị mù, bị thiệt hại, bị chết, còn hơn là vi phạm lề luật của Thiên Chúa. Một đằng nhìn thấy con người để yêu thương, và một đằng chỉ nhìn thấy lề luật, nguyên tắc để tuân giữ. Nghĩa là một đằng quan trọng hóa con người, còn một đằng quan trọng hóa lề luật.
Lề luật dù có thánh thiêng tới đâu cũng là vì con người, nhằm phục vụ cho lợi ích hay hạnh phúc của con người, chứ không ngược lại. Lề luật là phương tiện, nhưng con người mới là mục đích. Con người thánh thiêng hơn các lề luật rất nhiều, cho dù lề luật có do chính Thiên Chúa lập nên đi nữa, vì «con người là hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26.27; 9,6), chứ lề luật không phải là hình ảnh của Ngài, dù là luật do chính Ngài thiết lập.
Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Luật được làm ra là để phục vụ cho đời sống con người chứ không phải con người lúc nào cũng duy luật và rồi dẫn đến tình trạng sống vụ hình thức. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Sabat chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Sabat cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Vinh quang Thiên Chúa chính là con người được sống (Irênê?) Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.
Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã nhiều lần chữa lành những người bệnh trong ngày Sabat. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu.
“Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con, và ban tặng các con một trái tim bằng thịt biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (Ed 36, 23-27). “Trái tim mới” ấy, trái tim “biết yêu thương” ấy, là trái tim theo mẫu mực “Trái Tim Giêsu”. Vì không có “tình yêu” nào như “Tình Yêu Giêsu”. Không có trái tim nào như “Thánh Tâm Giêsu”.Vì chỉ có “Trái tim Giêsu” mới yêu Chúa Cha đến mức vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Vì chỉ có “Trái Tim Giêsu” mới yêu con người đến hiến mạng vì con người. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga.15,13). Chỉ có Tình Yêu như Đức Kitô mới giúp con người có thể sống với Lề Luật kiện toàn mà thánh ý Thiên Chúa mong muốn qua Giáo Huấn Chúa Giêsu.
Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó, giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát. Chúa Giêsu dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng, yêu cả kẻ thù. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy biết đối xử với anh chị em bằng lòng quảng đại, thương xót, cảm thông, bao dung, tha thứ … chứ đừng sống theo kiểu “bới lông tìm vết hoặc vạch lá tìm sâu.” Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh chị em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh chị em theo những việc bên ngoài.
Một việc cụ thể là giữ ngày Chúa nhật, nếu ta không để ý thì việc đến nhà thờ ngày Chúa nhật chỉ là chu toàn lề luật, để tránh cho khỏi tội. Vì thế, mà có nhiều người và nhiều lần ta mới chỉ đi ‘xem’ lễ chứ chưa thật sự ‘tham dự’ Thánh lễ. Thật vậy, đi lễ ngày Chúa nhật không phải chỉ để chu toàn lề luật mà là để thể hiện tình yêu của ta, là để gặp Chúa và gặp nhau. Cùng nhau cảm ta, chúc tụng, ngợi khen Chúa. Tham dự lễ là để lắng nghe Lời Chúa và múc lấy sự sống Chúa nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh thể. Đến nhà thờ còn là để chia sẻ niềm vui, hiệp thông với nhau trong tình thân mật là con cùng một Cha Trên Trời. Và đi lễ ngày Chúa nhật còn là để thể hiện tình bác ái nữa, để chia sẻ cho nhau niềm vui, lẫn nỗi buồn … Đó mới thật sự là ý nghĩa và mục đích của việc đi lễ và tham dự Thánh lễ, tham dự vào một Giáo hội hiệp thông và bác ái.
Có người dựa vào lề luật để kết án người khác, lại là những người phá bỏ lề luật trước hết. Vì luật của Chúa là để “cứu chữa chứ không phải để giết chết”. Những người hăng say với lề luật mà không có tình yêu, thường là những kẻ giết người dữ tợn nhất, hăng say trong việc kết án anh em nhất! Khi nghe những lời phê phán, kết án từ môi miệng của những người có Đạo, đừng tưởng họ là những người tốt lành. Vì người giữ lề luật Chúa nghiêm chỉnh, thường rất khiêm nhường và đầy tình yêu thương, không kết án người khác. Chúa đến để trả lại cho lề luật sự thánh thiện, tốt lành. Ngài kiện toàn luật lệ không phải trên chữ viết, mà trong tinh thần hiểu đúng và làm đúng. Luật lệ phải phục vụ cho tình yêu, cho sự sống và ơn cứu độ con người.
Chúa Giê-su cũng nhắc nhở chúng ta rằng tha nhân là hiện thân của Người và tất cả những gì chúng ta làm cho các anh chị em chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mat-thêu 25, 40)Vì thế, khi chúng ta giận ghét anh em mình là giận ghét Chúa, tội đó đáng bị đưa ra toà; khi ta mắng anh em là ngốc, là khùng, chửi anh em là quân phản đạo… là chúng ta xúc phạm đến chi thể của Chúa Giê-su, tức là xúc phạm đến chính Người, vì thế nên đáng bị vạ lửa địa ngục như Lời Chúa phán. Từ lâu nay, vì đánh giá thấp về người khác nên chúng ta cho rằng việc chửi mắng họ là chuyện thường tình. Nay Chúa Giê-su cho biết đó là một xúc phạm nặng đến phẩm giá cao cả của người khác, đồng thời cũng là xúc phạm đến Chúa nên phải bị luận phạt nặng nề.
Ngày nay “Người ta được nên công chính không do tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng do các việc làm mến Chúa yêu người” (x. Mt 5,48). Đó là tin vào Đức Giê-su và thực thi đức ái giống như Người, sẵn sàng yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Thánh Gio-an dạy: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu… Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 8.16). Trong cuộc sống, chúng ta cần thực hành điều quan trọng nhất là Đức Ái như thánh Au-gus-ti-nô dạy: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Đức Giê-su đã dạy các môn đề phải chứng tỏ thực sự thuộc về Đức Giê-su do thực hành giới răn yêu thương: “Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). «Không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,20-21; x. Gl 3,11). Sự công chính không hệ tại việc giữ luật lệ: «Nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích» (Gl 2, 21); mà do việc có đức ái hay tình thương đích thực ở trong lòng hay không. Vì sự công chính hay thánh thiện hệ tại việc mình có trở nên giống Thiên Chúa hay không, có Thiên Chúa ở trong mình hay không. Mà Thiên Chúa tự bản chất chính là tình yêu, là đức ái (x. 1Ga 4,8.16)
Có lẽ ngày nay nhiều tín hữu chúng ta cũng thường hãnh diện về các việc làm của mình như: “Giữ ngày Chúa Nhật”, đóng góp công sức tiền bạc cho việc chung, tham gia các sinh hoạt tông đồ giáo dân… Tuy nhiên việc đi lễ, sinh hoạt hội đoàn và đóng góp với Hội Thánh là do động lực nào? Rất có thể chúng ta cũng bị mắc thứ “bệnh kiêu ngạo” của người kinh sư và pha-ri-sêu khi làm mọi việc do động cơ tìm tiếng khen hơn là do lòng mến Chúa thôi thúc.
Những người Do thái chỉ giữ luật ở hình thức bên ngòai và họ chỉ dừng lại ở đó, rửa tay sạch, lau chùi chén dĩa, rửa các thức ăn mang từ chợ về. Còn Chúa Giêsu, Ngài khẳng khái khẳng định: “Không có cái gì từ bên ngòai vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Vì chính từ bên trong con người mà xuất phát ra những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngọai tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng…Như thế, giữ luật của Chúa là vì yêu mến chứ không phải vì sợ. Giữ luật để luật phục vụ cho con người. Luật bác ái yêu thương là đỉnh điểm của sự trọn lành.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình. Nói tóm lại, giữ luật là để biểu lộ tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng muốn cho chúng ta cũng được trở nên hoàn thiện như chính Người. Do đó, giữ luật là sống mối quan hệ yêu thương, chứ không phải là việc làm vì ép buộc.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN A (x. CN 9 năm B)
“Hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,44)
Bài đọc I (Lv 19,1-2.17-18) :
Sách Lêvi là một bộ sưu tập những khoản luật rất cổ xưa, trong đó các chương từ 17 đến 25 (đoạn được trích đọc hôm nay nằm trong phần này) được gọi là “Bộ luật về sự thánh thiện”. Vấn đề căn bản được đặt ra trong bộ luật này là: Thiên Chúa là thánh, con người là tội lỗi. Vậy làm thế nào con người tội lỗi như chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa thánh thiện được? Câu trả lời tuy rất đơn giản nhưng lại rất sâu sắc: Hãy sống yêu thương như chính Thiên Chúa đã yêu thương. Sách Lêvi diễn tả cuộc sống yêu thương theo hai phương diện: Phương diện tiêu cực là “ngươi sẽ không thù ghét anh em ngươi… “. Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Phương diện tích cực là “ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi”. Chúng ta hãy chú ý: đối tượng của lòng yêu thương là “anh em ngươi, con cái dân ngươi, đồng loại ngươi”. Những kiểu nói đó đều chỉ về dân Israel. Điều này có nghĩa là lòng yêu thương trong Cựu Ước còn giới hạn nơi những người Israel với nhau. Như vậy, nên thánh là sống yêu thương.
Thiên Chúa là Đấng rất mực yêu thương con người. Tình yêu đã thôi thúc Ngài thể hiện qua muôn ngàn cách dành cho con người. Ngài tạo dựng con người giống hình ành Ngài. Con người phản bội. Ngài vẫn thứ tha và hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lỗi lầm con người. Con người sa đi ngã lại trong lầm lỡ. Ngài vẫn chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Con người thì bất trung. Ngài thì trung thành mãi với tình yêu dành cho con người. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì vô bờ. Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Tin Mừng (Mt 5,38-48)
- Đức Giêsu đã nói ở phần đầu bài giảng trên núi là giáo huấn của Ngài hoàn thiện Luật cũ. Trong bài đọc I, chúng ta đã thấy Luật về sự thánh dạy phải yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa. Theo tinh thần Cựu Ước, người ta có quyền trả đũa “Mắt đền mắt, răng thế răng”. Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn. Theo tinh thần Cựu Ước, người ta chỉ yêu thương người đồng bào. Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì hãy yêu thương thù địch và lấy ơn để báo oán.
Lý do của lòng yêu thương bao la ấy là chúng ta phải noi gương Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, “Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương”. Như thế, giáo huấn về yêu thương của Đức Giêsu thể hiện đúng nguyên tắc mà Luật về sự thánh trong sách Lêvi đã đề ra: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh”. Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh. Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình. Càng yêu thương, càng thánh thiện.
- Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước. Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật). Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiên Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian. Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ. Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa. Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là :
Làm ơn cho kẻ ghét mình.
Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời. Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ. “Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Tại sao phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vở kịch, những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo- Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Người Do thái phải biết phân biệt ai là bạn, ai là thù. Lúc bị ngoại quốc cai trị, họ vẫn xem người ngoại quốc là kẻ thù, không vào nhà ngoại quốc sợ mình bị uế tạp. Họ chỉ biết có bà con thân nhân, đồng bào và khách ngụ cư trên đất họ. Vậy mà Chúa dạy : hãy yêu mến kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thu, nhu vậỳ thật đi ngược lại với đạo đức của Do thái. Nhưng lời Chúa dạy làm hoàn hảo luật Môsê. Lý do là hãy nhìn lên Thiên Chúa Cha: Chúa Cha ban mặt trời chiếu trên người lành và kẻ dữ, nghĩa là Người yêu mến kẻ lành cũng như kẻ dữ, không phân biệt đối xử. Chúa đưa ra một thí dụ đánh thẳng vào tâm lý người Do thái là những người cho mình hơn dân ngoại: hơn người tội lỗi thì đừng hành động như họ. Người nói: dân ngoại chỉ yêu mến kẻ mình yêu, kẻ tội lỗi cũng chỉ yêu mến những kẻ mến thương họ mà thôi. Nếu các con yêu thương các con thì các con khác gì dân ngoại, khác gì người tội lỗi.
Từ đó, Chúa kêu gọi mọi người : các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Lời kêu gọi này sách Lêvi (19,2) sách Đệ nhị luật (18,3) đã nói tới, bây giờ Chúa nhắc lại và chỉ cho chúng ta biết tiêu chuẩn nên trọn lành. Biệt phái và Luật sĩ cho sự trọn lành cốt tại giữ luật tỉ mỉ. Còn Chúa thì dạy sự trọn lành cốt đặt trên nền tảng đức bác ái. Cựu ước cũng có những khoản luật bác ái, như cho kẻ nghèo vay không lấy lời, trả lại áo choàng cho người cầm đỡ đồ mà họ không có tiền chuộc trước khi mặt trời lặn, xóa hết nợ nần trong năm tòan xá, không được ức hiếp người mồ côi, góa bụa. Những người giàu có đã vi phạm nhiều, nên các ngôn sứ tới tổ cáo tội lỗi kẻ giàu có, quyền thế. Tuy nhiên, nếu luật bác ái của Cựu Ước được thi hành đúng đắn thì vẫn thiếu sót. Phải có Chúa Kitô đến để luật Cựu ước tới mức hoàn hảo là thương mọi người kể cả kẻ thù như Chúa Cha đã thương.
Yêu cả kẻ thù: không giữ lòng thù hận, không nuôi hận thù trong lòng.
- Mắt đền mắt, răng thế răng
Đó là một điều khoản luật về luật công bằng tích cực, nhằm bảo vệ quyền bình đẳng giữa mọi con người, để giảm thiểu và ngăn chận các thái độ trả thù phục hận. Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21, 24) như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại: kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai); nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được hơn)… giống như luật “ăn miếng trả miếng” hay “có vay có trả”, nói như tục ngữ Việt Nam chúng ta. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. chẳng hạn hai đứa trẻ đánh nhau, kéo theo hai gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu; người này nói “Cha mầy” thì người kia đáp lại “Tổ tiên sư mầy”… Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh. Tức là mời gọi con người đừng mơ tưởng có thể giải đáp được công bằng với luật “ăn miếng trả miếng”, và đồng thời Người chỉ dạy cho con đường tình yêu, con đường này mới có thể dập tắt được bạo lực và làm phát sinh ra các mối tương quan hoà giải. Chúa Giêsu còn nhắc lại cho chúng ta trong kinh Lạy Cha, được Thánh Matthêu ghi lại: “Như chúng con cũng tha những kẻ có lỗi với chúng con.” ( Mt 6, 12)
- Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Khi người ta ghét kẻ thù và phẫn nộ, rốt cuộc người ta gây thiệt hại cho chính mình hơn là thiệt hại cho kẻ thù. Một tác giả giải thích câu nói đó như thế này:
Khi chúng ta oán ghét kẻ thù, chúng ta đã cho họ sức mạnh trên chúng ta – sức mạnh trên giấc ngủ… sức mạnh trên áp huyết máu, sức mạnh trên sức khoẻ và hạnh phúc của chúng ta.
Kẻ thù sẽ vui mừng nhảy múa khi biết rằng sự oán ghét đã xé nát chính chúng ta. Sự oán ghét không làm kẻ thù bị thiệt hại một chút nào. Nó chỉ biến những ngày và đêm của chúng ta trở nên một xáo trộn khủng khiếp.
Chúng ta có thể tóm lược sự giảng dậy của các bài đọc hôm nay với những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma: Đừng để sự dữ đánh bại anh chị em; thay vào đó, hãy chiến thắng sự dữ bằng sự thiện (12:21). Hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm điều tốt cho những ai ghét bỏ anh em,
hãy chúc lành cho những ai nguyền rủa anh em, và hãy cầu nguyện cho những ai xử tệ với anh em….Hãy thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót…Đừng kết án người khác, và Thiên Chúa sẽ không kết án anh em; hãy tha thứ cho người khác, và Thiên Chúa sẽ tha thứ cho anh em (Luca 6:27-28, 36-37)
Chúa Giêsu dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội…Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình: Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Ngài muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
- Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy “Hãy yêu thương kẻ thù”, như sau :
“Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em”, bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người” (Trích bởi Fiches dominuicales, Năm A, trang 201).
Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn thiện.
Nhưng tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa, và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa …
Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45).
- Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù, là mở ra con đường để người kia hoán cải. Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ tha. Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày Rửa tội. Chúng ta trở thành con Cha hơn nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày. Chúng ta thật là con, vì giống Cha, Đấng cho nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ. Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua, những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói. Cần nhìn lên Cha trên trời, Đấng để cho cỏ lùng mọc chung với lúa, Đấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày. Chỉ Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.
Robin Casarjian: “Khi tha thứ, bạn không còn lệ thuộc vào người đã làm bạn đau lòng”. Tha thứ kéo bạn ra khỏi sự giận dữ của người khác và cho phép bạn sống thanh thản.
Tóa án nhân dân tp. HCM xét xử vụ án Nguyễn Thị Thùy Trang (17 tuổi) mang án 8 năm tù về tội “giết người”), trong hai lần đến tòa xin giảm án, cô đều phải mang theo con. Và cũng từng ấy lần, cha mẹ của nạn nhân đều vượt hàng chục cây số để đến tòa, khẩn thiết xin Hội đồng xét xử giảm án cho cô ấy. “Lấy đại nghĩa đã thắng hung tàn, lấy trí nhân để thay cường bạo, xin tòa cứ lấy khía cạnh đó mà giảm án cho bị cáo…”, ông Nguyễn Trí chia sẻ với tòa. Cùng lúc đó, vợ ông trông con giúp cho Trang khi cô đứng trước vành móng ngựa. Câu chuyện về lòng vị tha của vợ chồng ông Trí làm lay động cả chốn pháp đình. Cô khóc như mưa khi được giảm án 1 năm tù nhờ tấm lòng nhân ái của cha mẹ nạn nhân. Bên hành lang phòng xử, mẹ con Trang lại khóc nức nở khi đón nhận tấm lòng của độc giả báo VnExpress.net giúp đỡ.( http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2011/02/khoanh-khac-dam-le-xin-giam-an-cho-ke-giet-nguoi/)
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian . . . Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
- Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không? Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
“Nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24) Câu này Chúa có dạy tôi phải nhất quyết tỏ thái độ, quyết tâm mở rộng lòng tha thứ cho tha nhân bằng việc làm.
Đoạn Phúc Âm Thánh Matthêu chúng ta đang suy niệm cũng không nên hiểu lầm, xem như là lời Chúa Giêsu tuyên bố để ủng hộ việc làm của kẻ gian manh, bạo lực. Bênh vực kẻ bé mọn, người yếu thế, kẻ bị đán áp, nạn nhân của bạo lực, bất công vẫn luôn luôn là một chương nói lên căn tính của người tín hữu Chúa Ki Tô. Có chăng vấn đề là người môn đệ Chúa Ki Tô đừng tự mình tạo nên phản ứng dây chuyền dẫn đến bạo lực thêm nữa, nhưng không thể bỏ rơi người bị áp bức, bị đối xử như nô lệ, súc vật, “mặc kệ họ”.
Sứ điệp hay Giáo huấn của Lời Chúa hôm nay là các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình. Yêu kẻ thù nên phải tha thứ cho họ và giúp họ thoát khỏi cách sống lầm lạc hay làm hại người khác. Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình để kẻ ấy được ơn thứ tha và không làm điều bất công, bất chính nữa mà quay về đường ngay nẻo chính của người lương thiện. Tha thứ vẫn là điều rất khó, hứa thì dễ nhưng thực hành đâu dễ. Giả như không có gương của Chúa GIÊSU, chúng ta không thể tha thứ được. Bị treo trên thập giá, Chúa vẫn tha thứ cho kẻ thù. Chúa lấy lòng từ ái mà đáp lại những kẻ đối xử tàn ác với ngài: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Khi tôi xây dựng ngục thất hận thù cho tha nhân, thì tôi biết mình không có yêu thương, tự mình làm khổ cho chính tâm hồn mình… Nếu tình yêu là nguồn sức sống, hận thù ghen ghét là nguồn sự chết, thì tại sao ta không thực hành Lời Chúa dạy cầu nguyện cho kẻ làm khổ đời ta, cầu nguyện không mất tiền mua, nhưng là một việc làm bác ái, Chúa Thánh Thân sẽ nâng đỡ ta, cho ta an bình; một ngày đẹp trời đến, tình yêu xóa bỏ hận thù… Ơn lành của Thiên Chúa không ban riêng cho mình ta, sự tha thứ của Chúa cũng không ban riêng cho mình ta. Ta được Chúa tha thứ thì ta phải chia sẻ sự tha thứ cho anh chị em chúng ta.
Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát, khiếp nhược,
sợ kẻ ác thắng thế khi thấy ta lùi bước.
Chúng ta ít dám tin vào sức mạnh của Tình Yêu.
Chính Tình Yêu chứ không phải bạo lực
mới có thể làm trái tim con người tan chảy.
Ðức Giêsu mời gọi ta yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù
để trở thành con cái Cha trên trời.
Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày Rửa tội.
Chúng ta trở thành con Cha hơn
nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày.
Chúng ta thật là con, vì giống Cha,
Ðấng cho nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ.
Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua,
những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói.
Cần nhìn lên Cha trên trời,
Ðấng để cho cỏ lùng mọc chung với luau,
Ðấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày.
Chỉ Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.
Thế giới hôm nay có nhiều sự ác và người ác.
Chúng ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện,
hoán cải người ác bằng tha thứ yêu thương.
Kitô hữu là người dám đi lại con đường của Ðức Giêsu,
chấp nhận bị sự ác vùi dập và nuốt chửng,
mà trên môi vẫn nói lời tha thứ.
Nhưng cuối cùng là phục sinh, là niềm vui, hy vọng.
Chúng ta có dám tin rằng rốt cuộc
chân lý, tình yêu và sự thiện sẽ chiến thắng không?
Để yêu thương tha nhân, phải đi đến nguồn gốc của tình yêu, phải nhìn tha nhân trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong tha nhân. Đạo Kitô giáo là đạo tình yêu. Cuộc đời của Thầy Chí Thánh Giêsu tại thế cho chúng ta gẫm suy thực hành.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN A (x. CN 28 năm B; 18, 19, 25, 26 năm C)
Anh em đừng lo lắng … Nhưng hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
BÀI ĐỌC I: Is 49,14-15
Xi-on từng nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi! “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.”
Tình thương của bậc sinh thành chỉ là hình bóng mờ nhạt tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu chúng ta đến nỗi chết thay cho chúng ta….Thánh Phao-lô nói: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Làm một với Ngài” (Rm 8,32).
Tin mừng:
- Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như nói về sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng cũng có thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu biết dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu chạy theo tôn thờ nó.
Thấy nhiều người tôn sùng đồng tiền, quý trọng tiền bạc đến nỗi mù quáng, coi tiền của như là chúa tể đời họ, nên Chúa Giêsu dạy cho họ bài học về chọn lựa, chọn Chúa hay chọn tiền của. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24). Tiền bạc chỉ có giá trị nếu được dùng đúng đắn, tức là khi chúng ta biết để nó nên như đứa đầy tớ, không để nó làm chủ chúng ta. Bởi vì tiền bạc có thể là đầy tớ tốt lành, nhưng lại là ông chủ rất độc tài ác nghiệt. Chúa biết rằng tiền của làm cho con người xa Chúa, khinh bỉ anh em đồng loại, che lấp những giá trị của Nước Trời. Vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18, 25). Có khi Chúa còn nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6, 24). Còn thánh Phaolô thì nói: “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong” (1Tm 6, 9).
- Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31: dụ ngôn người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo: “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó. Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ.. . Giá trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Nếu tiền của có thể là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một sức mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6, 17-18). Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Tiền bạc chỉ là phương tiện giúp ta sống tốt hoặc xấu, chỉ là dụng cụ giúp ta sống thỏai mái, sung sướng, tiện nghi, nhưng nó không phải là mục đích của cuộc đời, không phải là cứu cánh đời ta.
“Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu” (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu? Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn “người quản gia” với dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó” (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa. Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu. Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng “tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè”, bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.
- Là Kitô hữu thì chúng ta cần phải chọn lựa cách khôn ngoan. Chọn lựa là chấp nhận phải từ bỏ, người ta không thể “bắt cá hai tay”, không thể phục vụ hai chủ, cũng không được đặt Chúa ngang hàng với các thụ tạo. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa là phải từ bỏ tất cả như: tiền của, danh vọng, lạc thú, tiện nghi… Không được coi tình cảm gia đình hơn Chúa, không được coi tiền của vật chất hơn Chúa, cũng không được coi mạng sống mình hơn Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên trên tất cả mọi sự. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân, hơn danh vọng địa vị, hơn tiền của vật chất, hơn tiện nghi, hơn sự hưởng thụ và hơn cả mạng sống mình. Vì tiền của, danh vọng, lạc thú… không thể làm cho con người được hạnh phúc thật.
Muốn được hạnh phúc thật, chúng ta phải chọn Chúa làm chủ cuộc đời mình, chọn Chúa là gia nghiệp của mình, chọn Chúa làm cùng đích đời mình. Chúng ta luôn luôn tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Thiên Chúa là Đấng hằng yêu thương, che chở, gìn giữ cuộc đời mỗi người. Vì thế Chúa Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
- Thực ra, Đức Giê-su Ki-tô chỉ muốn cho người nghe hiểu là đừng lưu luyến những gì thuộc về thế gian, mà hãy khao khát những gì thuộc về Nước Thiên Chúa (“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” – Mt 6, 19-20). Nói khác hơn, Người muốn dạy cần phải coi tiền của chỉ là phương tiện để duy trì sự sống của con người ở trần thế, chớ không thể là cứu cánh đem lại hạnh phúc đích thực cho mai sau. Con người khi được Thiên Chúa trao cho quyền làm chủ trần thế (“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” – St 1, 28), thì cũng có nghĩa là phải làm chủ được bản thân, làm chủ được tiền của. Con người cần phải biết coi trọng bản thân – công trình tạo dựng của Thiên Chúa – coi tiền của chỉ là phương tiện để bảo dưỡng thân xác. Tuyệt đối không coi trọng tiền của như một ông chủ để biến mình thành nô lệ. Vâng, “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24).
Chính Thiên Chúa đã làm nên mọi sự. Chính Ngài sẽ quan phòng mọi sự nếu chúng ta biết bước đi theo đường lối của Ngài. Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trữ của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi. “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”
- Phó thác: Giá trị chim sẻ và huệ đồng không thể sánh với mạng sống con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Vì thế Đức Giê-su nói: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!”
Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách. Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết. Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ… Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: “Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!” (Mt 16, 26).
Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng những ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của những ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”. Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”. Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nỗ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày.
Bình tâm đọc cho hết bài TM sẽ thấy Đức Ki-tô chốt lại: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 34). Như vậy, Đức Ki-tô chỉ khuyên đừng lo lắng thái quá (“Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” – Mt 6, 27), bởi Người biết rõ con người khi quá lo lắng về sự gì (về của cải vật chất, chẳng hạn), thường tập trung tinh thần vào đó mà xao lãng những việc làm cần thiết khác (thu tích của cải Nước Trời). Vì thế, Người mới khuyên là hãy “Tin tưởng vào Chúa quan phòng” và lo “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 25-34).
Khởi đi từ bài đọc I ( Is 49, 14-15), chúng ta thấy , Thiên Chúa phán: “ Có người mẹ nào quên con thơ của mình….? Cho dù nàng có quên con mình đi nữa, thì Ta cũng không quên ngươi.” Bởi vì, cây cỏ ngoài đồng, tức là cây đồng cỏ nội, là vật nay còn mai mất, không có linh hồn, mà Thiên Chúa còn cho nó mặc đẹp hơn cả vua Salomon, huống chi là chúng ta, được Thiên Chúa nhận làm con, có nghĩa là chúng ta giống Thiên Chúa, thì lẽ nào Thiên Chúa bỏ quên chúng ta.
CHÚA NHẬT IX THƯỜNG NIÊN A (x. CN 31 năm A)
Xây trên nền đá
Bài đọc 1: (Đnl 11,18.26-28.32): “Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. “Đây ta đặt trước mặt các ngươi sự chúc lành và sự chúc dữ: nếu các ngươi tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi, thì các ngươi được chúc phúc; còn nếu các ngươi không tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi, thì sẽ bị chúc dữ”. Cũng như cha mẹ nói với đứa con đã trưởng thành: “Cha mẹ sẵn sàng lo cho con học hành đến nơi đến chốn. Nếu con chịu khó học hành thì sẽ có một tương lai tươi sáng. Còn nếu con cứ chơi bời lêu lỏng như hiện nay thì tương lai rất đáng lo ngại”. Vì chúng ta có tự do nên Thiên Chúa và cha mẹ không thể ép buộc ta được, nhưng các Ngài sẵn sàng giúp đỡ nếu ta chọn con đường tốt.
Tin mừng: Mt 7, 21- 27
- Thầy Giêsu dạy các môn đệ biết thế nào là xây đời mình trên đá. Đó là đem ra thực hành những lời Thầy dạy mà họ đang nghe trong Bài Giảng trên núi (Mt 5-7). Sống lời Thầy dạy là chọn đi vào con đường hẹp, ít người đi, với những thách đố và thiệt thòi, những hiểm nguy và nhục nhã. Chỉ ai dám sống như thế mới đứng vững khi dông bão bất ngờ ập tới. Lúc ấy người bị coi là ngu vì sống lời Thầy, mới lộ ra là người khôn. Vì lời của Thầy Giêsu diễn tả ý muốn của Cha trên trời, nên thi hành lời Thầy cũng là thi hành ý muốn của Cha. Đây là điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời, vì tuyên xưng trên môi Thầy Giêsu là Chúa, vẫn chưa đủ (c. 21).
Khi có người báo tin cho Chúa Giê-su: “Mẹ Thầy và anh em Thầy đứng ngoài muốn gặp Thầy”, Chúa Giêsu đáp: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” Và giang tay chỉ các môn đệ của Người, Người nói: “Đây là mẹ Ta, và đây là anh em Ta. Phàm ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy là anh chị em và là mẹ Ta.” (Mt 12, 4a-50). Qua những lời đó, Chúa Giê-su tán dương những người làm theo ý Chúa Cha như là anh chị em và là mẹ của Người. Một lần khác, đang khi Chúa Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Nhưng Người đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28). Qua những lời nầy, Chúa Giê-su khẳng định rằng ai lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa là người đại phúc! Hồng phúc đó còn lớn hơn cả diễm phúc cưu mang và nuôi dưỡng Người.
Thi hành ý Chúa là điều kiện duy nhất để được vào Nước Trời: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
- Những lời Chúa nói hôm nay khiến ta run sợ. Ngay cả những người làm được những việc phi thường như nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ cũng có thể bị loại ra khỏi Nước Trời. Ngay cả những người làm việc cho Chúa, cho Hội Thánh cũng có thể bị vào nơi khóc lóc nghiến răng. Tại sao thế?
Lý do thứ nhất: vì họ nói mà không làm. Điều này rất dễ xảy ra cho những ai có nhiệm vụ khuyên bảo dạy dỗ người khác. Cứ nghĩ người khác phải thực hành, còn mình được miễn. Chúa Giêsu gay gắt nên án điều này khi nói với dân chúng: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Hôm nay Chúa nhắc lại cho chúng ta: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”.
Lý do thứ hai: vì họ làm nhưng không có nền tảng. Có những người đã nói tiên tri, đã trừ quỷ, đã làm những việc phi thường, nhưng không được Chúa chấp nhận. Vì họ làm theo ý mình chứ không theo ý Chúa Cha. Làm không phải vì tình yêu mến thì dù những việc kinh thiên động địa cũng trở thành vô ích như Thánh Phaolô đã căn dặn chúng ta: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên Thần…, được ơn nói tiên tri…, có được đức tin chuyển núi rời non…, có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (x. 1Cr 13, 1-3). Thì ra những thứ bên ngoài mà thiên hạ cho là oai phong, là thánh thiện thì đối với Chúa, Chúa chỉ muốn nhìn thấy bên trong lòng mình. Hỡi ôi, người ta có thể “chuyển dời những quả núi” và “làm những phép lạ” mà không có lòng yêu thương như Thánh Phaolô nói thì những điều đó thật là vô ích.
- Sống đạo bằng cách đọc kinh, dự lễ rất đầy đủ và chuyên cần, nhưng Đức Giêsu đã nói “Không phải những ai thưa ‘Lạy Chúa lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời”. Đọc kinh dự lễ rất nhiều mà rốt cuộc không được vào Nước Trời, đó là xây nhà trên cát.
Chính vì điều quan trọng nhất là thi hành, cho nên có những kẻ đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ và làm nhiều phép lạ nhưng cũng không được vào Nước Trời, bởi vì họ tuy làm rất nhiều thứ nhưng lại không thi hành ý Chúa. Tri thức cần phải chuyển biến thành hành động. Lý thuyết cần đem vào thực hành. Thần học cần đưa vào cuộc sống. Một giáo dân thường biết áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống, canh tân theo tinh thần Tin Mừng thì có giá trị hơn nhà Thần học, nhà Thánh Kinh mà không sống Lời Chúa.
“Anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em; Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo – luật mang lại tự do -, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 21-25).
Trong cuộc sống đạo, nhiều khi chúng ta chỉ muốn áp dụng những lời nào có lợi ích và phù hợp với cách sống riêng của chúng ta. Chúng ta tránh hoặc không muốn lắng nghe những lời khuyên dạy xem ra khó áp dụng: Khi Chúa Giêsu công khai ra giảng dạy, Chúa đã kêu gọi mọi người hãy sám hối và tin vào tin mừng (x. Mt 3, 2), chúng con nghe nhiều lần lắm rồi nhưng chẳng quan tâm vì nghĩ rằng chỉ những tội nhân mới cần sám hối. Chúa Giêsu lại kêu gọi: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,29), chúng ta lại thích tự cao tự đại và muốn cai trị hơn là phục vụ. Ai không vác thánh giá mà theo Chúa, không xứng đáng là môn đệ của Chúa (x. Lk 14,27), chúng con muốn mang danh Kitô hữu nhưng chúng con lại muốn thong dong và không muốn vác thánh giá nặng nề đi theo Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhưng chúng ta thường hay bê trễ và ươn lười. Chúa dạy chúng ta hãy vào nơi kín đáo, đóng cửa phòng cầu nguyện (x. Mt 6,6), chúng ta lại thích cầu nguyện công khai và muốn mọi người nhìn thấy. Chúa dạy chúng ta rằng khi cầu nguyện không cần nhiều lời vì Cha của chúng ta trên trời thấu tỏ mọi sự (x. Mt 6,7), trong khi chúng ta đọc hết kinh này đến kinh khác và cầu xin nhiều điều mà lòng chúng ta lại xa Chúa. Chúa muốn chúng ta phải kiên tâm cầu nguyện, chúng ta lại chóng chán nản khi xin hoài không được. Chúa dạy rằng hãy cầu nguyện luôn kẻo xa chước cám dỗ (x. Mt 26,41), chúng ta chỉ cầu khi chúng ta cần ơn gì thôi còn chước cám dỗ chúng ta chẳng màng. Đôi khi chúng ta còn tạo cơ hội cho những cơn cám dỗ đi vào đời ta. Chúa dạy chúng ta yêu thương anh em và cả kẻ thù (x. Mt 5,44), chúng ta mới giữ được có một nửa là chỉ yêu anh em mình. Chúa dạy chúng ta rằng có nói có, không nói không (x. Mt 5,37), chúng ta lại xào xáo, lật lọng đổi thay, tự lừa dối mình và dối người. Chúa nói với chúng ta đừng đoán xét để khỏi bị xét đoán (x. Lk 6,37), chúng ta không những xét đoán mà còn kết án vội vàng khi chưa tìm hiểu sự thật. Chúa dậy chúng ta đừng thề chi cả (x. Mt 5,34), chúng ta nói dối như cuội mà còn thề thốt đủ điều. Chúa dậy chúng ta làm hòa và tha thứ cho anh em (x. Mt 6,14), chúng ta thường bắt lỗi và ghét bỏ anh em mình. Chúa khuyên dạy chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng Trọn Lành (x. Mt 5,48), chúng ta chỉ muốn được người ta khen là tốt lành và thánh thiện thôi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy sống thật với lòng mình. Chúa thấu tỏ mọi sự kín nhiệm trong lòng chúng ta. Chúng ta đang xây nhà của mình trên đá hay trên nền cát dễ bị trôi cuốn. Mỗi người chúng ta tự trả lời về mình trước mặt Chúa. Có lẽ chúng ta phải tự nhận ra rằng mình chỉ tin đạo, giữ đạo, sống đạo nhưng lại hành đạo rất hời hợt. Chúng ta còn câu nệ hình thức như là chu toàn bổn phận đọc kinh, dự lễ, lãnh nhận các bí tích cho yên trí, nhưng không có đời sống nội tâm thật sự: Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (x. Mt15,8). Chúng ta đừng cậy dựa vào sự đánh giá của người khác và cũng đừng tự phong cho mình là người đạo đức. Chúa Giêsu đã dùng những lời trách nặng với những người chỉ chuộng hình thức bề ngoài. Chúa ví họ như những mồ mả tô vôi bên ngoài, còn bên trong đầy xương xẩu hôi thối (x. Mt 23,27). Vượt qua những hình thức biểu lộ bên ngoài, chúng ta phải phấn đấu nội tâm mỗi ngày để nên trọn lành trước mặt Chúa.
Đây cũng là một nhận xét đáng cho chúng ta suy nghĩ: Có đạo, nhưng cũng trộm cắp và gian tham, thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng thù hận, bỏ vạ và cáo gian thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng bê bối chuyện gia đình và phản bội trong tình yêu, thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng rượu chè say sưa đến độ không còn giữ được nhân cách của mình, hay cờ bạc khiến cho vợ con phải nheo nhóc, thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi.
Đeo ảnh, đi nhà thờ, làm dấu thánh giá… đó là những điều tốt, nhưng mới chỉ là những dấu hiệu bên ngoài, những nhãn hiệu trình tòa mà thôi. Muốn trở nên người Kitô hữu thứ thiệt, người Kitô hữu 100% thì việc làm phải đi đôi với lời nói và lời nói phải đi đôi với tư tưởng, có nghĩa là bên ngoài cũng như bên trong phải là một, bằng cách sống Lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Thánh Yoan nói: “Ai bảo mình biết Chúa Yêsu mà không giữ lệnh truyền của Người, thì là kẻ nói láo” (1Ga 2, 3-6). Lời ấy có thể giải thích vì sao “trong ngày ấy nhiều kẻ nói với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa… mà sẽ bị Ta tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi”. Do đó, giữ đạo không phải chỉ là đọc kinh xem lễ, nhưng nhất là lắng nghe Lời Chúa và thi hành Ý Người. Chính Người đã phán: chỉ những ai làm như vậy mới là mẹ, là anh, là em của Người, nghĩa là mới có tình nghĩa với Người và mới có đức bác ái.
- Bài đọc 2: Bởi Tin Chứ Không Phải Bởi Việc Làm Luật Dạy
Đọc qua, chúng ta có thể tưởng Phaolô không nhất trí với sách Thứ luật và Tin Mừng Matthêô. Người nghĩ rằng “con người mà được giải án tuyên công (= được công chính hóa) ấy là bởi tin, chứ không phải bởi việc làm Luật dạy”. Do đó người Tin Lành thường nói: chúng ta được rỗi chỉ nhờ lòng tin. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm phân biệt hai giai đoạn trong cuộc đời của người tín hữu: lúc họ đi từ nơi tối tăm sang nơi ánh sáng, tức là từ tình trạng tội lỗi được trở nên công chính; và cuộc đời từ đó trở đi. Ở đây thánh Phaolô muốn nói đến giai đoạn thứ nhất, lúc con người được công chính hóa, nghĩa là được tha thứ tội lỗi để nên thánh thiện, được giải án là con cái của lôi đình giận dữ để được tuyên bố là con cái của ân sủng và tình thương. Điều này không tùy vào luật nào hay việc nào, nhưng hoàn toàn chỉ nhờ bởi tin vào Đức Yêsu Kitô, Đấng mà Thiên Chúa đã bày ra trước mắt thiên hạ như phương xá tội. Chỉ nhờ ơn Người, nhờ việc cứu chuộc trong Máu Người mà mọi kẻ tin đều được công chính hóa.
Đàng khác, “tin” đối với thánh Phaolô không chỉ là một hoạt động của trí tuệ chấp nhận chân lý, nhưng tự bản chất là một hoạt động của cơ thể con người hiến thân cho mạc khải cứu độ của Thiên Chúa. “Tin” như vậy chính là “yêu”, và yêu không chỉ ở trong tư tưởng nhưng là dấn thân và hành động. Người ta tin Phúc Âm thì vâng lời Phúc Âm; và người ta tin Chúa thì phải giữ lệnh Người truyền.
Phaolô và Matthêô không nói khác nhau như thoạt đầu chúng ta tưởng. Phaolô nói đến hành vi vào đạo; đang khi Matthêô nói với một cộng đoàn đã có đạo. Nhưng trong tư tưởng của cả hai tác giả, tin vẫn là dấn thân cũng như không được kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà không giữ lệnh Người truyền. Phaolô phi bác giá trị của các việc Luật dạy làm, khi người ta quả quyết chúng có thể giải án tuyên công, tức là cứu chuộc con người ra khỏi tội lỗi. Vì như vậy mầu nhiệm Chúa Yêsu Kitô và việc Người hy tế sự sống mình trở nên vô ích. Còn Matthêô lại nói đến các việc làm mà đức tin đòi buộc để chứng tỏ đức tin chân thật. Phụng vụ hôm nay đọc cho chúng ta nghe lời của cả hai tác giả để chúng ta có một cái nhìn đầy đủ và hàng ngày biết sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu.
Ngay trong giờ phút này, chúng ta cử hành Thánh lễ. Đức tin cần thiết biết bao! Vì chính đây là mầu nhiệm đức tin. Không tin ở lời toàn năng biến đổi bánh rượu nên Mình Máu Chúa, chúng ta không có Bí tích tình yêu ở giữa chúng ta. Chúng ta không tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh của Chúa. Chúng ta không được thêm ơn cứu độ. Nhưng khi đức tin làm cho chúng ta biết nhìn nhận và lãnh nhận Mình Máu Chúa trong mầu nhiệm cứu thế này thì đức tin đồng thời đòi hỏi chúng ta phải chết đi cho con người cũ và sống cho con người mới. Không như vậy làm sao có thể nói tham dự vào mầu nhiệm Chúa chết và sống lại? Và khi đã tham dự vào Bí tích biến đổi như thế, ai nghĩ rằng mình có thể trở về mà cứ sống như trước đây? Hay là tất cả chúng ta đều thấy “lễ xong” chúng ta phải ra về để thi hành Lời Chúa và Luật Chúa? Đời sống Kitô hữu không phải là thực thi lệnh truyền của Chúa hay sao? Và như vậy là vì đã phát xuất từ niềm tin và luôn được niềm tin nâng đỡ. Vì thế, chúng ta hãy tin và hãy làm như Lời Chúa hôm nay dạy bảo.
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN A
Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế
Bài đọc 1: Hs 6, 3b-6
Trong lịch sử thánh, Hôsê được xem là “Ngôn sứ của lòng nhân ái”. Hình ảnh Hôsê vâng lời Giavê cưới cô gái điếm Gôme làm vợ và dù cô gái này tuy có chồng con đề huề nhưng chứng nào tật ấy, ngựa quen đường cũ, vẫn không làm Hôsê nản chí, căm hận. Trái lại, ông không ngừng lên đường tìm kiếm và ra sức làm việc để có tiền chuộc người vợ hoang đàng này về, không ngừng tha thứ và hết mực yêu thương nàng (x. Hs 1,2;3). Đây là hình ảnh thật đẹp và cảm động diễn tả cuộc hôn phối giữa Thiên Chúa với dân Israel. Tin mừng hôm nay cũng cho thấy Chúa Giêsu trong hành trình rao giảng của mình, cũng không ngừng ra đi, đến với người tội lỗi, đồng bàn với họ, kêu mời họ gia nhập bàn tiệc nước Trời.
Hôsê, vị tiên tri đầu tiên đã lấy hình ảnh hôn nhân để diễn tả mối liên hệ chân tình giữa Giavê Thiên Chúa với dân Israen. Tấn thảm kịch trong gia đình Hôsê đã trở nên bức họa tiên tri, mô phỏng cách cư xử của Giavê đối với dân Ngài chọn. Đó là nội dung chính yếu trong lời rao giảng của vị ngôn sứ: Thiên Chúa đã cưới Israen, nhưng dân này lại phản bội, ăn ở như một người vợ bất trung, bán mình cho các thần ngoại như một con điếm. Giavê không chấp nhận việc kẻ Ngài thương lại đi dan díu với kẻ khác như vậy. Ngài ra tay nghiêm trị, để cho họ bị ngoại bang bóc lột và bêu xấu. Nhưng sự trừng trị ấy là để cứu vớt và chữa lành. Thiên Chúa vẫn mến thương dân Israen. Ngài trông chờ họ hồi tâm hối cải để ban lại niềm vui và hạnh phúc của thuở ban đầu. Nét đặc thù trong sách tiên tri Hôsê là lời kêu gọi về một tôn giáo của tấm lòng hay con tim. Lòng thương xót, sự nhân ái, niềm tín trung là những gì Thiên Chúa trông chờ. Ngài muốn tình yêu chứ không muốn lễ nghi hiến tế vô hồn. Ngài mong được mọi người nhận biết tình Ngài thương yêu chứ không ham thích gì của lễ toàn thiêu. Nội dung đó được Đức Giêsu làm sáng tỏ hơn trong Tân ước.
Tin mừng: Mc 9, 9-13
- “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần… Ta cần lòng nhân chứ đâu cần lễ tế”. Câu trả lời của Chúa Giêsu tái khẳng định với họ về điều mà từ xa xưa Giavê Thiên Chúa đã từng thực hiện với dân của Người. Theo đó, dân Dothái được xem như cô vợ bất kham, ngoại tình và tội lỗi, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương, kiếm tìm, tha thứ và yêu thương. Rõ ràng tình yêu thương, lòng khoan dung tha thứ, không ngừng viếng thăm những người tội lỗi được xem là đường lối của Thiên Chúa có từ xa xưa và nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cổ xúy và hoàn thiện đường lối này.
Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế”, Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương. Chúa Giêsu không tìm lối biện minh thái độ của mình bằng cách nại đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, là Đấng thích tội nhân ăn năn hoán cải hơn là cứng đầu chẳng chịu sám hối. Do đó Biệt phái không khiển trách Chúa Giêsu đã hoán cải tội nhân, cho bằng trách Người đã dùng các phương pháp xem ra coi thường các qui định về nghi lễ. Họ không chịu được cảnh Người hòa đồng với tội nhân đến độ đặt mình vào tình thế nhiễm lây sự ô uế chiếu luật của những hạng này. Vì vậy Chúa Giêsu mời họ đọc lại ngôn sứ Hôsê, kẻ từng khiển trách Israel là đã tỉ mỉ tuân giữ các quy định nghi lễ trong lúc lại phạm nhiều bất công xã hội tầy trời. Trước cảnh đó, Hôsê đã đặt vào miệng Giavê lời khẳng định này: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy tế”, nghĩa là muốn một tình yêu chân thành đối với tha nhân chứ không phải là các nghi lễ. Thành thử qua lời trích dẫn Hôsê, Chúa Giêsu cho Biệt phái thấy rằng: khi lưu tâm đến kẻ tội lỗi, Người chỉ thực thi tình yêu mến tha nhân, là thứ tình yêu phải được đặt lên “trên mọi quy định về trong sạch chiếu luật – điều mà người biệt phái không làm. Lòng trung thành bên ngoài với Lề luật của họ đã dẫn họ đến chỗ khinh miệt tha nhân vậy.
Thiên Chúa cũng có mặt đúng lúc, Ngài cảm thông, bao dung đối với dân ngỗ nghịch phản bội lại Ngài. Ngài luôn luôn đi bước trước, không đợi con người phải đến với Ngài trước, nhưng chính Ngài đã tìm kiếm con người. Thiên Chúa không muốn con người hư đi, nhưng muốn con người ăn năn và quay trở lại với Ngài. Ngài muốn con người sống đạo tình thương, sống chân tình, cảm thông, tha thứ, đối xử với Ngài như tình nghĩa Cha con, chứ không chỉ là bề ngoài với những lễ vật, cúng kiếng, với những kinh kệ ê a đầu môi chóp lưỡi (x. Hôsê 6, 3b -6). Đã xa rồi và lỗi thời, khi người ta coi Thiên Chúa như Đấng nghiêm khắc, giáng phạt hơn là thi ân. Đã lỗi thời rồi, khi ta coi Thiên Chúa như một Đấng trên cao, hay ghen, đầy căm phẫn hơn là thương xót. Thiên Chúa của đạo là Thiên Chúa tình thương.
- Đạo của Chúa Giêsu là đạo của tình thương hay đạo của tấm lòng. Thiếu con tim chân thành người ta không thể tiếp cận hay đi hết nẻo đường của Đạo. Một con tim nhân ái sẽ biết vươn tới với những tâm hồn khổ đau đang khao khát yêu thương. Ðể mạc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Bài tin mừng hôm nay đã ghi lại rằng: khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêu. Ngài đã kêu gọi ông và cho ông nhập vào số các tông đồ của Ngài. Là một người thu thuế, mặc nhiên Matthêu là kẻ thù của những người Do thái thời đó. Trước hết là vì những người thu thuế thường lạm dụng nghề nghiệp để làm giàu cho chính mình. Và thứ hai là cộng tác với quân ngoại xâm để bóc lột chính đồng bào, đồng chủng của mình.
Tình thương được diễn tả qua Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa được Chúa Cha sai tới trần gian, gánh tội nhân loại, chịu chết trên thập hình tự giá để giải thoát con người, giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và thánh hóa nhân loại.Tin vào Chúa, cậy trông vào tình thương vô biên của Ngài sẽ được công chính hoá vì Chúa đã chạnh lòng xót thương những ai tin tưởng nơi Ngài Gương của tổ phụ Abraham luôn là đuốc sáng cho mọi người vững tin vào Chúa vì Ngài luôn giữ lời hứa và ban niềm hạnh phúc cho những ai có lòng tin vững chắc ( Rm 4, 18 – 25 ).
Vì có nhiều người tự cho mình là đạo đức và chê bai người khác là tội lỗi, không đáng để họ tiếp xúc và làm bạn và đồng thời chê trách Chúa Giêsu là người được mọi người quý trọng, là bậc thánh mà lại thích ăn uống với người tội lỗi, nên Chúa Giêsu mới tuyên bố: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. Sự công chính chỉ có được là nhờ Đức Giêsu Kitô mà thôi. Đừng nghĩ rằng mình thực hành một vài điều tốt là đã trở nên công chính đâu, nhưng là nhờ vào hồng ân của Chúa. Điều này giúp chúng ta luôn luôn sống khiêm nhường và luôn nhận mình là bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa và anh em để đón nhận không ngừng lòng thương xót vô biên của Ngài. Kiêu ngạo là đầu mối của mọi sự dữ. Kiêu ngạo thiêng liêng là tự dẫn đưa mình vào chốn diệt vong. Vì kiêu ngạo mà ma quỷ đã phải sống trong cảnh khổ cực suốt đời. Chúng ta là gì so với ma quỷ là những kẻ đã được chầu chực và chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa trên trời, nhưng bây giờ nó thế nào chúng ta cũng đã rõ. Chúng đi khắp tứ phương thiên hạ để thâu thập nhiều linh hồn vào chốn khổ cực như chúng.
Như vậy, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi của đạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho họ một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác.
Chúng ta đọc kinh, dâng lễ, ngắm đàng thánh giá, lần hạt mân côi, ăn chay. tốt lắm, nhưng nếu không có lòng bác ái yêu thương thì vẫn chưa đủ, vẫn thiếu sót, nhất là thể hiện tình yêu thương đối với những người yếu đuối, lầm lỡ, tội lỗi. Chúa Giêsu luôn có cái nhìn tích cực về mọi người; hơn nữa, Chúa đã hòa mình với mọi người để đưa mọi người về với Chúa. Chúng ta hãy noi gương Chúa. Xin Chúa cho chúng ta luôn có cái nhìn tích cực về mọi người để khám phá những điểm hay, điểm đẹp, điểm tốt nơi họ; và cũng xin Chúa cho chúng ta biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương trong mọi hoàn cảnh.
- Trái với thái độ nhân từ của Chúa Giêsu là thái độ nghiêm khắc của những người biệt phái. Họ nghiêm khắc với ông Lêvi, một người bị liệt vào hàng tội lỗi. Ðối với họ, những kẻ tội lỗi không đáng được Thiên Chúa yêu thương. Hơn thế nữa, những kẻ tội lỗi chính là thủ phạm đã kéo cơn giận của Thiên Chúa xuống. Họ có lý của họ, vì cách xử sự của Đức Giê-su trái với truyền thống của tiền nhân. Truyền thống này dựa trên lời của sách Dân số: “Chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt với tất cả tội lỗi của họ” (Ds 16, 26). Những người biệt phái cũng không tin vào khả năng hoán cải của những kẻ tội lỗi. Ðối với họ, sẽ không có con đường nào khác mở ra cho những con người này. Kẻ tội lỗi sẽ phải chết trong tội lỗi của mình. Không chỉ nghiêm khắc với những người tội lỗi, người biệt phái còn nghiêm khắc cả với Chúa Giêsu nữa. Họ không chấp nhận việc Chúa Giêsu hòa đồng với bọn tội lỗi đến độ liều lĩnh đặt mình vào nguy cơ lây nhiễm sự ô uế của bọn tội lỗi ấy. “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,19).
Quan điểm của những người Pha-ri-sêu ngược hẳn với quan điểm của Ðức Giê-su: Người Pha-ri-sêu coi khinh, xa lánh và lên án những người thu thuế và tội lỗi, trong khi Ðức Giê-su lại yêu thương, gần gũi, kết thân, bênh vực và cứu vớt họ. Người Pha-ri-sêu xét đoán theo bên ngoài và dựa vào lề luật trong khi Ðức Giê-su nhìn thấu tâm can con người và dựa vào Tình Yêu Thương Cứu Ðộ của Thiên Chúa. Hai quan điểm xa nhau một trời một vực là thế! Và ngôn sứ Hô-sê đã khuyên chúng ta phải tìm biết Thiên Chúa và đón nhận quan điểm của Người.
Nhưng theo Đức Giê-su, đạo đức hay thánh thiện hệ tại tình yêu đích thực mà con người có đối với tha nhân, chứ không hệ tại việc giữ cho trọn vẹn các điều khoản trong lề luật. Vì thế, trước mặt Đức Giê-su, các kinh sư hay Pha-ri-siêu tuy giữ lề luật rất trọn vẹn nhưng không có tình yêu, thì không đạo đức và thánh thiện bằng những kẻ bị coi là tội lỗi, nhưng biết tin vào Ngài và hành động theo sự đòi hỏi của tình yêu. Ngài đã từng nói với các kinh sư và Pha-ri-siêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế (Lc 18, 9-14) cho thấy Đức Giê-su đánh giá người bị coi là tội lỗi nhưng khiêm nhường và đối xử với mọi người có tình có nghĩa thì công chính hay đạo đức hơn người giữ luật nghiêm chỉnh, làm nhiều việc tốt, nhưng lại kiêu ngạo và sống thiếu tình nghĩa. Thiết tưởng ở đây cũng nên nhắc lại lời của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô I (1912-1978): “Trên thiên đàng không thiếu những phần tử đĩ điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa ngục có cả những hồng y giám mục, nhưng không có người khiêm nhường”. Quả thật trong xã hội ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên thần, hoặc làm được rất nhiều việc phúc đức như những vị thánh, nhưng họ lại kiêu ngạo và tự hào không kém gì ma quỉ. Theo quan điểm của Đức Giê-su, họ không phải là đối tượng của Nước Trời.
Câu “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài đặt tình yêu đối với tha nhân quan trọng hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa. Câu “nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 6,23-24) cũng nói lên quan điểm tương tự. Đây là quan điểm của Tân ước, rất khác với quan điểm của Cựu ước. Đối với Ngài, điều răn quan trọng nhất được Ngài biến thành mới mẻ là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Và tình yêu đối với tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt môn đệ của Ngài (Tân ước) với môn đệ của Mô-sê (Cựu ước): “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
Chúa đã nhiều lần tuyên bố : “Tôi đến trần gian không phải vì người công chính nhưng vì người tội lỗi”, “Tôi đến không phải để kết án nhưng để bênh đỡ”, “Tôi đến không phải để trói buộc nhưng để cởi mở”, “Tôi đến để kiếm tìm chứ không phải để lẩn trốn chạy thoát”, “Tôi đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời tuyên bố đó có nghĩa là: chính vì những người tội lỗi mà Chúa nhập thể bỏ trời xuống thế, chính vì họ mà Chúa được sai đến trần gian. Vậy muốn giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và muốn cứu những người tội lỗi thì phải đến và tiếp xúc với họ, cũng như không có thầy thuốc hay bác sĩ nào có thể chữa bệnh nếu bệnh nhân không đến với ông ta hoặc ông ta không đến và tiếp xúc với bệnh nhân, hoặc như người mất chiên, mất tiền, nếu không đi tìm thì làm sao thấy lại được.
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). “Ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu” không phải là giữ lề luật hay các nghi thức lễ lạy kỹ hơn họ, mà là phải có tình yêu nhiều hơn họ, nghĩa là trong cách đối xử với tha nhân phải có tình có nghĩa hơn họ. Rất mong mọi Ki-tô hữu đều ý thức điểm này.
Ở cả hai cương vị thầy thuốc và Đấng Cứu Chuộc này thì lòng NHÂN TỪ là cao điểm, nghĩa là Thiên Chúa thương xót để chúng ta được cảm hóa, Thiên Chúa tha thứ để chúng ta được trở về, Thiên Chúa quan tâm để chúng ta được bảo vệ, Thiên Chúa kiên nhẫn để chúng ta được cứu độ. Nghĩa là dù chúng ta thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương, vẫn không ngừng theo đuổi, vẫn không chịu đầu hàng. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc đời để chúng ta trở về và được cứu độ.
- Chúa là Đấng thấu suốt tận tâm can, nên Ngài sẽ đánh giá mỗi người theo những tình cảm và thiện chí tự bên trong. Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường đánh giá theo những ghi nhận từ bên ngoài. Vì thế, sự đánh giá của chúng ta vốn thường phiến diện và sai lạc. Điều cần phải nghiêm khắc, đó là hãy nghiêm khắc đối với chính bản thân mình, bởi vì bản thân chúng ta cũng đã chất chứa nhiều sai lỗi, nhiều khuyết điểm. Chúng ta nên đấm ngực mình mà rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Trước nhan Thiên Chúa mọi người đều là tội nhân. Người Kitô hữu chân chính không phải là người tốt hơn những người khác, nhưng là người ý thức mình tội lỗi và muốn đến gần Chúa Giêsu để được chữa lành. Chúa Giêsu đến trong thế gian để kêu gọi và chữa lành tất cả mọi người trong đó có chúng ta. Do đó, chúng ta đừng ảo tưởng về sự thánh thiện cũng như đừng thất vọng về tội lỗi của mình. Cả hai điều ấy sẽ ngăn cản chúng ta đón nhận ơn tha thứ và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, nếu như Thiên Chúa không chấp tội, không đóng đinh bất cứ ai trong những lỗi lầm mà họ đã vấp phải, trái lại, Người tin vào khả năng đổi đời của tất cả mọi người thì chúng ta không có lý do gì để khóa chặt cuộc đời người khác trong tội lỗi của họ và cho rằng họ là đồ bỏ đi, là đồ hết xài. Sự đối xử nhân từ với tha nhân chính là chìa khóa mở cửa Nước Trời cho chúng ta.
Giống như những người Biệt phái, Chúng ta tự cho mình là công chính, đạo đức và có quyền phán xét người khác. Chúng ta bình phẩm, phê phán những khuyết điểm nhỏ của anh chị em. Chúng ta dễ có thái độ là khinh chê người này, coi thường người kia, hay nói một cách khác, chúng ta xa lánh những người mà chúng ta cho là tội lỗi, không xứng đáng với chúng ta. Trong khi đó, chưa hề một lần, chúng ta tự ngồi lại để xem xét chính con người của mình. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Vậy ai nấy hãy hạch sách lấy mình, và bấy giờ sẽ có lý mà vinh vang, mình đọ với mình, chứ không đọ với ai khác” (Gl 6, 4).
Nếu chúng ta nghĩ rằng mình mạnh khoẻ, công chính như những người Biệt phái trong bài Tin mừng hôm nay, chắc hẳn, chúng ta sẽ không cần đến thầy thuốc, nghĩa là không cần đến Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Nhưng một thực tế, là mỗi người chúng ta đều có tội, nghĩa là đang mang bệnh. Do đó, nếu không có thầy thuốc là Đức Giêsu, không sớm thì muộn, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi của chính chúng ta (x. Ga 9, 41). Chính niềm tin vào Thiên Chúa là phương thuốc hữu hiệu nhất giúp chúng ta được chữa lành, được công chính hoá, như lời xác quyết của thánh Phaolô khi nói về tổ phụ Abraham: “Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa, trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa,…. Bởi đó, “việc đó đã được kể cho ông là sự công chính” (Rm 4, 20. 22).
- Cái mù tối của nhóm Biệt Phái là không nhận họ có tội, họ luôn nghĩ họ là công chính, họ không cần đến tình thương của Thiên Chúa, đã thế khi Chúa thi thố tình thương của Ngài cho ai thì họ lại chất vấn, tức tối, bất mãn. Biết đâu đấy cũng là cái nguy hiểm của chúng ta khi mình tự mãn, tự tôn, tự cho mình công chính, không cần đến Thiên Chúa. Chẳng ai vô tội trước một Thiên Chúa rất thánh thiện và trong sạch. Chẳng ai xứng đáng để tự mãn, tự tôn.
- Suy nghĩ về các Tông đồ, ta không hiểu tại sao Chúa chọn Phêrô làm Giáo hoàng trong khi ông ít học, lại có nhiều khuyết điểm và nhất là đã phạm tội chối Chúa. Cũng như hôm nay, việc Chúa gọi Matthêu khiến nhiều người ngỡ ngàng. Matthêu là người thu thuế. Ơn gọi quả thật là một mầu nhiệm. Đó là mầu nhiệm tình yêu. Chúa chọn một người không phải người đó xứng đáng. Chúa chọn con người vì lòng yêu thương của Người. Tình yêu của Chúa là tình yêu quan tâm. Chúa quan tâm tới từng người, kể cả người tội lỗi. Qua các dụ ngôn “con chiên lạc”, “đồng bạc đánh mất”, ta thấy Chúa quan tâm tới cả những người bé nhỏ nghèo hèn, đi tìm một con chiên bé bỏng lạc mất, đốt đèn quét nhà vì một đồng tiền chẳng có bao nhiêu giá trị. Sự quan tâm khiến Chúa nhìn lên cây sung tìm kiếm ông Giakêu. Sự quan tâm khiến Chúa để mắt nhìn ông Matthêu, dù ông đang ngồi tại bàn thu thuế, nơi mà người Do thái không bao giờ thèm ghé mắt nhìn. Chúa biết rõ người ta yếu đuối hay sa ngã. Nhưng tình yêu Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của con người. Ân sủng Chúa lớn lao hơn sự dữ của tội lỗi. Lòng thương xót Chúa lớn lao hơn trí tưởng tượng của con người. Nên Chúa có thể tha thứ tất cả. Cả những người bị đồng loại kết án vẫn nằm trong trái tim Thiên Chúa. Nên Chúa đã tha thứ cho Matthêu dù ông chưa bao giờ xin lỗi Chúa. Tình yêu Chúa cho ta cơ hội mới để làm lại cuộc đời. Hôm nay Chúa cũng đang quan tâm tới mỗi người. Chúa nhìn ta. Chúa tin tưởng ta. Chúa trao vào tay ta một tương lai mới. Chỉ cần ta đóng lại cánh cửa quá khứ và sống theo lời Người, ta sẽ bắt đầu đổi mới cuộc đời. Lạy Chúa con tin Chúa yêu thương con. Xin cho con nhận biết tình yêu của Chúa.
Thiên Chúa có một tình yêu riêng cho mỗi người trong chúng ta, một kế hoạch cho cuộc đời của mỗi người, một lời mời gọi cho từng cá nhân. Ta có thể cảm nhận điều đó trong lòng qua ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, qua một số tình huống nào đó, hoặc qua một lời khuyên của ai đó quan tâm đến ta. Cho dù cách thế thể hiện có khác nhau, nhưng sứ điệp của Người đều đồng thanh lên tiếng: “Hãy theo tôi”. Chúa không để ý nhiều đến quá khứ của chúng ta mà để ý đến tương lai. Người không để ý đến những gì chúng ta đang có nhưng những gì chúng ta có thể. Người không để ý đến khả năng của chúng ta nhưng lưu ý đến sự sẵn sàng của chúng ta. Sau cùng, nó nói với chúng ta rằng mỗi một người là một ứng viên được Chúa Giêsu mời gọi để làm việc với Người trong một phương cách đặc biệt để loan truyền Nước Trời ở trần gian. Chúng ta có đáp trả lời mời ấy hay không là một vấn đề khác.
Chúa Giêsu đến cứu vớt tất cả mọi người. Ai cũng có chỗ trong con tim Người và có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Vấn đề là họ đừng tự đắc cho mình là công chính, có quyền đòi hỏi Thiên Chúa cứu rỗi, song là chân thành thống hối, từ giã quá khứ tội lỗi để bước đi theo Chúa Giêsu. Như thế, dầu xưa kia họ đã thuộc hạng xấu xa nào, họ vẫn có thể trở thành môn đồ thân tín của Người được.
- Là con Chúa, chúng ta được mời gọi sống tình thương và lòng nhân nghĩa, tín thành của Chúa. Sống giữa một thế giới khô cằn, nhiều bấp bênh thù hận, bạo động hơn là an bình; một sự cảm thông, một nụ cười, một sự động viên khích lệ, một nghĩa cử tốt, một sự chia sẻ bác ái sẽ đánh tan được áng mây mù đang phủ lấp bầu trời. Cởi bỏ tinh thần biệt phái, sống cởi mở, hiệp nhất, hòa hợp sẽ giúp con người họa lại hình ảnh yêu thương của Chúa Giê-su.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
Sám hối, ăn năn, trở lại…là những nội dung rất phong phú trong các bài rao giảng của Chúa. Con người chúng ta có gì ngoại trừ sự lầm lạc, tội lỗi và sự bất tòan. Chúng ta không là thiên thần, nên những lầm lỗi của chúng ta luôn cần đến lòng thương xót của Chúa, để chỉnh đốn cho những sai lạc, để được đón nhận và yêu thương chúng ta khi chúng ta lầm lỡ. Niềm vui thật lớn khi chúng ta biết quay về với tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Bởi Ngài chính là người Cha nhân hậu và rất giầu lòng từ bi và hay thương xót. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn xác tín chúng con cần Chúa, cần lòng thương xót bao la của Chúa. Xin đừng để chúng con bao giờ thất vọng và tuyệt vọng, vì “ lòng thương xót của Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi chúng con” Amen.
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN A (cf. CN 14 TN năm C, CN 15 năm B)
Chúa gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo
Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin mừng. Chúa đã căn dặn họ phải sống như thế nào, phải làm gì, nói gì.
- Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chin đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp. Biết bao anh chị em đang chờ đợi để được nghe Lời Chúa. Biết bao anh chị em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.
- Thứ đến ta phải cầu nguyện. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên Chúa và ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban, nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết qủa của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. “Nếu mà Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công!” (TV 127). Ta hãy noi gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ sống đời cầu nguyện, thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém Thánh Phanxico Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa. Cầu nguyện để biết được thánh ý Chúa, vì TG là cộng tác với Chúa… Phaolô trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa làm cho phát triển.
- Chúa Giêsu đã không ngần ngại loan báo cho các môn đệ biết trước những gian nan khốn khó đang sẵn chờ các ông ở phía trước. Hành trình của các ông ra đi được ví như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Sứ giả của Thiên Chúa một khi phục mệnh ra đi thì cần phải chấp nhận đi vào những hoàn cảnh khó khăn và thử thách, đi đến những nơi mình không muốn, và ngay cả liều mất mạng sống nữa. Trong đoạn thư gửi tín hữu Gl 6,14-18- Bài đọc 2 – Thánh Phaolô chia sẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô: Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người, Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô và Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài. Làm tông đồ là phải chấp nhận bị nguy hiểm, bị bạc đãi, bị lâm cảnh «chiên con đi vào giữa bầy sói». Số phận của những tông đồ đích thực là như thế. Đức Giêsu đã báo trước số phận của những tông đồ đích thực: «Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em» (Ga 15,20). Chính việc bị bách hại ấy chứng tỏ được ai là tông đồ hay ngôn sứ đích thực: «Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,22-23). Trái lại, khi ta được mọi người ưu đãi, thì hãy coi chừng, vì Đức Giêsu đã từng nói: «Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,26). Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3)
- “Anh em hãy ra đi… “Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: Bản chất của Giáo hội Chúa Kytô chính là truyền giáo. Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3). Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”. Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
- Hành trang của các nhà truyền giáo cũng được Chúa Giêsu giản lược hết mức có thể. “Đừng mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép”. Ðức Giêsu không muốn coi thường hay loại bỏ các nhu cầu vật chất cần thiết trong công cuộc truyền giáo, Người chỉ muốn người Tông đồ không được quá đặt nặng các phương tiện vật chất, nhưng trước hết phải trang bị cho mình tinh thần phó thác, đạo đức, hy sinh xã kỷ, chỉ tìm vinh danh Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, chứ không phải lợi ích và sự an ninh bản thân. Không mang bao bị và giày dép là nhằm tránh đi những thứ đồ đạc cồng kềnh, không cần thiết.
Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, tức là đừng quá lãng phí thời gian vì cách chào theo kiểu phương Đông thường dài dòng mà sứ vụ rao giảng Tin mừng thì đang khẩn cấp. Điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.
“Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình. Tóm lại, khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa, đừng cậy dựa vào sức riêng mình, đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả. Hãy xem linh mục Gioan Vianney, cha sở họ Ars, tuy rất kém về mặt thông thái, về kiến thức thần học, và có rất ít những phương tiện vật chất, nhưng lại là một tông đồ nổi tiếng về khả năng cải hóa các tâm hồn. Tại sao? Vì ngài có đầy đủ những hành trang tinh thần cần thiết mà Đức Giêsu đòi hỏi người tông đồ phải có.
Người rao giảng Nước Trời phải là người siêu thoát với mọi ràng buộc của trần gian, siêu thoát khỏi những tham vọng của cải, quyền lực, lợi lộc cá nhân, bè phái. Đó là những ràng buộc của trần gian khiến người Kitô hữu không thể là chứng nhân đích thực cho Nước Trời.
- Truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Cuộc sống con người trên trần gian không gì quý hơn sự bình an: nội giới cũng như ngoại giới, cá nhân cũng như xã hội. Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông. Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ. Và nhất là niềm bình an vì được làm con cái Chúa, có Chúa ở với ta, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa. Chúng ta phải trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm… Sự bình an là một báu vật vô giá của Thiên Chúa, chính Ngài là nguồn mạch bình an. Thiên Chúa chỉ ban sự bình an cho những ai có tâm hồn trong sạch, khiêm hạ và biết tín thác vào sự quan phòng của Ngài cũng như cho những người thiện tâm xây dựng hòa bình. Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Ngài sai các ông đi thực tập truyền giáo với quà tặng bình an. Quà tặng này đi kèm theo điều kiện là ‘không mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép…’, tức là sống tinh thần nghèo khó một cách triệt để. Chúng ta vẫn thường hát lên ‘Kinh hòa bình’, lời kinh của Thánh Phanxicô Assisi, sứ giả của bình an, và ngài cũng là khuôn mẫu cho chúng ta về tinh thần nghèo khó phúc âm.
- Bảy mươi hai môn đệ ra đi, trở về hân hoan, vì những thành công của họ, ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo họ: “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời”. Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ… Nhưng đó cũng có thể là lời cảnh báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ của Ngài rằng đừng sống dựa vào những cái vinh dự mau qua. Cái vinh dự trừ quỉ hoặc làm được những phép lạ này nọ, đó chính là điều mà con người chúng ta thường hay bám vào. Chúng ta thường bám vào những cái gì là vinh quang chóng qua ở đời này. Phaolô nói: “Ước gì tôi không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.
- “Chữa lành các bệnh tật”. Người truyền giáo phải là người làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất nơi tha nhân. Truyền giáo là đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng của các môn đệ là rao giảng Nước Thiên Chúa, nói với họ về Triều đại của Thiên Chúa. Tin Mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
- Họ cần đi “hai người với nhau”, để giúp đỡ lẫn nhau, cộng tác, chia sẻ, nâng đỡ nhau và làm chứng cho tình huynh đệ. Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng. Các kitô gữu đầu tiên tại Antiôkia đã từng gây ấn tượng tốt đẹp cho cư dân tại đó bằng nếp sống đoàn kết yêu thương nhau, khiến cư dân tại đó đã phải thốt lên “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Vào thời bách hại đạo tại Việt Nam, cha ông chúng ta đã được những người chung quanh gọi là “những người theo đạo yêu nhau”. Những chứng từ như thế có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn là “văn hay chữ tốt”.
- Truyền giáo bằng đời sống. Lời nói đi đôi với việc làm. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe. . . , lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào. . . Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi. Chính cách sống của chúng ta là lời chứng hùng hồn nhất cho Chúa.
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta. Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng. Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó. Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa! Nếu Tin Mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.
Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”. Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi cuốn. Con người thời nay tin ở nhân chứng hơn là lý thuyết. Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng không?
- Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Hôm nay, Chúa đang than thở với mỗi người chúng ta: “Lúa chin đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là chúng ta có luôn ý thức về bổn phận truyền giáo của chúng ta không? Tôi có khao khát đem Chúa cho người khác? …. Tôi có chương trình cụ thể gì?…. Tôi đã lôi kéo được người nào về với Chúa chưa? Có bao giớ tôi nói cho bạn bè, những người chung quanh tôi, những người tôi gặp gỡ về Chúa chưa? Tôi có làm chứng cho Chúa bằng cách sống của tôi hay vì cách sống bê tha của tôi mà những người khác chê trách đạo Chúa?
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khỏe mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
- Hội nghị các Giám mục Á châu đã liệt kê một số điều mà các tín hữu cần học hỏi nơi các dân tộc châu Á như sau: Học tập cách cầu nguyện ăn chay và bố thí của người Hồi giáo. Học tập cách chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học tập sự từ bỏ của cải và tôn trọng sự sống nơi người Phật tử. Học cách xây dựng gia đình và xã hội có trật tự nơi Khổng giáo. Học sống đơn sơ khiêm tốn nơi Lão giáo… Càng học, ta càng nhận ra giáo lý Đức Giê-su tiềm ẩn trong giáo lý các tôn giáo đó và nhờ hiểu biết họ, ta sẽ gây được thiện cảm với họ để dễ dàng giới thiệu Đức Giê-su cho họ hơn.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN A
Các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác
Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông. Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng “Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng”.
Tin Mừng (Mt 10,26-33)
- Bài Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của “Bài Giảng Về Sứ Mệnh Truyền Giáo” (Mt 10). Các môn đệ được Ðức Giêsu sai đi loan báo “Nước Trời đã đến gần” (Mt 10,7). Họ được Ngài cho biết trước những khó khăn trên đường thi hành sứ mạng của mình, một sứ mạng được so sánh với hình ảnh “chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Do vậy, bị ngược đãi và bị bách hại là số phận thường tình của những môn đệ trung thành với sứ mạng được trao.
“Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Sứ mạng của người môn đệ tiếp nối sứ mạng của Con Thiên Chúa đã lĩnh nhận từ Cha. Chính vì vậy, người môn đệ cũng có chung số phận của Thầy: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15, 20). Ðược sai đến thế gian, sống giữa thế gian (x. Ga 17,11) nhưng các môn đệ lại là những người không thuộc về thế gian (x. Ga 17,16) vì họ đã được tuyển chọn và được tách khỏi thế gian bởi Cha (x. Ga 17,6) và bởi Thầy Giêsu (Ga 15,19). Chính đây là lý do của việc họ bị thế gian thù ghét và bách hại (x. Ga 15,19).
- Ðoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Ðức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ “Ðừng sợ”, bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở: “Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi”. Nhất là đừng sợ khi sống đức tin và chia sẻ đức tin: Ai chối Thầy trước mặt người đời….
Đức Giêsu muốn cho người môn đệ tiếp tục công cuộc tỏ bày mầu nhiệm cứu độ ấy cho những ai chưa được nghe thấy: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sẽ được tỏ lộ ra, mặc dầu từ trước tới giờ những bước đầu rất khiêm tốn và bị ẩn khuất. Người tông đồ có thể tưởng rằng mầm sống hay những hạt giống đã bị chết đi. Nhưng không phải thế, những gì mà trước kia còn trong bóng tối thì sẽ được mạc khải ra trong vinh quang sáng lạn, khi ấy Tin Mừng sẽ tỏ sáng và chiến thắng như ánh mặt trời ban mai.
Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”, hoặc hậu quả xấu: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người đời chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
- Mang thân phận là thụ tạo,con người chúng ta sợ đủ thứ: sợ nghèo, sợ khổ, sợ buồn, sợ đói, sợ tai nạn… và đủ thứ sợ trên đời. Nhưng có một điều thật đáng sợ: đó là chính cái chết. Bởi chết là không tồn tại, là trở về cái không không, là không hiện hữu. Nhưng chết về thể xác chưa phải là hết, mà chúng ta còn phải đối diện với một cái chết còn kinh khủng hơn: đó là cái chết về phần linh hồn. Kẻ chỉ giết được thân xác chưa phải là điều gì đang ghê ghớm, bởi nó chỉ khống chế cái giới hạn của con người. Cái làm cho chúng ta “bất tử” chính là linh hồn của chúng ta. Nó thuộc về Thiên Chúa, và chỉ ai biết sống vì, và cho Ngài, người ấy sẽ trường tồn muôn thuở. “Các con đừng sợ”, vì: Chúa chính là nơi nương tựa, ẩn thân vững chắc duy nhất của cuộc đời chúng con. Chúa chính là Người sẽ trả lãi cho chúng con những gì chúng con đã cố gắng trên đời. Chúa là hạnh phúc đời đời của chúng con.
Ðừng sợ người đời, cứ mạnh dạn nói Lời Chúa (x. Mt 10, 27). Ðừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn (x. Mt 10, 28). Ðừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa (x. Mt 10, 31). Đừng qúa sợ hãi, vì sẽ làm chúng ta bị tê liệt đến độ không dám làm chứng cho Đức Giêsu, không dám sống cho chân lý, sợ người đời hơn sợ Thiên Chúa … và nếu như vậy, chúng ta sẽ bị từ chối trước mặt Thiên Chúa (x. Mt 10, 32-33). Lời Chúa hôm nay cật vấn chúng ta: nhiều lần chúng ta chối Chúa trước mặt người đời: không dám xưng mình là Công giáo vì sợ bị thiệt thòi, không dám làm dấu Thánh giá khi đi ăn ở bên ngoài, không dám nói về Chúa…. Tôi không tuyên xưng danh Chúa vì tôi hèn nhát, vì tôi chưa đủ xác tín, vì tôi chưa đặt Chúa làm Chủ đời tôi, vì tôi sợ người ta hơn là sợ Thiên Chúa.
Kitô hữu không phải là người không biết sợ, hay không dám khiêm tốn thú nhận là mình sợ. Nhưng họ là người không để nỗi sợ chi phối đời mình, không vì sợ mà không dám sống cho chân lý. Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ riêng. Cần đối diện và vượt qua bằng lòng tín thác, để rồi được an tĩnh và tự do. Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài là Cha chúng ta, chăm lo đến từng sợi tóc cho ta, và chúng ta có giá trị lớn lao trước mặt Ngài. Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào đời sau. Cái chết thân xác không là dấu chấm hết của đời người. Cuối cùng, chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào Ðức Giêsu, Ðấng không bị sợ hãi nuốt chửng và đã đi tới cùng.
Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Con người – nhất là người Ki-tô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào”, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa”. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
Ðúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn chúng sao?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Như vậy, tôi không còn phải sợ, mà chỉ còn yêu mến và biết ơn.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng mời gọi ta ‘Hãy sợ ‘ cho đúng cách, đúng trật tự và đúng với thánh ý Thiên Chúa: Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác và hồn của ta trong hoả ngục (x. Mt 10, 28). Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Kính sợ Thiên Chúa là một ơn ban. Khi tiếp xúc với Chúa trong cầu nguyện và chiêm niệm, ta thấy Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng cao trọng, còn ta thì vô cùng tội lỗi, vô vàn bất xứng và hèn mọn. Nhận thức đó càng ngày càng sâu thì cảm thức kính sợ Chúa cũng càng ngày càng chân thực.
Điều đáng sợ là nếu chúng ta sống không ngay lành, không nghiêm chỉnh, không trong sáng nên phải che dấu, phải chùng lén! Một điều đáng sợ nữa là tội lỗi, là từ chối tình yêu của Thiên Chúa, là phá vỡ công trình cứu chuộc của Ngài nơi bản thân con người của mình. Tội làm biến dạng con người của ta, làm ta trở thành xấu xa. Và điều đáng sợ nhất, vì quan trọng nhất, là sợ xa Chúa, sợ mất Chúa đời đời. Vì Chúa là hạnh phúc và là cùng đích của đời ta.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Nhưng ý nghĩa của chính sự kính sợ Thiên Chúa khác với sợ hãi. Đó là một phần của Đức Tin: Nó phát sinh từ việc hiểu biết Thiên Chúa là ai. Nó đồng thời cùng là cảm giác mà chúng ta cảm thấy trước cảnh hùng vĩ nào đó của thiên nhiên. Đó là cảm thấy mình nhỏ bé trước một điều gì vĩ đại; là trạng thái sững sờ, kinh ngạc pha lẫn với thán phục. Trước cảnh người tê liệt đứng dậy và bước đi, Tin Mừng nói, “Mọi người đều kinh ngạc và ngợi khen Thiên Chúa; đầy kính sợ, họ nói: “Hôm nay chúng ta đã thấy những điều kỳ diệu’” (Lc 5, 26). Kính sợ là một danh xưng khác cho sững sờ và chúc tụng. Loại kính sợ này là một bạn đồng hành và đồng minh của tình yêu: đó là sợ làm mất lòng người mình yêu mà chúng ta thấy ở nơi những người yêu nhau thật, ngay cả trong lãnh vực hoàn toàn nhân loại. Sự kính sợ này thường được gọi là “khởi đầu của đức khôn ngoan” bởi vì nó đưa đến những chọn lựa đúng trong đời. Thật vậy nó là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần (x. Is 11, 2).
Sự kính sợ Thiên Chúa được phản ảnh trong và tương tự như sự kính sợ của con cái đối với cha mẹ. Thánh Kinh tiếp tục liên kết hai điều này lại với nhau. Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta rằng người bạn đường luôn luôn đồng hành với sự kính sợ là sự tin tưởng vào Thiên Chúa. “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần!” Thiên Chúa không muốn chúng ta sợ hãi Ngài, nhưng tin tưởng vào Ngài. Đó là điều trái ngược với lời của một hoàng đế: “Oderint dum metuant” – “Hãy để cho chúng ghét ta miễn là chúng còn sợ ta!” Những người cha trần thế của chúng ta phải bắt chước Thiên Chúa; họ không được để chúng ta sợ họ nhưng tin tưởng vào họ. Chính nhờ cách này mà sự kính trọng được nuôi dưỡng: sự thán phục, lòng tin tường, và tất cả những gì được xếp vào loại danh hiệu “kính sợ thánh thiện.”
Lòng kính sợ Thiên Chúa hoàn toàn khác với sợ hãi. Chúng ta phải học kính sợ Thiên Chúa: Thánh Vịnh nói: “Hỡi các con Ta, hãy đến và hãy lắng nghe Ta, Ta sẽ dạy cho các con biết kính sợ Chúa” (Tv 33, 12); trái lại, chúng ta không cần phải học sợ hãi ở trường học; nó bất ngờ xảy đến cho chúng ta khi chạm trán với nguy hiểm; chính các sự việc làm cho chúng ta sợ hãi.
Nếu có một niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng và tình yêu Thiên Chúa, trở ngại bên ngoài không còn thành vấn đề cho những sứ giả Tin Mừng nữa. Trở ngại chính nằm ngay trong lòng người. Nếu có một tinh thần như thánh Phaolô, thì “dù gặp thời thuận lợi hay không thuận lợi, tôi vẫn cứ rao giảng.” Dù ngay khi bị tù đầy, thánh nhân cũng thấy “Lời Chúa không bị xiềng xích.” Thánh nhân cảm thấy bổn phận bó buộc đến nỗi nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” (1Cr 9, 16) Thật vậy, quyền (loan báo Tin Mừng) đồng thời cũng là bổn phận, vì Giáo Hội sẽ phủ nhận chính mình và không còn trung thành với Chúa Kitô, nếu bỏ bê bổn phận này.
Ngày xưa các tông đồ rất nghèo phương tiện vật chất, nhưng đã rao giảng Tin Mừng cho rất nhiều người. Ngày nay với biết bao phương tiện truyền thông hiện đại, chúng ta tưởng có nhiều cơ hội rao giảng Lời Chúa. Nhưng thực tế chúng ta làm được quá ít. Tại sao ? Vì nỗi sợ trong ta còn quá lớn …
Người ta kể câu chuyện như sau: Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Khi thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần lại biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: “Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột”.
- Lời Chúa là chân lý. Tự bản chất, chân lý có một sức mạnh. Tất cả những phương tiện và sức mạnh kẻ thù chỉ là những lực lượng thần chết, không thể nào đối địch với Tin Mừng, vì “Lời Chúa là thần khí và là sự sống.” Còn chỗ dựa nào vững chắc hơn Lời Chúa? Còn ai cần tin tưởng vào Lời Chúa bằng người môn đệ? Sứ giả Tin Mừng đích thực luôn tìm được sức mạnh nơi Lời Chúa (x. Tv 119, 114).
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loại thọ tạo nào mà không hiện ra trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bầy trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (Hr 4, 12-13)
“Phần anh, anh hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc…
Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dậy, biện bác, sửa dậy, giáo dục để trở nên người công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành….
Tôi khuyên nhủ anh: hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dậy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.” (2Tm 3, 14-17; 14, 1-5)
- Ðấng phục sinh vẫn mời gọi chúng ta hôm nay: “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”. Khi nói: “Hãy nói nơi ánh sáng… hãy rao giảng trên mái nhà”, nghĩa là, Đức Giêsu muốn chúng ta loan báo Tin mừng của Thiên Chúa một cách mạnh mẽ, và công khai. Chúng ta cần loan báo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống hiện tại của mình.
Thánh Phaolo đã cảm nhận: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2Cr 12, 9-10)
- Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Ki-tô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Ki-tô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Ki-tô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là: vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Ki-tô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Ki-tô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Ki-tô giáo “thuốc phiện”, đầy tính ru ngủ… Ki-tô giáo đó khác hẳn với thứ Ki-tô giáo do Đức Giê-su thiết lập, một Ki-tô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy, Đức Giê-su coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13); “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật” (Mt 23,23b); “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện thân của Đức Giê-su – cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng sẽ nói “Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn”… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!” (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải “dám”, phải “vô úy”, “không sợ”, phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức “vô úy” rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát “một cách có lý” hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Ki-tô hữu cần năng tự vấn!
Làm ngôn sứ của Thiên Chúa, cá nhân hay tập thể, không phải là chuyện dễ, lại càng không phải là an nhàn thư thái. Ngược lại nó đòi hỏi nhiều gian truân, khốn đốn. Có khi phải hy sinh cả tính mạng. Vì vậy, bài đọc I trích sách tiên tri Giêrêmia và bài đọc 3 nói về số phận các môn đệ Chúa Giê-su, đầy rẫy những từ ngữ mang tính đe doạ, gây sợ hãi như kinh hoàng, tố cáo, mắc bẫy, trả thù, khiếp sợ, rỉ tai, âm mưu… Kìa lão “kinh hoàng tứ phía”, chúng ta hãy tố cáo nó đi. Tất cả bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó”. Giọng điệu bài Tin Mừng nói về số phận các tông đồ tuy kém gay gắt hơn nhưng vẫn đậm màu sợ hãi: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn…” Cũng những từ giết chết, khước từ, bí mật, kinh hãi, sợ sệt… Tại sao vậy? Tại số phận của các ngôn sứ Thiên Chúa là như thế.
Những ai sống đúng ơn gọi đều cảm nghiệm những “chống đối” của thế gian, xác thịt và satan… Đúng như Chúa Giê-su đã nói trong Phúc âm Gio-an: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em…” (15,18).
Tiên tri Giê-rê-mi-a đã tuân thủ lời Chúa kêu gọi, cảnh cáo các vua chúa quan quyền, các thế lực đền thờ, và toàn thể nhà Giu-đa sẽ bị trao vào tay đế quốc Ba-by-lon nếu không ăn năn trở về với Thiên Chúa (20,1-6). Họ đã bịt tai, tẩy chay, bắt bớ, đánh đòn và giam ông vào ngục tối, bắt đeo gông cùm. Giê-rê-mi-a không ngờ mình phải chịu số phận nặng nề đến thế khi vâng lệnh làm ngôn sứ. Ông nói, ông đã bị Thiên Chúa “lừa” vào sứ vụ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng, suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con” (20,7). Bây giờ ông muốn im lặng cũng chẳng được, bởi lời Ngài như bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt (20,4). Cả cuộc đời của vị ngôn sứ hình như luôn đối mặt với đau khổ, cho dù ông đã hết lòng vâng nghe theo lời Chúa. Đau khổ quả là một mầu nhiệm mà vị ngôn sứ không thể hiểu nổi. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Cố gắng thi hành ý Chúa như lương tâm mình phân định, sẽ luôn luôn đặt chúng ta trước sự chống đối của kẻ khác, ngay cả họ hàng thân thích, vì não trạng nô lệ tư tưởng hiện hành, những giá trị lừa dối, xu thời. Giê-rê-mi-a ở trong hoàn cảnh này và ngày nay những linh hồn lành thánh cũng vậy. Họ sẽ phải hứng chịu thù địch, chỉ trích ở ngay những nơi xem ra là thân thiện, nâng đỡ, ủng hộ, khích lệ, giữa gia đình, bạn bè, giáo xứ, tu hội. Trong cơn đau đớn thể xác và tâm hồn, Giê-rê-mi-a cảm thấy bị bỏ rơi, bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng thực sự Ngài luôn nâng đỡ ông. Người ta đo thành công ở thế gian bằng tiếng tăm và của cải hữu hình như giàu có, vàng bạc, nhà cửa. Còn người tín hữu bằng tiêu chuẩn nào? Nếu thiếu đức tin chúng ta cũng giống như vậy thôi. Khi gặp tai ương hoạn nạn, thiệt hại về tinh thần, vật chất chúng ta cũng nghĩ bị Chúa trừng phạt và không được Ngài yêu thương ban phước. Trường hợp của Giê-rê-mi-a chứng minh ngược lại. Càng trung thành với Thiên Chúa, ông càng bị đồng bào tẩy chay, hành xích. Nhưng đó chỉ là bề mặt. Thiên Chúa vẫn kiện cường, bảo vệ và chúc phúc cho ông.
Như thế khi người môn đệ không chùn bước trước sự bách hại, dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình trước mặt người đời, phần thưởng xứng đáng của họ mai sau chính là việc họ sẽ được Chúa Giêsu tôn vinh trước toà Thiên Chúa.
Đau khổ của ngôn sứ Giêrêmia, của các người công chính trong Cựu ước, tất cả như tập trung và báo trước cho hành trình thập giá của Đức Kitô. Với con đường thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Ngài tất cả sự tủi hổ, oan ức, cùng với biết bao nỗi đắng cay khi bị người thân, kẻ nghĩa phản bội, rồi bỏ Ngài mà trốn chạy ngay giữa lúc Ngài cần họ nhất.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã “gánh vác” lấy tội của chúng ta vào mình và đem lên thập giá, để rồi nhờ cuộc Phục Sinh của Ngài, chúng ta nhận được muôn vàn ơn phúc của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần”.
Như thế, với cái nhìn tự nhiên, đau khổ tự nó là một cái gì thật ghê gớm, đáng sợ không thể hiểu nổi và người ta càng không thể hiểu, khi những thấy cả những người công chính, thánh thiện cũng gặp phải biết bao đau khổ, thử thách. Tuy nhiên, lời Chúa hôm nay cho thấy, sức mạnh của đau khổ không phải là tuyệt đối. Chính nhờ đau khổ, chúng ta sẽ có dịp để cảm nghiệm rõ hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: “Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8, 28).
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công… mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: “Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng.”
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN A (x. CN 24, 25, 29 năm B; CN 22 năm A; CN 12, 23 năm C)
Ai không từ bỏ cha mẹ…. vác thập giá
Bài đọc 1: 2 V 4:8-11,14-16a
Elisha vô cùng may mắn khi gặp được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp và mời dùng bữa với danh nghĩa là một tiên tri, “vị thánh của Thiên Chúa.” Người phụ nữ này vốn giàu có và đạo đức. Thấy Elisha thường qua lại thành Sunam nên bà mới bàn với chồng cất một căn phòng trên gác cao, có “một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó.” Trước lòng hiếu khách cao quí đó, tiên tri Elisha muốn thưởng công cho hai vợ chồng. Thế rồi khi biết người chồng đã già mà vợ lại chưa con, Elisha liền hứa cho bà được “sinh một cậu con trai vào năm tới.”
Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ. Nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người xử tốt với chính môn đệ Ngài còn đáng mong đợi hơn nhiều.
Bài đọc 2: Rm 6,3-4.8-11: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su. Thật vậy, nếu chết đi cho tội là loại bỏ những ích kỷ, tham vọng, nhục dục, thù hận, ghét ghen, vô cảm, vô tâm, dửng dưng, thì sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô là biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; biết yêu thương, tha thứ, nhân từ, cảm thông, liên đới, quảng đại, dấn thân vì người nghèo…, bởi vì những thứ đó thuộc về phẩm chất của Thiên Chúa và chúng ta được mời gọi loan truyền tình thương của Ngài qua những hành vi đó.
TIN MỪNG: Mt 10,37-42
- Trong cuộc đời này có mối quan hệ nào thân thương, gắn bó mật thiết cho bằng mối tình của cha mẹ và con cái? Ta càng cảm nghiệm điều này rõ ràng hơn khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ qua đời là một mất mát to lớn không thể bù đắp được trong cuộc đời của những đứa con. Dù thân thương gắn bó như vậy, thế mà anh thanh niên vẫn có thể lìa bỏ cha mẹ để sống với một người thiếu nữ xa lạ nào đó mà anh đã chọn làm bạn đời. Thì ra có một cái gì đó thật mãnh liệt đã kéo anh thanh niên ra khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình. Điều mãnh liệt ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Và thật ra, dù lìa bỏ cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình, thì không phải anh thanh niên cắt đứt tình nghĩa với cha mẹ. Tình nghĩa vẫn còn đó, nhưng lìa bỏ cha mẹ là để cho cuộc sống mới được phát sinh và vươn cao.
Nếu chỉ có tình yêu mới lý giải được sức mạnh đã lôi kéo người thanh niên ra khỏi cuộc sống chung với cha mẹ để gắn bó với người yêu, thì cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy sẽ không xứng đáng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy sẽ lại tìm thấy”. Phải có lòng yêu mến Đức Giêsu mãnh liệt lắm người ta mới dám từ bỏ và đánh đổi mọi sự, kể cả mạng sống của mình. Và khi từ bỏ những mối liên hệ thân thương của đời mình, thì không phải là phủ nhận giá trị của những mối liên hệ ấy, lại càng không phải là hủy diệt đi, nhưng là để cho cuộc sống mới, cuộc sống của Đức Kitô được vươn cao trong lòng mình, trong đời mình.
Đi đạo, theo đạo là sống cuộc sống của Chúa Giêsu, là yêu mến và gắn bó với Người, là đi vào một cuộc tình với Người. Mà dấu chỉ cho thấy một người có lòng yêu mến Đức Kitô chính là người ấy biết yêu thương anh em mình. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng điều ấy: “Bất cứ sự gì các ngươi làm cho một người trong các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Và “Ai cho một trong những kẻ bé mọn này dù chỉ là một ly nước lã thôi sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Nếu đối với những người khác mà Chúa Giêsu còn đòi ta phải quan tâm, phải đối xử tốt như vậy huống chi là tổ tiên, là ông bà, là cha mẹ của ta? Chỉ có điều là Người muốn chúng ta đừng để bất cứ mối liên hệ nào, bất cứ giá trị trần gian nào ngăn cản lòng yêu mến của ta đối với Người. Càng yêu mến Chúa nhiều ta càng được thôi thúc để yêu mến ông bà, cha mẹ và mọi người nhiều hơn. Thế thì đâu có phải khi theo Chúa là phải bỏ ông bà, cha mẹ.
Ðức Giêsu đòi chúng ta yêu Ngài hơn cả những đấng đã sinh thành dưỡng dục nên ta. Ðối với các dân tộc Á Châu, chữ hiếu là một giá trị lớn. Ðức Giêsu không đi ngược lại giới răn thảo kính cha mẹ (Mt 15, 4-6), và chính Ngài đã luôn sống giới răn này (Lc 2, 51). Nhưng giả như có sự xung đột giữa tình yêu đối với cha mẹ và tình yêu đối với Ðức Giêsu, thì Ngài đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên cha mẹ, không được vì cha mẹ mà trở nên thiếu sẵn sàng trước lời mời của Ngài. Ðã có người ngần ngại trước tiếng gọi của Ðức Giêsu. Anh muốn hoãn một thời gian để lo tống táng cha già, hay đúng hơn để phụng dưỡng cha cho đến khi cha qua đời. Ðức Giêsu đòi anh theo Ngài ngay để loan báo Nước Thiên Chúa (Lc 9, 59-60). Thánh Phanxicô Assidi là một thí dụ hùng hồn về thái độ siêu thoát đối với gia đình, để sống theo những thúc bách của Chúa. Thánh nhân đã dám cởi bỏ quần áo trả lại cho cha, dám đi ăn xin trong chính thành phố cha mình đang sống.
Không gì thân thiết với con người bằng tương quan gia đình. Chính từ gia đình, con người hiện hữu và phát triển. Càng sống dưới mái ấm gia đình, con người càng đi sâu vào tương quan tình cảm và nội tâm. Thế nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước Trời đã đến gần,” (Mt 10, 7) và “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17, 21) Không có gì cao trọng hơn Nước Trời. Nước Trời là một giá trị tuyệt đối, đến nỗi người ta phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13, 44.46) mới mua sắm nổi. Nước Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời. Quả thực, “chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1Tx 1, 5)
Để mua được một giá trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh cả tương quan gia đình. Tương quan gia đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần “những gì mình là”, tức là chính bản thân. Chỉ đức tin mới thấy được chiều kích vĩ đại của Nước Trời và mới mạc khải cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16,16) “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh,” (Cl 1, 18) và “chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.” (Ep 5, 30) Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10, 39) Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái tôi vĩ đại. Không những không mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều kích lớn lao và một giá trị tuyệt vời hơn.
Năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình : người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Ca-ta-ri-na với bốn đứa con thơ dại.
Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phan-xi-ca đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phan-xi-ca đã để lại.
Một hôm, tình cờ cha Ban-den-la, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn 10 năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”. Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chi, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.
Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.
- Một khi đã đón nhận được nguồn tình yêu đó, ngay từ đời này, người môn đệ đã được quan tâm và che chở. Thực tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm trong cái chết của Người,” (Rm 6, 3) để “chúng ta cũng được sống một đời sống mới như Người nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.” (Rm 6, 7) Đời sống mới “đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1,14) Nói khác, khi theo Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12), và hoàn toàn được giải thoát (x. Ga 8, 36). Đó là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và “đón tiếp Thầy”. Từ đó, cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng từ mãnh liệt trước mắt mọi người. Sứ giả vì tin vào Đức Kitô, họ cũng xứng đáng được yêu mến và kính trọng. Và những kẻ đón tiếp sứ giả sẽ không mất phần thưởng :” Kẻ nào cho một kẻ bé mọn uống dù một Ly nước lã là đã làm cho Chúa Giêsu ” (Mt 25, 40- 46). Đó là sự nâng đỡ của Chúa đối với những người được sai đi và sự đền đáp của Chúa đối với những người đón tiếp sứ giả của Chúa như đón tiếp Chúa (x. 2V 4, 17 và Mt 10, 41).
Khi chọn lựa theo Chúa Giêsu, người môn đệ biết sẽ không tránh được nhiều mất mát. Nhưng Thiên Chúa không để cho họ thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt xa mọi chờ mong. Trước mặt Thiên Chúa, sẽ không có gì bị bỏ quên. Một bát nước lã thôi cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Và cũng không có việc làm nào là kém giá trị.
Ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy (Mt 10,4). Đặc biệt Chúa có liên kết gần gũi với người rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa. Và Chúa bảo: Ai đón tiếp một ngôn sứ vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ (Mt 10,41). Lời Chúa nói đây có liên kết đến câu chuyện Tiên tri Elisa trong bài Trích Sách Các Vua hôm nay (x. Bài đọc 1). Đó là những việc mà Lazarô và hai chị em Martha và Maria đã làm bằng cách tiếp đãi chính Chúa trên đường giảng dạy. Đó chính là việc các bà Maria Macđala, và Maria và bà Salômê đã làm bằng cách đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilea (Mc 15,41). Đó cũng là việc Mẹ Maria và mấy người phụ nữ đã làm bằng việc chuyên cần cầu nguyện với các tông đồ và cho các tông đồ (Cv 14). Đó còn là việc giáo dân thời Giáo Hội sơ khai đã làm, gồm ông Giuse, bằng cách bán đất đai, nhà cửa, lấy tiền đặt dưới chân các Tông Đồ, để được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu (Cv 4,34.37). Và đó là những việc mà biết bao nhiêu người giáo dân đã làm từ ngày khai sinh Giáo Hội bằng cách dùng thời giờ, sức lực, tiền của, lời cầu nguyện để giúp vào việc hoạt động truyền giáo của các Tông đồ và những người kế vị là hàng Giáo sĩ.
Thế nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi mời gọi người ta nới rộng sự tiếp đón đến các kẻ bé mọn, người bị bỏ rơi, người già đau yếu, thai nhi vô tội…. Những con người này cũng cần được ân cần tiếp đón như sứ giả của Đức Kitô. Và chỉ “một bát nước lã” cho họ uống thôi cũng đủ cầm chắc phần thưởng Thiên Chúa trao ban rồi.
Xin cho các sứ giả luôn nói và sống Lời Chúa với tất cả tâm hồn để người nghe đón nhận với lòng tin: “Trong mọi sự, Anh hãy tỏ ra mình là gương mẫu về đức hạnh, tinh tuyền và đoan trang trong giáo huấn…”(Tt 2, 7). Xin cho các sứ giả Tin Mừng cũng như những người đón nhận Tin Mừng luôn sống xứng với Lời Chúa mà sứ giả rao giảng và người nghe lãnh nhận.
Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết, mà chúng ta còn một cuộc sống khác, cuộc sống vĩnh cửu mà chúng ta phải đánh đổi bằng cuộc sống trần thế này. Muốn đánh đổi được cuộc sống gía trị mai ngày, Chúa dạy chúng ta phải chịu sự thua thiệt ở đời này.
- Đấng Kitô, cũng là Thiên Chúa – công bố quy luật «vượt qua» hay mầu nhiệm «vượt qua» đầy nghịch lý của Ngài: phải trải qua tử nạn để sau đó phục sinh, phải trải qua đau khổ thì mới được hạnh phúc. Chính Ngài là Thiên Chúa đã chọn cách ấy. Nếu có cách làm nào tốt hơn, khôn ngoan hơn, chắc chắn Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan vô cùng, sẽ chọn cách ấy. Nhưng không có cách nào khác khôn ngoan và chắc chắn hơn cách này. Muốn cứu cả nhân loại khỏi đau khổ do tội lỗi, muốn đem lại hạnh phúc cho họ, thì Ngài phải chấp nhận chịu đau khổ đến tột cùng và chết cách thảm thương nhục nhã. Những người có lý tưởng cứu khổ xã hội, muốn đem hạnh phúc đến cho mọi người mà lại muốn tránh đau khổ, khó khăn, thiệt thòi, muốn sống hưởng thụ, ăn ngon mặc sang, được trọng vọng hơn người… đều là những người ảo tưởng hoặc những kẻ đạo đức giả hiệu.
Ngài đã «từ bỏ mình» một cách triệt để: từ ngôi vị Thiên Chúa vô cùng cao sang, Ngài đã «từ bỏ mình» đến nỗi trở nên một người chết nhục nhã như một tên tội phạm. Chính vì «từ bỏ mình» triệt để như thế, mà Ngài đã trở nên vinh quang nhất, được tôn vinh nhất (x. Pl 2,6-9). Ngài đã làm gương như thế, để chúng ta, những kẻ theo Ngài, bắt chước. Thánh Phaolô quả quyết: «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm 2,11-12a). Mang danh là theo Ngài, mà sống ngược lại với tinh thần «từ bỏ mình», «vác thập giá mình» của Ngài, thì ta chỉ là kẻ theo Ngài một cách «hữu danh vô thực» mà thôi.
Đức Giê-su đòi người thanh niên giàu có muốn theo Ngài phải về bán hết của cải mà cho kẻ khó. Các tông đồ khi được kêu gọi, đã bỏ chài lưới ( Mt 4, 18 –20 ), bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, từ bỏ người thân: cha mẹ, con trai, con gái… ( Mt 10, 37 ), và một cách quyết liệt hơn ”từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…” ( Mt 16, 24– 26 ). Sự từ bỏ đó nói lên thái độ dứt khoát theo Chúa: hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của họ ( Mt 8, 21 – 22 ); kẻ cầm cày, mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng với Ngài… Chính Đức Giê-su đã nêu gương trước: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ……hạ minh cho đến chết, chết trên cây thập tự…” Ngài đã làm thế vì yêu mến nhân loại lỗi lầm.
«Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mc 8,34). Điều kiện Ngài nói thật rõ ràng: từ bỏ «cái tôi» ích kỷ của mình và sẵn sàng chấp nhận đau khổ. Từ bỏ «cái tôi» ích kỷ là không sống vì mình, không đặt quá nặng hạnh phúc hay đau khổ, quyền lợi hay thiệt hại, thuận lợi hay khó khăn của mình. Thay vào đó, hãy sống vì tha nhân, quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân nhiều hơn. Sẵn sàng chấp nhận đau khổ là sẵn sàng hy sinh, chịu mất mát, thiệt thòi để tha nhân được hạnh phúc, được giảm bớt đau khổ… nhất là những người mà ta thường gặp trong đời sống thường ngày. Cứ thử sống như thế, ta sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an và hạnh phúc, một thứ bình an hạnh phúc sâu xa khác hẳn với thứ hạnh phúc mà chúng ta thường tìm kiếm theo lối ích kỷ.
Chọn theo Chúa, có nghĩa là chọn tình yêu của Chúa. Vì thế, Chúa không muốn người môn đệ cứ bám víu vào những sự chóng qua ở đời này mà Ngài mời gọi họ yêu mến Chúa, chọn Chúa như gia nghiệp của họ và khi chọn Chúa như vậy, họ phải yêu Chúa hơn chính bản thân của họ, hơn cả mạng sống của họ. Các môn đệ đã chấp nhận vác thập giá mà theo Chúa để noi gương Thầy mình là Đức Giêsu Kitô đã hy sinh, gánh tội trần gian, chết trên thập giá để cứu độ nhân loại:” Khi nào Ta bị giơ cao khỏi đất, Tasẽ kéo mọi người lên cùng Ta “.
- Chúng ta mang danh là từ bỏ nhiều thứ, nhưng cái quan trọng cần từ bỏ nhất là chính «cái tôi» của mình, thì ta không chấp nhận từ bỏ. Bằng chứng là ai nói động đến ta, đến danh tiếng hay quyền lợi của ta, là ta phản ứng mãnh liệt. Chúng ta chỉ muốn được đề cao, khen tặng, tôn vinh, và tìm mọi cách để được như thế. Ta muốn mình phải hơn mọi người, có ai hơn ta một chút là ta khó chịu và tìm cách dìm họ xuống.
Từ bỏ những gì mình có để lớn lên đã là khó khăn lắm rồi, huống chi từ bỏ chính mình, và cả mạng sống mình khi Chúa cần thì còn khó khăn biết bao. Vì thế, không có một tình yêu sâu thẳm triệt để thì không ai có thể sống sự từ bỏ ở mức độ cuối cùng đó. Thật ra, chính mạng sống mình là do Chúa ban cho. Khi Chúa cần lấy đi, chính vì Ngài muốn ban cho ta một sự sống mới bằng chính sự sống thần linh của Ngài. Hiểu và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đã dâng hiến cho ta, ta mới dám khước từ chính mình để dâng hiến lại cho Chúa. Thật ra, “Con người là không trước mặt Thiên Chúa.” (Tv 39, 6). Chân lý đó phải giúp ta nhận ra thân phận bèo bọt của mình, nay còn mai mất, để sống khiêm tốn trong sự từ bỏ. Danh từ khiêm tốn do tiếng La-tinh: “humus”, nghĩa là đất. Điều này nhắc ta nhớ đến nguồn gốc của ta là bụi tro, có được sự sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa, và có gì cao cả đi nữa thì cũng do Chúa làm nên.
Điều thứ nhất trong 14 điều chân nhận của Đức Phật là: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”. Chính mình mới thật sự đối chọi, cản đường ngăn lối, làm bế tắc đời sống mình chứ không phải ngoại vật hay người khác. Chính mình mới tạo nên tham vọng, ngạo mạn, kiêu căng, ích kỷ… Do đó, phục vụ bản ngã mình là phục vụ một bạo chúa xấu xa hơn tất cả các bạo chúa. Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.
Người chỉ biết quan tâm đến mình là người chứa đầy tham, sân, si, lo âu, buồn phiền và thất vọng. Người từ bỏ chính mình mới là người trút được gánh nặng ngàn cân đó để hưởng bình an, thanh thoát và tạo được khả năng nếm cảm được những hương vị hạnh phúc thần linh.
- Hơn nữa, vì con đường của Đức Giêsu là con đường của sự thật mà “sự thật thì mất lòng”, cho nên những người muốn đi theo con đường đó, chắc hẳn phải đối mặt với sự chống đối của những thế lực sự dữ. Có khi sự chống đối này không chỉ đến từ những người xa lạ, mà nó còn xuất hiện nơi những người thân cận của chúng ta như: giữa cha mẹ và con cái; giữa vợ chồng, anh chị em, bạn bè thân thích với nhau… Tất cả những điều đó, lắm lúc tạo nên nơi mỗi người chúng ta một tâm lý thoả hiệp, “ba phải”, ai nói sao cũng gật, cũng ừ cho vừa lòng mọi người.
Các môn đệ theo Chúa sẽ phải nhớ rằng:” Tôi tớ không hơn chủ “. Nối gót theo chân Chúa, người môn đệ sẽ bị ghét bỏ, loại trừ, bị hiểu lầm, bị tù tội, có khi phải chết. Theo Chúa là chấp nhận hy sinh, chấp nhận chết vì yêu:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hy sinh mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Đó là cái nghịch lý của những con người theo Chúa.
Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi biết sống cho tha nhân. Qua cuộc tử nạn và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý ấy. Ngài bảo chúng ta: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Nhưng đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thật thế, tất cả những ai miệt mài trong tiền của, danh lợi, chức quyền, lạc thú riêng mình, thì rồi cũng chỉ chuốc lấy đắng cay, chua xót, muộn phiền mà thôi. Trái lại, một cuộc sống tiêu hao vì người khác sẽ luôn là một cuộc sống tràn đầy, sung mãn. Chính trong phục vụ chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Chính qua những cử chỉ yêu thương chúng ta mới tìm được bản thân mình. Đó là chính là ý nghĩa của “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta vẫn thường hát: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN A
Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường
Bài đọc I (Dcr 9,9-10)
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Ðấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9, 9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21,7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Ðiều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.
Bài đọc II (Rm 8,9.11-13)
Anh em được Thần Khí chi phối, vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.
Tin Mừng (Mt 11,25-30)
- Hạng khôn ngoan thông thái Đức Giêsu nói tới họ là ai? Đó chính là những kẻ cậy dựa vào Lề Luật ông Môsê, tự hào về dòng giống Abraham, tin tưởng vào tài năng của mình để làm việc lành, mà không cần tin vào Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất (x. Cv 4,12), nên chúng không hiệp thông với Ngài, cũng không muốn ai làm môn đệ của Ngài. Cụ thể nhất là các thượng tế và nhóm Biệt phái đã sai các thủ hạ đi bắt Đức Giêsu, cuối cùng bọn tay sai này trở về tay không báo cáo: “Chúng tôi chưa hề thấy có ai nói năng được như ông ấy”, tức thì họ bị các đầu mục Do Thái mắng xối xả: “Cả chúng mày nữa, cũng đã bị phỉnh gạt rồi sao? Thử hỏi trong các hàng đầu mục và người Biệt phái có ai tin vào hắn đâu, chỉ có lũ dân quèn không biết gì về Lề Luật, chúng mày thật là đồ chúc dữ” (Ga 7, 45-49).
- Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Đức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Chính những người bình dân, bé mọn, đơn sơ, thiếu học thức lại là những người đã theo Ðức Giêsu ngày này qua ngày khác để nghe những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã nhận biết Ðức Giêsu là ai để rồi đặt niềm tin tuởng nơi Ngài. Còn những người thông thái như Pharisiêu và các luật sỹ thì lại ngày đêm lo lắng bày mưu tìm kế bắt bẻ Ðức Giêsu và tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng. Họ đã dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian, và kết qủa là không biết Ðức Giêsu là ai.
Chúa sẽ đỡ lấy gánh nặng cuộc đời khi chúng ta tuyệt đối phó thác và vững tin vào Người. Nhưng chỉ có thể phó thác và vững tin khi chúng ta trở nên “bé mọn”. Và “dịu hiền, khiêm nhượng trong lòng”. Ðến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa. TV 54: Hãy trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa. Người sẽ đỡ đần cho. Chẳng để chính nhân phải nghiêng ngửa bao giờ.
Người bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là hạng người sống đạm bạc, đơn sơ, khiêm nhường, chỉ biết tin tưởng phó thác vào một mình Thiên Chúa, chứ không cậy dựa vào bản thân mình hay sức mạnh nào khác. Thiên Chúa dành cho những người ấy một đặc ân vô cùng cao quý là mặc khải cho họ biết Sự Thật bí nhiệm của Thiên Chúa. Dĩ nhiên những người bé mọn được như thế thì không phải vì họ có công lao gì trước mặt Chúa, mà chỉ vì Chúa yêu thương họ và ban cho họ “cách nhưng-không” mà thôi. Kẻ bé mọn là người tín thác vào Chúa, không tự hào về mình, sống hồn nhiên như trẻ thơ. Ðó mới là người khôn ngoan đích thực theo cái nhìn Kitô giáo, bởi lẽ người đó sẵn sàng mở ra để đón lấy những mạc khải cao vời của Thiên Chúa (x. Mt 18,1-4). “Nhưng Thiên Chúa đã chọn những gì điên dại trong thế gian để làm cho những kẻ khôn ngoan phải xấu hổ, và Thiên Chúa đã chọn những gì yếu kém trong thế gian để làm cho những kẻ hùng mạnh phải bẽ bàng. Và những gì hèn mọn trong thế gian, những gì bị khinh miệt, những gì không đáng kể, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, để không một người nào dám tự hào trước mặt Thiên Chúa” (1Cor 1:26-29).
Bởi chỉ có trong tinh thần của một người nghèo. Ta mới thấy mình chẳng là gì. Tất cả là bởi Chúa, phát xuất từ Chúa. Đối với Kitô hữu, chúng ta cần biết rằng, chính bản thân ta cũng chỉ là bụi đất, rồi sẽ trở về bụi đất. Tất cả những hy vọng, những tìm kiếm, những bươm chải, những tranh giành, những vất vả, những hao mòn lặn lội mới có trong cuộc đời này… đều chỉ là hư không. Ta không là chủ đời mình, càng không bao giờ là chủ những gì mình tạo ra. Cùng với sự tắt thở của thân xác, ngay lập tức, ta trở nên thối rữa, nhơ nhớp. Vì thế, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối cho Chúa như một người bé mọn, trước thế gian, chẳng có gì. Phó thác tuyệt đối cho Chúa là làm giàu Thiên Chúa cho đời mình. Thiên Chúa là Vĩnh Cửu. Ai làm giàu Thiên Chúa, người đó bước vào vĩnh cửu. Vì thế, chỉ những ai biết làm giàu Thiên Chúa cho đời mình mới là người thật sự khôn ngoan.
- Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài. Theo cách nói Do Thái, “mang ách của ai” là học với người đó; còn “gánh” thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Đức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài: Học với ngài: học gương hiền lành và khiêm tốn. Đón nhận luật Ngài là luật yêu thương. Ðể hiểu đưọc lời Chúa và biết Thiên Chúa, phuơng tiện duy nhất là đến với Ðức Giêsu. Không ai biết đưọc Thiên Chúa Cha trừ ra Ðức Giêsu, và những người được Ðức Giêsu chỉ dạy cho. Chúng ta chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa qua Tin Mừng của Ðức Giêsu và các lời giảng dạy, giáo huấn của Hội mà thôi.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh)
Hiền lành và khiêm nhường để chúng ta có thể nhìn ra những lỗi lầm của chúng ta, để biết thông cảm và yêu thương những người bé mọn, để biết tin tưởng và phó thác cho Chúa… Chúa hạ bệ những ai quyền thế…. Chúng ta cần tập sống khiêm tốn, vì ai trong chúng ta cũng có thói kiêu căng, tự phụ….
Kinh nghiệm cho tôi thấy: một khi lòng trí tôi mải miết lo chuyện gì, thì tôi không thể mải miết với chuyện khác được, nhất là những chuyện có tính chất trái ngược với chuyện tôi đang mải miết say mê. Đó là một định luật tâm lý rất phổ quát. Cũng vậy, một người đang say mê những chuyện trần tục, những chuyện tầm thường, người ấy khó có thể nhập tâm và hiểu được những chân lý siêu việt của tôn giáo. Vì muốn hiểu và cảm nghiệm được những chân lý này, con người phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý. Chân lý tôn giáo giống như viên ngọc quý hay kho báu dấu trong ruộng, phải bán hết tất cả những gì mình có mới mua được (x. Mt 13, 44-46). Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình cũng vậy, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.
Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.
-Hiền hậu và khiêm nhường là hai thái độ sống căn bản, là chìa khoá của mọi nhân đức, là điểm nối kết tình yêu giữa hai tâm hồn luôn hướng về nhau. Khiêm nhường là biết mình. Biết mình thân phận mỏng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã; biết mình cần sự trợ giúp, cần được tôi luyện mỗi ngày; biết mình cần đến tình yêu, cần đến sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Khiêm nhường đích thực luôn hướng về Thiên Chúa chứ không phải để “đánh bóng” bản thân mình. Còn hiền hậu vốn được xem như thái độ hướng về tha nhân. Đó chính là thái độ nhẹ nhàng, khoan dung, độ lượng và nhân ái. Hoa quả của sự hiền hậu chính là không cứng rắn cọc cằn, không hằn học bon chen, không tranh chấp oán hờn, không lên án bạo động,… Chúa Giêsu chính là mẫu gương của sự hiền hậu đích thực và Người mời gọi chúng ta bước theo Người trên con đường này, nhờ đó nhân loại được Chúa chúc lành.
Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ. Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn. Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường. Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu …. mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.
Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó. Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song. Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giê-su được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).
-Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.
Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là cuộc thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý tưởng về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng của con người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng ta mới có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một thực tại trong đời sống của chúng ta.
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của Ngài. Một khuôn mặt hiền hòa khả ái. Thực vậy, Ngài đã không đến trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài không phải là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người cha giàu lòng thương xót. Khí giới của Ngài không phải là gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay! Sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những đềi này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11, 25-26).
Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục. Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác. Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình. Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình.
- “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh, đem về phổ biến cho dân gian. Trên cuộc ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.
Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, phải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “Bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chông chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản. Nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hằng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ ra nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau. Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustinô nói: “Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.
Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.
Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình.” ( x. Rm 8,13 ).
Kẻ Kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”. Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng vô cùng.
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: – Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp:
– Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:
– Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi:
– Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái trả lời:
– Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.
Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.
Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể.
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN A
Dụ ngôn về người gieo giống
Is 55,10-11: Tiên tri Isaia đã nói trước về Hạt Giống Tin Mừng của Thiên Chúa: “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác”
Rm 8,18-23: Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.
Mt 13,1-23
- 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:
-Đất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
Mỗi ngày Chúa Nhựt chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta. Có khi nghe Lời Chúa xong đó, nghe rõ đó nhưng chúng ta quên liền. Sau khi rời khỏi nhà thờ, chúng ta sợ Lời Chúa đi theo về với chúng ta nên nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.
-Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.
Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay, rất sống động, bừng cháy trong ta và ta có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.
-Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.
Có khi chúng ta cố gắng, chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa nhưng rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.
-Đất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.
Lời của Chúa, Tin Mừng của Chúa đấy nếu như đọc nhiều được thì rất tốt nhưng nếu được chỉ cần mỗi ngày một câu thôi. Đọc thật kỹ, suy thật lâu và đem lời Chúa ra thực hành ngay trong cuộc đời của mình thì một ngày kia hạt giống Lời sẽ phát triển ngay trong cuộc đời của những ai đã làm như vậy.
Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.
Dụ ngôn này đã quá quen thuộc với chúng ta. Chúng ta hãy để ý đến vài chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt: Dụ ngôn kể ra 4 loại đất, trong đó có tới 3 là đất xấu. Thực tế đáng buồn là rất nhiều người đã không đón nhận Lời Chúa và làm cho lời ấy sinh kết quả. Lời Ðức Giêsu trích dẫn sách Isaia “Các ngươi lắng lai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì”. Tâm thế của những người lòng chai dạ đá trước Lời Chúa. Ðối với họ, Lời Chúa như “đàn gãy tai trâu” và như “nước đổ lá môn” chẳng chút hiệu quả. Nhưng đối với người biết đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành thì kết quả rất phi thường: một hạt sinh ra 30, 60, 100 hạt khác.
- Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình. Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước.
Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.
Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.
Thiên Chúa ban Lời cho con người và Ngài muốn Lời của Ngài sinh sôi nảy nở ra và đạt kết quả như mong muốn :
Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó. (Bài đọc 1)
Ước muốn của Thiên Chúa là như vậy nhưng ý của con người thì lại khác. Con người nghe lời của Chúa cảm thấy chói tai lắm vì Lời của Chúa là sự thật mà sự thật thì lúc nào cũng mất lòng như ông bà thường nói. Lời Chúa phô diễn tất cả sự thật cho con người để rồi con người ngại nghe Lời Chúa lắm!
Người ta vẫn thường hát: “Lời Chúa dẫn soi con đường đi, Lời Chúa khác chi như dòng suối …” Hát thì to lắm, hát thì hay lắm nhưng thực tại cuộc đời của ta, ta đã đẩy lời của Chúa ra khỏi cuộc đời để ta sống một cách thanh thản. Ta sợ Lời Chúa bám theo ta vì Lời của Chúa sẽ đưa ta đi trong ánh sáng, đi trong chân lý và đi trong sự thật.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, sức mạnh của Lời Chúa vẫn bị bóp ngạt, vẫn bị chà đạp. Điều này dễ thấy thôi vì đời sống kinh tế, đời sống vật chất ngày một phát triển. Những người sống theo Lời Chúa, để cho Lời Chúa hướng dẫn thì cuộc đời của họ sẽ bị thiệt thòi, sẽ bị thua thiệt với người khác.
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”. Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra… để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ. Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe.
Vương Quốc mà Chúa Giêsu đến để thiết lập hoàn toàn khác với vương quốc mà người Do Thái mong chờ. Dù họ đọc Cựu Ước, họ vẫn không hiểu hay không muốn hiểu về vai trò của Ðấng Kitô. Họ muốn và mong chờ một Ðức Kitô theo ý họ chứ không phải theo ý Thiên Chúa. Chúa dùng dụ ngôn để giúp họ mở mắt ra. Không phải là Thiên Chúa không ban ơn cho họ biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng vì họ bị mù quáng bởi những quan niệm cố chấp của họ nên lòng họ không mở ra để lãnh nhận ơn soi sáng của Thiên Chúa. Còn các môn đệ thì đơn sơ, không có thành kiến gì cả, mà tin vào Chúa nên hiểu được những gì Chúa nói.
Nhìn lại cánh đồng truyền giáo ở những nơi truyền giáo. Lời của Chúa thật ra mà nói vẫn phát triển chứ không phải là không nhưng có lẽ cách thức của người chuyển giao lời cần phải coi lại. Nhiều khi người ta dùng phương tiện vật chất để chuyển tải lời Chúa. Ban đầu nhìn thấy cũng thành công đấy nhưng rồi dần dần nó làm sao đó. Quá nhiều kinh nghiệm cho thấy ở những nơi nghèo. Vì nghèo mà được cứu đói, được cứu trợ thì ai mà không thích. Những lần cứu đói, cứu trợ thì họ đến nhà thờ đông nghìn nghịt để nhận được tặng phẩm của “lòng bác ái kitô giáo”. Qua những lần cứu đói đó thì Lời Chúa, Đền Thờ của Chúa bị bỏ rơi vì lẽ họ không nhận được vật chất nữa.
Ở thành thị thì bao giờ cũng vậy, cuộc sống do người ta phải vật lộn với cơm áo gạo tiền hay là người ta hưởng thụ quá nhiều vì giàu có để rồi Lời Chúa cũng khó mà phát triển. Tỷ lệ bỏ Chúa, bỏ nhà thờ những ngày Chúa nhật và Lễ trọng ngày một tăng cao. Người ta vẫn viện cớ cho công ăn việc làm để bỏ Chúa, bỏ Lời của Ngài. Có người bỏ mãi không còn cảm thấy ngại là gì nữa. Bỏ dần bỏ dần để rồi họ không còn sợ gì nữa. Họ bỏ riết rồi họ mất luôn cái cảm thức sợ.
Có những người đã không còn màng chi đến Lời của Chúa cả. Họ đã miệt mài chạy theo tiền bạc, danh vọng, vật chất và dục vọng của họ. Tất cả những điều ấy tưởng chừng như lấp đầy thỏa mãn của cuộc đời họ nhưng dần dần nhất là những ngày đau yếu bệnh hoạn, những ngày tuổi đã về chiều thì thấy rằng tất cả những thứ ấy chỉ là không không mà thôi. Cuối cùng, gia tài vĩnh cửu, gia tài bền vững nhất của con người vẫn chính là Chúa, vẫn chính là Lời của Ngài trao ban cho con người.
Lời Chúa ngày hôm nay đã nhắc lại cho mỗi người chúng ta về mảnh đất tâm hồn của đời ta. Đất tâm hồn của ta thuộc loại đất nào thì chỉ duy mình ta mới biết rõ mà thôi. Cũng có thể chỉ là đất cát hay cũng có thể là đất đầy gai góc. Thế nhưng, ta vẫn tin rằng nếu ta cùng xin Chúa và cộng tác với ơn Chúa thì mảnh đất của ta sẽ trở nên mảnh đất tối.
Nguyện xin Chúa là Lời đã đến trong trần gian này mở lòng mở trí chúng ta ra để chúng ta đón nhận Lời của Chúa được gieo vãi vào lòng đời này và xin cho Lời mà ta đón nhận đó sinh hoa kết quả như lòng Chúa mong muốn.
- Chúng ta thường sống đạo bằng đọc kinh, bằng lãnh nhận các bí tích và bằng tham dự các lễ nghi.
Ðúng vậy, người công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp để sống đạo đâu! Và nếu sống đạo bằng tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ! Vả lại, đạo ở trong các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Ðạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này, Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi, Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích.
Hạt giống được gieo là lời “rao giảng Nước Trời”, là lời Thiên Chúa, là chính Ðức Giê-su Ki-tô vì Ngài là Lời-đã-trở-thành-xác-phàm và ở giữa chúng ta. Lời Thiên Chúa là tiếng nói của Thiên Chúa, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là Ðấng nào? Thiên Chúa đã làm gì cho con người và mong muốn gì ở con người. Lời Thiên Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết được gía trị đích thực của chúng ta và chỉ vẽ cho chúng ta con đường tìm thấy Hạnh Phúc thật. Vì thế, chúng ta phải biết đón nhận lời Thiên Chúa là điều người kể dụ ngôn nhắm tới.
Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, là Lời loan báo tin Mừng bình an, là Lời Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh đất trần gian. Tâm hồn mỗi người có thể là một môi trường thích hợp cho Lời Chúa tăng triển và sinh hoa kết quả, và cũng có thể là môi trường bóp chết Lời Chúa.
Thiên Chúa vẫn gieo lời Người vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11). Và quả thực Thiên Chúa đã không lầm, nhìn lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy cho dù thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, thì trong ông vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối; hay như một thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong lòng của ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn tìm theo chân lý; hoặc một thánh Augustin dù đang bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, cũng vẫn còn một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý… còn nhiều rất nhiều mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận lời Chân lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”. Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi từng người chúng ta. Đối với Ngài, không ai là người bỏ đi kể cả tên trộm trên thập giá. Mỗi người chúng ta đều có một giá trị đặc biệt trước mắt Thiên Chúa. Chúng ta đừng phụ lòng tin của Thiên Chúa. Hãy mở lòng đón nhận ân sủng của Ngài và làm cho ân sủng đó ngày càng phát triển trong đời sống chúng ta.
Trên những mảnh đất khô cằn tình người, chúng ta được Đức Kitô kêu mời trồng tỉa từng hạt giống của yêu thương. Trên những vùng đất khô sạn tin yêu, chúng ta được Đức Kitô kêu mời gieo rắc niềm hy vọng. Từng giây, từng phút, từng ngày, từng năm, chúng ta tin tưởng rằng sức sống sẽ bừng dậy yêu thương sẽ trổ bông. Trong các hoạt động tông đồ, chúng ta không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Chúng ta cứ gieo vãi, nghĩa là cứ khuyến khích, cứ làm việc tốt cho những người chúng ta gặp gỡ, vì chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả, chứ không phải chúng ta (x. 1Cr 3, 5-9).
- Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng tùy theo ơn gọi, điạ vị, chức vụ và khả năng riêng, nhưng có chung một nhiệm vụ là thực hành Lời Chúa và rao giảng Lời ấy cho muôn người qua mọi thời đại để hoa trái của hạt giống ấy lại được gieo rắc vào lòng người khác cho tới thời kỳ sung mãn.
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như vệ đường: Nghe mà không hiểu hay cố tình không hiểu, vì Lời Chúa bắt ta phải thay đổi nếp sống. Tâm hồn chúng ta cũng có thể ví như gai góc: Những lo lắng sự đời với danh vọng của cải, là nỗi đam mê đã bóp nghẹt lời Chúa. Nhưng nếu tâm hồn chúng ta là mảnh đất tốt: Lắng nghe và thấu hiểu, tin cậy và khiêm tốn sống Lời Người, thì ngày mai phía trước sẽ là một vụ lúa bội thu. Như thế, chỉ có thái độ thành tâm lắng nghe Lời Chúa mới là quan trọng, chỉ có sự mau mắn đáp trả Lời Người mới có giá trị. Ai nghe và hiểu được điều đó mới thật có phúc. Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”. Nhưng nghe và hiểu được những đòi hỏi gắt gao của Lời Chúa, quả thật cũng không phải dễ dàng. Và càng khó khăn hơn khi ta dám can đảm thực thi Lời Người.
Kẻ thù của Lời Chúa là não trạng hưởng thụ, là sự dửng dưng nguội lạnh, là sự lười biếng, ngại khó ngại khổ, là lòng tham và ích kỷ, là sự gian dối và lừa đảo, là những sự xấu, sự ác, là những tệ đoan xã hội… Tất cả những kẻ thù ấy sẽ bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa làm cho hạt giống ấy không thể mọc lên và sinh hoa kết quả.
Sau khi kể một dụ ngôn, Đức Giêsu thường nói: «Ai có tai thì nghe» (Mt 11,15; 13,9; 13,43). Câu này có nghĩa: ai hiểu được thì hiểu, hiểu cách nào thì tùy tình trạng hay trình độ tâm linh mỗi người; hoặc ai biết cách nghe thì sẽ hiểu, ai thật lòng tìm hiểu thì sẽ hiểu (x. Mt 7,7-8). Thiên Chúa ban Lời và ân sủng cách quãng đại cho hết mọi người. Nhưng Người không có ép ai phải theo. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Người.
Như vậy, những người không được «ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời» mà họ không hiểu, thì phải chăng họ không có lỗi? – Thật ra họ có được ơn hiểu biết hay không, điều đó tùy thuộc vào việc họ có khiêm cung hay không trong những hiểu biết của họ. Những ai tự hào mình biết tất cả, không cần phải nghe hay học hỏi ai nữa – chẳng hạn các kinh sư, luật sĩ, biệt phái thời của Ngài – thì Ngài càng nói rõ, họ càng không chấp nhận, và càng muốn mưu toan hại Ngài hơn. Thật vậy, họ đã dựa vào những sự thật Ngài nói ra để kết án tử hình Ngài. Vì thế, chính Đức Giêsu cũng khuyên các môn đệ đừng nói chân lý với những kẻ không xứng đáng: «Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em» (Mt 7,6).
Lạy Cha, Lời Đức Giêsu gieo vào lòng mọi người nhưng lại sinh hoa kết trái khác nhau. Nơi người khiêm nhường, dám từ bỏ mình, dám dấn thân sống theo Lời Ngài, thì Lời Ngài sinh hoa kết quả bội phần. Còn kẻ tự hào tự mãn về những hiểu biết của mình về Lời Ngài, thường không chịu sống theo Lời ấy. Lời Chúa trong họ bị ngạt bởi chính «cái tôi» của họ, bởi lòng ham uy danh và quyền lợi của họ, bởi chính những hiểu biết mà họ tự cho là đã quá đủ. Xin Cha cho con biết khiêm nhường, biết từ bỏ mình, để lòng con trở thành một thửa đất tốt thuận lợi cho Lời Chúa sinh hoa kết trái như Cha mong ước.
Ai đã có thì được cho thêm. Người nào nghe và tin vào Chúa cùng đem Lời Chúa ra thực hành, tức là theo Chúa, thì Chúa ban ơn cho mỗi ngày một hiểu biết sâu xa hơn về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Còn người nào không theo Chúa thì từ từ sẽ quên hết những lời Chúa dạy, và mỗi ngày một ra mù quáng, như là bị lấy đi mất vậy.
Thái độ thành tâm, thiện chí lắng nghe Lời Chúa mới quan trọng; đáp trả, cho đi, chia sẻ mau mắn Lời Chúa mới có giá trị lớn lao. Chúa Giêsu nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe” ( Mt 13, 16 ). Tuy nhiên, nghe và thấm nhuần, hiểu rõ ràng Lời của Chúa không phải là chuyện dễ dàng và càng không dễ dàng tí nào khi con người đem Lời Chúa ra thực hiện trong cuộc sống của mình.
Để đức tin, để ơn cứu độ được đến với muôn người, muôn dân tộc, cần có những con người gieo giống và những hạt giống tốt được gieo.
Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng; thì đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta, thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh đất của đời tôi? Bởi vì Lời Thiên Chúa là Lời sống động kia mà! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.
Nói cách khác, phải biến cuộc sống trở nên lời chứng sống động của Lời Chúa. Phải cất đi những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa kết trái đơm hoa.
Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4,18), cho dù phải đối diện với đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín mạnh mẽ rằng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần nhân loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong thời đại nầy, những người như Mẹ Têrêsa Calcutta, những vị giáo hàng thánh thiện như hai Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, thì làm sao vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội thu như hôm nay? Bên cạnh những tượng đài vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng vĩ đại,…
Và như thế chúng ta xác tín rằng, một khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi đã trở thành người gieo giống, .và một khi đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với một cõi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa đường đi của Lời Chúa là “đường đi phải đến”, phải đến để mảnh đất trần gian nầy bớt đi những cỏ lùng hoang dại và trổ sinh những hoa trái tốt lành.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (bài đọc 1).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là “đất tốt”, nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN A
3 dụ ngôn … CỎ LÙNG và LÚA – HẠT CẢI, NẮM MEN
Bài đọc 1: Kn 12, 13. 16-19
Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Chúa đã nhiều lần bị kẻ thù làm khổ. Mặc dù cuối cùng rồi Thiên Chúa cũng giải thoát họ, nhưng họ vẫn ấm ức sao Chúa không ra tay sớm, sao Ngài không tiêu diệt chúng cho hết sạch. Câu trả lời là: những kẻ thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, cũng được Ngài yêu thương. Cho nên mặc dù Ngài có đầy đủ sức mạnh và uy quyền để tận diệt họ, nhưng Ngài chỉ sử dụng sức mạnh đối với kẻ ngoan cố. Còn đối với những kẻ mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi họ sám hối để được thứ tha.
Chúa Nhật này Hội Thánh Hội Thánh nhắc nhở chúng ta về lòng từ bi và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Bài đọc thứ nhất trong Sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa chăm sóc cho người công chính và kiên nhẫn với tất cả mọi người. Ngài không đối xử bất công với bất cứ ai. Chính vì thế mà bài Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa là Đấng “từ bi, nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung.”
Tin mừng: Mt 13, 24-43
- Cỏ lùng là thứ cỏ trông rất giống với lúa miến. Loại cỏ dại này rất giống cây lúa khi mới mọc lên, nên rất khó phân biệt với lúa. Chỉ khi trổ bông thì mới khác với lúa, lúc đó thì rễ của cỏ và lúa đã quấn với nhau nên không thể nhổ một mình cỏ được. Tại sao lại phải chờ cho đến mùa gặt mới làm sạch cỏ. Và sau đây là lý do của ông chủ: “Kẻo khi nhổ cỏ, các anh lại nhổ luôn cả lúa” (Mt 13:29).
Trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta ngày nay, chúng ta ở trong một tình cảnh rất tương tự. Sự thật của Lời Chúa trở nên lẫn lộn với sai lầm của thế gian. Sự tốt lành của Thiên Chúa và các giáo huấn của Chúa, những sự tốt lành đó lớn lên với những thứ xấu xa và đôi khi rất khó phân biệt cái nào ra cái nào. Bởi vì sự yếu đuối mỏng dòn của chúng ta, đôi khi chúng ta không thể phân biệt sự thật và giả trá.
Hạt cải: Hình ảnh ẩn dụ “chim trời đến ẩn náu trong cành của nó” lấy từ Cựu ước. Sách Đaniel 4 và Ezekiel 31 so sánh vua Aicập như một cây to lớn, “thân nó cao lớn hơn mọi cây cối trong cánh đồng, chồi lộc ra nhiều, cành lá vươn rộng” (Ed 31,5), mà các chư hầu như chim trời tìm đến ẩn náu và làm tổ: “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy nở sinh sôi, và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến cư ngụ” (Ed 31,6; x. Đn 4, 9.18). Êdêkien gợi ra tương lai của Giêrusalem theo cùng một cách như vậy. Đức Chúa ngắt một chồi non trên ngọn cây hương bá đem về trồng trên núi Israel. Chồi non này trở thành một cây hương bá tuyệt diệu, nơi ẩn náu của đủ loài chim muôn (Ed 17). Hội Thánh giống như hạt cải mà Chúa Giêsu ám chỉ bên bờ hồ Tibêria, cây cải có thể cao tới 3 thước. Bởi đó, hình ảnh nầy được dùng trong dụ ngôn ám chỉ việc các dân tộc tìm đến Nước Trời vào thời cánh chung, để được cư ngụ và hưởng sự sống trong đó.
Men: Khi bột được trộn men thì nở phồng khiến khối lượng tăng vọt, có khi gấp đôi, gấp ba khối lượng ban đầu lúc bột chưa trộn men.
- Nước Trời xuất hiện từ thời được loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và của Hội Thánh tiên khởi trong sự khiêm tốn và khó nghèo. Đây là giáo huấn cốt lõi của dụ ngôn Hạt cải, nắm men. Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh này để nói tới thời kỳ đầu tiên của việc truyền giáo của Ngài và của Giáo Hội…Tuy bước đầu có vẻ nhỏ bé, khiêm hạ nhưng nó phát triển âm thầm, lặng lẽ nhưng thật đáng khích lệ. Thánh Matthêu viết: trên cành cây cải, chim trời có thể đậu và trú ngụ. Điều này cho thấy các dân ngoại giáo lúc đó được kết nạp vào Giáo Hội tiên khởi của Chúa Giêsu. Dụ ngôn hạt cải và nắm men tương xứng với nhau. Một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Một hạt cải nhỏ bé có thể mọc lên một cây to lớn khiến chim trời có thể tới đậu. Chúa muốn nói lên Nước Trời đã tới, đang ở giữa nhân loại. Men Nước Trời là ơn thánh. Ơn thánh ta không thấy nhưng ngấm ngầm hiệu nghiệm, sinh hoa trái tốt đẹp trong tâm hồn con người và trong sứ điệp cứu rỗi của Chúa Giêsu.
Dụ ngôn hạt cải ám chỉ sự tăng trưởng, sự lớn dậy của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men ám chỉ đến sự biến đổi ngấm ngầm bên trong, nghĩa là chiều sâu của Giáo Hội.
Hai hạng người tốt và xấu ấy luôn luôn sống cạnh nhau, lẫn lộn nhau, ảnh hưởng nhau, làm lợi mà cũng làm hại lẫn nhau. Người tốt thường phải đau khổ vì bị người xấu hãm hại, ức hiếp để họ được giàu có, uy quyền… Nhưng không thiếu những trường hợp người tốt cảm hóa được kẻ xấu, biến kẻ xấu thành người tốt. Chính vì thế, nếu người tốt biết tích cực hoạt động cho điều thiện, biết làm gương sáng, họ có thể trở thành «men tốt» (Mt 13,33), biến những người xấu chung quanh mình thành người tốt. Gương sáng của họ giống như những «hạt cải» mà Đức Giêsu nói đến (Mt 13,31-32), tuy nhỏ bé, nhưng sẽ lớn lên, ảnh hưởng đến toàn xã hội và thế giới. Trường hợp của Mẹ Têrêxa Calcutta là một điển hình. Giáo Hội mà có được thật nhiều «hạt cải» hay «men tốt» như vậy thì thế giới mới trở thành Nước Trời.
- Chúa Giêsu đã giải nghĩa dụ ngôn. Người nói Người là kẻ gieo giống, hột giống tốt là con cái nước trời, những cỏ lùng là những con cái kẻ dữ, và đồng ruộng là thế gian và mùa gặt là ngày tận thế. Chính Giáo Hội là một cánh đồng, trong đó những hột giống và những cỏ lùng, những kẻ tốt và những người xấu, đều mọc lên chung, là một nơi có chỗ để mọc, để được cải thiện và hơn hết để bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. “Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại” (Th.Augustine).
Giáo Hội là một sự pha trộn giữa lúa mạch và cỏ lùng, giữa những người thánh thiện và tội lỗi. Hãy kiên nhẫn với những tội nhân. Ðừng vội phán đoán người khác. Hãy để Thiên Chúa phán đoán. Chúng ta không nên làm công việc mà chỉ Thiên Chúa mới làm được và chỉ dành cho Ngài: «Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1). «Chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, chúng ta là ai mà dám xét đoán người khác?» (Gc 4,12). Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Mặt khác, chúng ta cũng không thể đánh giá người này là tốt, còn người kia là xấu, vì cái nhìn của chúng ta không khách quan đủ, và cũng không nhìn hết mọi mặt của một con người. Hơn nữa, con người là một thụ tạo có tự do, nên việc đánh giá còn khó khăn hơn.
Trước một thế giới trong đó vàng thau lẫn lộn, người ngay kẻ dữ chung sống cùng nhau, Thiên Chúa không vì thế mà chán nản, trái lại Người luôn luôn kiên trì, nhẫn nại và chờ đợi. Chúng ta có thể hiểu câu nói “Cứ để cả hai cùng lớn lên” của ông chủ trong Tin mừng như là một sự kiên nhẫn và thời gian chính là yếu tố cần thiết để nước trời lan rộng hầu nhiều người được hưởng ơn cứu độ. Điều này được thể hiện rất rõ trong hai dụ ngôn về hạt cải và nắm men mà Chúa Giêsu cách nào đó muốn cổ xúy việc Thiên Chúa vẫn luôn kiên trì không nao núng.
Theo ý nghĩa của dụ ngôn thì lúa miến và cỏ dại tượng trưng cho sự lành và sự dữ. Thánh kinh dạy ta có sự hiện diện của thần dữ trong thế gian. Và sự dữ là cái sản phẩm của tự do mà Thiên Chúa đã ban cho loài thụ tạo, cho thiên thần cũng như loài người. Lucifer vì bất tuân phục Thiên Chúa, nên đã trở thành thần dữ. Ađam vì không vâng lệnh Thiên Chúa nên đã để cho tội lỗi lọt vào thế gian. Vì thế bao lâu con người còn tại thế, thì thiện ác, tốt xấu, vẫn xen lẫn với nhau và gây xung đột trong lòng người. Kẻ thù của Nước Trời hằng rình chực lúc con cái sự sáng ngủ mê, không tỉnh thức cầu nguyện, không sống và thực thành Lời Chúa, để gieo vải cỏ dại là tính mê nết xấu vào tâm hồn loài người.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta phải đối mặt với biết bao những đau khổ bởi chiến tranh, bệnh tật, tai nạn, bất công, nghèo đói và cả tội lỗi nữa… Tất cả những điều đó, có thể gọi chung là sự dữ. Đối diện với sự dữ nhiều người đã phải tự hỏi về sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa trong vũ trụ. Dụ ngôn là một câu trả lời của Chúa Giêsu và thắc mắc mà các môn đệ thường nêu lên, là tại sao Thiên Chúa không trừng phạt nhãn tiền những kẻ làm điều gian ác? ‘Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ’.
- Chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước mọi cơn cám dỗ. Chúng thường đến vào lúc “đêm khuya khi chúng ta đang ngủ”, nghĩa là lúc chúng ta không ngờ, thiếu đề phòng nhất để gieo “cỏ lùng”. Cỏ lùng đó có thể là một cơn nóng giận, một sự tự ái, hay lòng tự trọng của chúng ta bị người khác gièm pha. Đồng thời, chúng ta cũng phải hết sức vun xới và chăm bón cho “cây lúa” trong mỗi người chúng ta được phát triển nhờ việc luôn gắn bó với Chúa trong đời sống cầu nguyện, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần như lời nhắc bảo của thánh Phaolô: “Có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta” (Rm 8, 26).
Hôm nay mỗi người phải nhận thức rằng nhiều cám dỗ để làm bậy là do khuynh hướng xấu trong con người chứ không chỉ do ma quỉ bày đặt. Đó chính là điều mà Thánh Phaolô đã nhận ra có hai khuynh hướng hay hai lề luật phản nghịch nhau nơi loài người: “Cái điều thiện tôi muốn làm thì lại không làm, còn điều ác tôi không muốn làm, thì lại cứ làm” (Rm 7,19). Thánh Phaolô muốn nói là thần trí ta muốn vươn lên, nhưng xác thịt cứ kéo ghì ta xuống. Gương xấu và sự dữ ở trong thế gian giống như cỏ dại, có thể gây ảnh hưởng xấu và làm hại ta bất cứ lúc nào. Và cái hậu quả của sự dữ có ảnh hưởng đến người xung quanh, tốt cũng như xấu. Không phải chỉ có ma quỉ mới gieo cấy cỏ lùng. Nếu không tỉnh thức, coi chừng chính ta là người tiếp tay tung rắc cỏ lùng vào đời kẻ khác. Có cha mẹ gieo gian dối, tham lam vào lòng con cái mà không biết…
Và ngay trong cõi lòng của mội cá nhân cũng đầy rẫy những sự trái ngược. Lúc tốt lúc xấu. Lúc vị tha lúc ích kỷ. Lúc cảm thông lúc nghi kỵ. Lúc rộng rãi lúc hẹp hòi. Có lúc chân thành có lúc lừa dối. Có lúc bác ái có lúc hận thù. Có khi công bằng có khi thiên lệch. Có khi ngay lành có khi tâm địa ác độc. Có lúc vô tư có khi ác ý. Trong bài giảng trong thánh lễ khai mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney, Đức Hồng Y George Pell lấy ý từ thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Galát đã nhắc nhở “mỗi người phải nhìn nhận rằng mình đang ở trong trận chiến muôn thuở giữa thiện và ác”.
- Thiên Chúa luôn khoan dung và kiên nhẫn
“Thiên Chúa chậm bất bình và giàu lòng nhân ái”: Chân lý nầy thật sự đâu phải lần đầu được mặc khải nơi đây. Từ thuở hồng hoang thời Cụ Tổ Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã nói với chúng ta “sự thật hi hữu” nầy qua câu chuyện mặc cả của Áp-ra-ham với Gia-Vê Thiên Chúa về việc xử phạt thành Sô-đô-ma: “Nếu trong thành có 50… 45… 40…30…20…10 người lành, Chúa có phạt không? “. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi để Áp-ra-ham tìm cho đủ số 10 người lành. Nhưng cuối cùng, lòng nhẫn nại và khoan dung phải nhường chỗ lại cho công lý. Sô-đô-ma phải được thanh luyện để trả lại sự thánh thiện cho Thiên Chúa. (x. St 18,22-33). Chúng ta cũng đừng quên câu chuyện “thờ bò vàng” của dân Ít-ra-en vào thời Mô-sê dẫn đưa họ trở về Đất Hứa: “Ta đã thấy dân nầy rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng…”. Lại một Mô-sê can gián, và “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Chúa như Người đã đe”. (Xh 32,7-14). Ngài giận trong giây lát, nhưng thương yêu suốt cả đời.
Quả thật, khi đối diện với những thảm cảnh xảy ra hằng ngày trên thế giới: Những trẻ thơ, những dân lành bị giết cách cách vô tội và tàn khốc bởi những cuộc khủng bố tự sát; những cuộc chiến tranh dã man, những đồi bại phong hóa, những tội ác ghê rợn: con giết cha, vợ chém chồng….đã khiến không ít người trong chúng ta đâm ra hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại cứ để những chuyện oái ăm như thế xảy ra hoài. Sao Ngài không ra tay “nhỗ sạch những cỏ lùng tai ác đó đi?”. Chính dụ ngôn “Cỏ lùng trong ruộng lúa” mà chúng ta vừa nghe trong trích đoạn Tin Mừng Matthêô sẽ là câu trả lời “dứt dạc” của Đức Kitô cho vấn nạn trên. Thiên Chúa không đồng lõa với sự ác, nhưng vì tình thương, người khoan dung nhân hậu, đợi chờ hoán cải, mở đường sám hối ăn năn.
Thật vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ tin vào Người Con ấy mà được cứu độ (x. Ga 3,17-18). Hơn thế, Người còn luôn tỏ ra kiên nhẫn với người tội lỗi: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Êd 33,11). Chính vì tin vào thiện chí và lòng hướng thượng của những kẻ gian ác mà vị chủ ruộng (tức Thiên Chúa) đã trì hoãn việc nhổ cỏ lùng ngay, vì Người chẳng muốn nhổ lầm những mầm lúa tốt trong tâm hồn những kẻ ác (c.29). Ai ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm sự khoan dung của Thiên Chúa đối với bản thân mình. Giả sử Thiên Chúa chấp tội và cho tôi chết trong lúc tôi sống mất ân nghĩa với Chúa, thì tôi đã sa vào lửa đời đời. Thế nhưng, Người đã dung thứ tôi vì Người yêu tôi; vì Người tin vào khả năng hướng thượng của tôi; và vì vậy Người kiên nhẫn chờ đợi, cho tôi cơ hội để làm lại cuộc đời, để nhổ bớt cỏ lùng trong tôi trước khi “mùa gặt” (tức sự phán xử của Thiên Chúa) đến.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nghe Ngài phán: Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chí người công chính không cần sám hối ăn năn. Và Ngài đã kết luận bằng một hình ảnh cảm động, hình ảnh người cha đón tiếp cậu con hoang đàng trở về. Trong thực tế, sự khoan dung và nhẫn nại của Chúa đã làm phát sinh nhiều vị Thánh lớn từ những người tội lỗi (Maria Mađalêna, Mátthêu, Au-tinh…) Do vậy, nếu mỗi người tội lỗi biết noi gương các vị thánh đó, tận dụng khoảng thời gian Thiên Chúa “gia hạn” cho họ trước khi mùa gặt đến, thì từ một Âu-tinh theo bè rối và sống buông thả lúc còn trai trẻ, sẽ có thể chỗi lên một vị thánh Giám Mục và Tiến Sĩ cho Hội Thánh.
Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê, đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa. Với hình ảnh của ruộng lúa tốt và cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải lòng nhân từ và sự tha thứ vô biên của Thiên Chúa; đối với Thiên Chúa không có tội ác nào, dù cho có tày trời đến đâu mà không thể tha thứ được. Như một người cha ngày ngày ra đứng trước cửa trông ngóng người con hoang đàng trở về, thì Thiên Chúa cũng có một thái độ chờ đợi kiên nhẫn như thế đối với tất cả mọi tội nhân, dù cho con người có đốn mạt xấu xa đến đâu thì Chúa vẫn luôn dành cho một cơ may mới để trở về với Ngài. Nơi tâm hồn con người dù có tăm tối đến đâu, Thiên Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng mà chính Ngài đã đặt để trong trái tim con người. Chính vì tin tưởng nơi khả năng có thể cải thiện của con người mà Thiên Chúa không ngừng tha thứ cho con người và kiên nhẫn chờ đợi con người trở về.
- Dụ ngôn về cỏ lùng được Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, mời gọi các Kitô hữu mặc lấy tâm tình khoan dung nhân hậu và cảm thông của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không khoan nhượng, không dung tha cho bất cứ tội ác nào. Ngài gay gắt lên án thói giả hình và thái độ mù quáng của con người, nhưng Ngài lại tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những người yếu đuối tội lỗi, Ngài không những cảm thông với những người tội lỗi, mà còn tha thứ cho chính những kẻ hành hạ Ngài.
Trong dụ ngôn cỏ lùng, chúng ta không thấy được người chủ ruộng hay Chúa Giêsu phân biệt rõ giữa tội nhân (người phạm tội) và tội lỗi rõ rệt như trong câu chuyện ” người phụ nữ ngoại tình” ( Jn 8, 1-11): ” Ta cũng vậy, Ta cũng không lên án con! Thôi con cứ ra về,và từ nay đừng phạm tội nữa” (Jn 8, 11). Câu trả lời vừa kể của Chúa Giêsu cho người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu phân biệt hai tư tưởng rõ rệt: tội nhân và tội lỗi. Con người có thể lầm lỡ, nhưng con người có thể hối cải, hoàn thiện. Tội lỗi, ý thức hệ sai lạc, chế độ gian manh lừa lọc và phương cách hành xử bất chính, là những thực thể cần phải loại trừ không thương tiếc.
Vì thế bao lâu con người còn tại thế, thì thiện ác, tốt xấu, vẫn xen lẫn nhau như lúa miến và cỏ lùng và gây xung đột trong lòng người. Kẻ thù của nước Trời hằng rình chực lúc con cái sự sáng ngủ mê, không tỉnh thức cầu nguyện, không sống và thực hành lời Chúa, để gieo vãi cỏ dại là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu vào tâm hồn loài người. Dưới chiêu bài tự do: tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng và tôn trọng quan điểm cá nhân, người ta tự do gieo vãi hạt giống cỏ lùng vào thế gian, trong xã hội ta đang sống bằng đủ mọi phương tiện truyền thông xã hội như sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, mạng tin tức hầu làm tắc nghẽn lời Chúa, làm sa đoạ lòng người, làm lũng đoạn vườn nho của Giáo hội. Tội ác phạm đến Chúa, đến tha nhân và đến chính mình xẩy ra hằng phút trên thế giới.
Đứng trước một thế giới như thế, sứ mệnh của mỗi người Kitô hữu đó chính là nỗ lực đẩy lùi sự dữ, chung tay kiến tạo Nước trời. Nói theo ngôn từ của Đức giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, đó chính là công cuộc xây đắp “nền văn minh tình thương và sự sống” để thay thế cho nền văn minh xây dựng trên hận thù và sự chết.
Chúng ta phải cảnh giác không để cỏ dại lấn át lúa tốt, nhưng cũng không nên thất vọng, buông xuôi, mà phải phấn đấu trong hy vọng tới mùa gặt mọi sự sẽ được rõ ràng. Dầu sao thì hạt giống tốt, là lời Chúa cũng đã được gieo trong trái tim mỗi người. Nó đã nẩy mầm và đang lớn. Chúng ta không vật lộn một mình với những điều ác. Thiên Chúa cùng chiến đấu với chúng ta. Phụng vụ bài đọc 2 nhắc nhở mỗi người lời thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma: “Có thần khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính thần khí cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa đấng thấu suốt tâm can, biết Thần khí muốn nói gì, vì Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.” Chúng ta phải tin cậy vào Chúa Giêsu, đấng gieo hạt và biết rõ tình trạng từng hạt một và những gì đang xảy ra trong cánh đồng mình. Ngài sẽ giúp ta sắp xếp cuộc đời mình cho đẹp lòng Thiên Chúa. Tất cả những sự kiện này có thể tóm tắt trong một từ ngữ quen thuộc, nhưng chẳng bao giờ hiểu cho hết. Đó là: ơn thánh Chúa. Và Thánh Phaolô nói cách tuyệt vời rằng: “Có Chúa Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta” (Rm 8,26).
Cỏ lùng và lúa khiến chúng ta hiểu rõ hơn khía cạnh bất toàn của con người, khía cạnh không hoàn hảo của thế gian, nên mới có ánh sáng và bóng tối. Thật ra, khó mà phân biệt rạch ròi giữa “người tốt” và “kẻ xấu”. Không ai hoàn toàn xấu, cũng như không ai hoàn toàn tốt về mọi mặt cả. Hội Thánh cũng chỉ là đoàn người đang lữ hành, đang tiến tới, trong đoàn lữ hành có những người đang gần Chúa nhưng cũng có nhiều người xem như xa lạ với Chúa. Là người Kitô hữu chính là nhập cuộc, đồng hành với đoàn người lữ hành ấy với lòng tin, với tấm lòng quảng đại, trái tim nhạy cảm và luôn tha thứ, cảm thông. Yêu mến Giáo Hội là biết cảm thông và xây dựng Giáo Hội theo chiều hướng tích cực. Các thánh là những người đã sống canh tân Giáo Hội bằng chính sự cảm thông, từ bỏ và hy sinh của chính bản thân mình. Bài học của dụ ngôn cỏ lùng và lúa, men và nắm bột dậy ta luôn biết sống tình thương, luôn phát ra những tia sáng của tình thương để ta luôn cảm thông với những người yếu hèn nhưng biết ăn năn hối cải…
- Dụ ngôn hôm nay cũng là điều hết sức an ủi cho mỗi người chúng ta. Nó là câu truyện của ơn thánh, kiên nhẫn và hy vọng. Ai trong chúng ta mà không phạm lầm lỗi? Thường khi là tày trời, không thể đếm. Nhìn lại quá khứ mỗi người đều hổ thẹn với lương tâm. Nhưng may mắn thay Thiên Chúa còn cho chúng ta thời gian để ăn năn, sửa chữa các lỗi lầm, thời gian để tìm ra những sai sót thiêng liêng và phương pháp uốn nắn. Chúng ta biết ơn Ngài đã kiên nhẫn cùng cực với chúng ta, ban cho chúng ta những trợ giúp cần thiết để hoán cải trở thành những tôi trung của Ngài. Xưa kia là những cỏ dại, lúc này biến đổi thành lúa tốt. Còn chi hạnh phúc hơn? Giả dụ Ngài xét đoán và kết án ngay khi chúng ta phạm tội phản bội với ơn Ngài, thì hỏi bây giờ chúng ta ra sao?
Tóm lại, trong cánh đồng màu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu … luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi”. Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta củng cố niềm tin còn non yếu của mình để thấy rằng, dù bất xứng nhưng chúng ta cũng tự hào vì mỗi người chúng ta được Chúa kêu mời trở nên hạt cải, trở nên nắm men và là hạt lúa cho cánh đồng truyền giáo hôm nay. Chớ gì niềm tự hào đó được lớn lên mỗi ngày ngõ hầu nước Chúa được rộng mở và mọi người nhờ đó được hưởng nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa tình yêu.
Tình thương thì nhẫn nại, nên Thiên Chúa luôn chờ đợi thiện chí hoán cải của từng người, đồng thời Ngài còn ban ơn nâng đỡ họ trên mọi bước đường đời, để rồi cuối cùng, ngày thầm phán mới tới, ngày xét xử tuyệt đối công mình và không ai có thể trách cứ Ngài là đã không dủ lòng thương xót.
Hội Thánh cũng có sứ mạng biến nhân loại từ tình trạng ích kỷ bất công nên vị tha nhân ái. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của ân sủng Chúa. Chính Chúa sẽ hoàn tất những điều tốt đẹp nơi chúng ta. Tựa như một cây cải nhỏ bé tưởng chừng như bị nuốt chửng giữa cỏ dại um tùm nhưng một lúc nào đó nó sẽ trở thành cây cao bóng cả. Hay việc tốt chúng ta làm tuy nhỏ bé như nắm men được ủ vào ba thúng bột, thế mà nó làm cho tất cả đều phải dạy men. Hãy kiên nhẫn rèn luyện nhân đức. Hãy kiên nhẫn sửa lại lỗi lầm bằng những việc cao thượng hơn hầu khống chế những tính hư nết xấu trong ta.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đã ban cho Kitô hữu nhiều vũ khí chống lại sự dữ, chống lại cỏ dại trong đời. Đó chính là Lời Chúa, Thánh Thể và nhất là Đức Chúa Thánh Thần, ban sức sống, sức mạnh, can đảm chống lại ba thù, chống lại cỏ dại đương thời.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN A
kho báu, ngọc quý và chiếc lưới
Bài đọc I (1V 3,5.7-12)
Salomon lên ngôi vua kế vị Ðavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của ông là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa. Khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh… và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Thái độ khôn ngoan và lời cầu xin rất khôn ngoan của vua Salomon chẳng những đã được Chúa nhận lời, còn hơn nưã, Chúa khen ngợi ông: Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây, Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Khôn ngoan là gì? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: “Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan”. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài đọc II, Thánh Phaolô tông đồ là chứng nhân hùng hồn của điều này khi Ngài viết thư cho Philip 3,7-8: Tất cả những gì mà trước kia Ngài xem là một mối lợi thì bây giờ đều là thua xa với cái lợi là được Đức Giêsu Kitô, nên Ngài vui mừng mà lên tiếng cho mọi người hiểu.
Tin Mừng (Mt 13,44-52)
- Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này. Ðoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn: Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy. Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua): Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa: kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.
Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Ðương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả, vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc, của cải mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc, của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi ở đời sau. Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
Ðể tìm ra Nước Trời và đi vào trong đó, chúng ta cần có ơn khôn ngoan sáng suốt. Có ơn khôn ngoan sáng suốt chúng ta mới thấy được gía trị đích thực của Nước Trời. Có ơn khôn ngoan sáng suốt chúng ta mới dám đánh đổi tất cả để chiếm cho bằng được kho tàng không hư mất ấy. Có ơn khôn ngoan sáng suốt chúng ta mới biết cách làm cho mình thành những con cá tốt – tức Ki-tô hữu tốt – trong chiếc lưới mà Thiên Chúa đã tung vào trần gian, để kéo mọi thụ tạo về với Ngài: chúng ta sẽ không bị vứt ra ngoài mà được đem vào Nước của Ngài. Ai trong chúng ta cũng cần đến ơn khôn ngoan sáng suốt. Nhưng những người càng có trách nhiệm lớn với anh em, với cộng đoàn, với Dân Chúa thì càng cần đến ơn khôn ngoan sáng suốt này hơn. Chúng ta xin Chúa cho chúng ta được khôn ngoan để biết đi tìm kiếm nước trời và sống tất cả cho nước trời.
- Trong hai dụ ngôn kho báu và ngọc quý, Nước Trời được trình bày như một kho tàng được chôn giấu dưới lòng đất. Muốn khám phá hay tìm được Nước Trời người ta phải mất công lùng sục, vất vả tìm kiếm. Còn trong dụ ngôn chiếc lưới thì Nước Trời được trình bày như một thực tại bao trùm cả và thiên hạ. Nhưng muốn được ở trong Nước Trời thì chúng ta phải là người tốt, người công chính theo Tin Mừng.
Trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến. Các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục. Cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ. Các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu … Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, để tìm kiếm và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về “niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có …” Ngài ban cho kẻ tìm kiếm Ngài một niềm vui hơn hết mọi sự và tìm kiếm không biết mỏi mệt.
Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu. Qua đó, cho chúng ta thấy, Nước Trời không phải có thể đạt được bằng sự may rủi, bằng sự gian tham; Nước Trời cũng không phải do người khác đưa tới cho mình hưởng… nhưng là phải do tự chúng ta mua lấy, đạt được bằng chính cuộc sống của chúng ta. Một cuộc sống theo những giới răn của Chúa: Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ…
Thiên Chúa ban cho chúng ta kho tàng ân sủng của Ngài, và để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với tinh thần trần tục hóa của thế gian để được trung thành với ơn Chúa.
Ðức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Ðức Giêsu là viên ngọc quí, là Nước Trời, người tín hữu phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất mát tất cả, phải từ bỏ mọi sự để được sống với Người, để chọn Người làm lẽ sống, và để được Người là được tất cả. Có Chúa là có tất cả, có Chúa thì không còn thiếu chi….. Là một Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúa Giêsu luôn kêu gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm… Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.
Tông đồ Phaolô xem ra cũng có ý nói về điều đó khi viết cho dân thành Philipphê rằng: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Ðức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô và được kết hợp với Người.” (Pl 3,7-9).
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống… đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
- Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Nhưmg dầu sao đi nữa, hiện nay chúng ta là những Kitô hữu, là những người được gia nhập Nước Trời tại thế qua Hội Thánh, chúng ta hãy ra sức gìn giữ hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã cho chúng ta, nên hãy hân hoan vui mừng đi trong đường lối của Chúa. Chúa vẫn ở bên ta, vẫn đồng hành với ta trên con đường tiến về quê trời.
Hơn ai hết, người Kytô là những người khôn ngoan. Bởi chúng ta đã tìm thấy kho tàng đức tin vô cùng cao quý mà Thiên Chúa -qua Chúa Thánh Thần, đã phú ban. Kho tàng đức tin đó mời gọi chúng ta, thúc giục chúng ta hãy mau mau tìm cách để sở hữu cho bằng được. Mỗi chúng ta đều có thể sở hữu được nó nếu chúng ta biết từ bỏ, biết cắt tỉa những gì rườm rà, cản trở, không cần thiết cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Kho tàng đức tin đó sẽ ở trong tầm tay nếu chúng ta biết tuân giữ những huấn lệnh của Thiên Chúa, biết làm chứng cho chân lý và sẵn sàng để cho Chúa hướng dẫn. Có như thế, hành trình tìm đến với đức tin của chúng ta không trở nên vô ích, trái lại sinh nhiều hoa trái thiêng liêng và mưu ích cho tâm hồn.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta hân hoan vui mừng vì chúng ta đang sở hữu một báu vật trong tâm hồn, đó chính là kho tàng Lời Chúa và Thánh Thể. Mong sao kho tàng ấy luôn mãi hiện diện với chúng ta và càng làm cho đời sống chúng ta thêm sức mạnh và phong phú ngõ hầu kho tàng đó, qua chúng ta, toả ánh sáng và ngào ngạt hương thơm đến muôn người.
Nước Trời mà Chúa hứa, Người đã ban tặng, đã trao cho mỗi người chúng ta. Trong ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, ta đã lãnh lấy viên ngọc quí giá ấy. Vấn đề còn lại là thái độ sống của ta: khước từ hay đón nhận viên ngọc ấy. Nghĩa là đón nhận hay khước từ lời mời gọi hưởng vinh quang Nước Trời. Sự đón nhận hay khước từ đều là những chọn lựa. Nếu chọn lựa đòi hy sinh, thì lãnh lấy viên ngọc Nước Trời buộc ta phải đi những bước quyết định và can đảm trong sự từ bỏ: từ bỏ những thú vui bất chính, những thú vui nhục dục, từ bỏ những thói quen xúc phạm đức trong sạch, những thói quen cản bước ta tiến về sự thánh thiện, từ bỏ nỗi đam mê tiền bạc đến mức làm ta bất chấp sự lương thiện, ngược lại cứ mải mê trong lừa lọc, trộm cắp, mải mê trong tính toán, vụ lợi cho bản thân, cho gia đình mình.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN A (x. CN 17 năm B)
Hóa bánh ra nhiều
Bài đọc I (Is 55,1-3)
Ðoạn này thuộc về chương cuối của phần II sách Isaia (“sách an ủi”, gồm các chương 40-55). Ðệ nhị Isaia công bố lời Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Bữa tiệc này rất đặc biệt: những món ăn rất thịnh soạn toàn đồ bổ và cao lương mỹ vị; bữa tiệc hoàn toàn miễn phí; người được mời là những kẻ nghèo khổ, đói khát, không tiền bạc, cũng không có gì để đổi chác.
Dĩ nhiên, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng: tượng trưng cho sự thỏa mãn những khát vọng của con người, tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
Bài đọc 2 (Rm 8,35, 37-39): Trong đoạn thư này, thánh Phaolô biểu lộ niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Tình yêu của Chúa Kitô chiến thắng tất cả, vì thế không có gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô, dù bị gian nan thử thách như gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
Tin Mừng (Mt 14,13-21)
- Phép lạ hóa bánh ra nhiều- Bí tích Thánh Thể. Thánh Matthêu rõ ràng muốn so sánh với phép lạ manna thời Xuất Hành và bí tích Thánh thể mà Chúa Giêsu sẽ lập: thời xưa Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái no nê bằng thứ lương thực diệu kỳ là manna. Thời nay Chúa Giêsu còn nuôi dân mới bằng một thứ lương thực diệu kỳ hơn nữa là Bí tích Thánh Thể. . Con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa». Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói “Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn”… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA, số 41§2).
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”- Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Cái ăn, cái mặc về phần xác quả rất cần, nhưng: ”Người ta sống không nguyên bởi bánh”, chỉ ra rằng còn một thứ lương thực quí giá hơn của ăn thường ngày gấp bội là Mình và Máu Chúa Giêsu. Giáo Hội được thành lập trên nền tảng các tông đồ luôn cử hành lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu: ”Này là Mình Ta…Này là Máu Ta”…Lời ấy đã làm cho Bánh và Rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Giêsu…
Trong phép lạ này Ðức Giêsu làm những cử chỉ gợi ý về những cử chỉ như thấy trong thánh lễ. Các tác giả nhất lãm mô tả phép lạ hoá bánh ra nhiều bằng ngôn ngữ Thánh thể: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,19). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều chính là hình bóng của Bí Tích Thánh Thể.
Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân Do Thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân Do Thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân Do Thái.
- Bài học mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Ðói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Ðó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Ðức Giê-su sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm. Sự phung phí là gương xấu nhất xảy ra trong phạm vi lương thực. Sự nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp U.S tiết lộ rằng một phần tư sản xuất lương thực hằng ngày biến thành rác. Bên Mỹ, có những loại bánh chỉ sản xuất để bán trong 1 ngày. Nếu ngày hôm đó bán không hết, họ sẽ thiêu hủy….
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người.
Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ.
Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình.
Xã hội còn nhiều người nghèo đói
vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa,
vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm,
vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi
đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu.
Ước gì tôi biết yêu mến con người như Ðức Giêsu.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa: họ sợ thiếu, nên họ giành giật và tích trữ.
Sự độ lượng không lệ thuộc vào của cải nhiều hay ít, nhưng lệ thuộc vào tấm lòng, lệ thuộc vào “sự tin tưởng rằng mình không thiếu,” và điều tin tưởng này là một yếu tố tâm lý hơn là một dữ kiện. Nói cách khác, các người triệu phú vẫn muốn kiếm thêm tiền chỉ vì nghĩ rằng họ vẫn còn thiếu, chứ thực sự họ có thiếu gì! Điểm thứ hai cần cho sự độ lượng là tin rằng “mọi người đều là anh chị em trong ĐKT”.
- 3. Phản ứng của các môn đệ là bế tắc,muốn thoái thác phủi tay.”Nơi đây hoang vắng,và đã muộn rồi,vậy xin Thầy giải tán đám đông,để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giai pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng,ai lo phần nấy,tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi. Điều Ngài muốn nơi chúng ta là nỗ lực và chân thành cộng tác. Còn khả năng giải quyết khó khăn là ở nơi Ngài quan phòng! Trước mắt, chúng ta thấy bao nhiêu công việc nhiêu khê: Chiến tranh, hoà bình, thanh niên thiếu nữ mất định hướng, trẻ bụi đời, HIV/AID, xì ke, đĩ điếm, đói khổ… toàn những câu truyện vượt khỏi tầm tay nhỏ bé của mình, của Giáo hội giống như các Tông đồ trong bài TM hôm nay. Chúng ta chẳng biết giải quyết ra sao? Nhưng đã từng có những tấm lòng quảng đại, hy sinh thời giờ, tiền bạc, làm việc tông đồ, góp phần với Chúa Giêsu. Họ đã thu lượm được nhiều kết quả ngoạn mục, thay đổi lòng người, thay đổi nếp sống, như mẹ Têrêsa thành Calcutta: Sự dấn thân phục vụ người nghèo khổ của mẹ đã được nhiều người, nhiều tổ chức nhân đạo hỗ trợ. Cho tới nay mẹ đã có 80 trường học được trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động, 70 bệnh viện cho người phong cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện mồ côi nuôi trẻ mồ côi vì bị cha mẹ bỏ rơi. Nhất là mẹ đã có tới 40 ngàn cộng tác viên trên khắp thế giới trợ giúp.
Chúng ta không thi hành sứ vụ một mình. Có Chúa Giêsu cùng hoạt động. Cùng với chúng ta Ngài nhìn thấy khó khăn và “biết mình sắp làm gì rồi”. Chính qua các Tông đồ mà Ngài nuôi sống đám đông! Qua các tín hữu mà Ngài cải tạo thế giới! Dù Chúa biết rõ việc mình sắp làm, nhưng Chúa vẫn hỏi Philipphê xem phải kiếm đâu ra bánh cho dân đang bị đói. Qua đó, Chúa muốn các Tông Đồ cộng tác với Chúa trong việc phục vụ bàn ăn cho dân. Và cuối cùng Anrê đã tìm ra một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, là thức ăn của những người nghèo. Tuy nghèo, nhưng cậu bé đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Và chỉ với sự đóng góp nhỏ bé là năm chiếc bánh và hai con cá đó, Chúa đã nhân ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người được ăn no.
Trước đám đông dân chúng đi theo, Đức Giêsu đã nhận ra họ bị đói và đang cần bánh ăn. Tình yêu thương tha nhân của các tín hữu chúng ta cũng phải cụ thể và thiết thực đi vào hành động hơn là dừng lại ở sự tranh cãi suông, như thánh Giacôbê dạy: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14-17).
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau,quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của chúng ta để Người làm được những điều lạ lùng! Đây là một vinh dự của loài người và cũng là điều giúp chúng ta thêm tin tưởng vào giá trị con người-vì được dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Dù chúng ta không tài giỏi, không giầu sang phú quý, không có quyền hành trong tay, điều quan trọng là đừng vì mặc cảm đó mà làm mất đi phẩm giá con người qua những hành động thấp hèn. Nếu không giầu sang, chúng ta có thể đóng góp thời giờ. Nếu không tài giỏi, chúng ta có thể đóng góp sức lao động chân tay. Nếu không giúp đỡ thì cũng đừng phá hoại, dù bằng lời dèm pha hay những hành động lén lút. Điều quan trọng là phải nuôi dưỡng lòng quảng đại, cho đi bất cứ gì có thể, vì “chúng ta sống bằng những gì chúng ta có, nhưng cuộc đời chúng ta được tạo thành bởi những gì chúng ta cho đi” (Winston Churchill). Đây cũng là điều được Đức Giêsu nhắc đến trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31-46).
Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương của Thiên Chúa cho con người gấp bội.
- Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Đọc những trình thuật về Phép Lạ Hóa Bánh Ra Nhiều của bốn sách Phúc Âm, Matthew, Mark, Luke và John, tôi thấy Chúa Giêsu và các tông đồ đều có lòng quan tâm tới những nhu cầu của dân chúng. Thế nhưng sự quan tâm đến dân chúng của Chúa Giêsu thì khác với sự quan tâm của các tông đồ. Bạn có nhận ra sự khác biệt giữa hai sự quan tâm này không? Các tông đồ đã QUAN TÂM tới những nhu cầu cấp bách của dân chúng: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” nhưng các ông không có HÀNH ĐỘNG tích cực để đáp ứng lại nhu cầu ấy. Các ông chỉ muốn giải tán đám đông dân chúng cho họ về, để họ tự động vào các làng mạc nông trại chung quanh, tìm chỗ trọ và mua thức ăn… (Mt 14:15, Mc 6:35, Lc 9:12). Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã QUAN TÂM tới những nhu cầu bức thiết của đám đông dân chúng: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn … Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”(Mt 14:16, Ga 6:10).
Mà không phải chỉ có một lần đâu! Chúa Giêsu đã rất nhiều lần QUAN TÂM đến những nhu cầu của tha nhân và có những HÀNH ĐỘNG rất cụ thể để đáp ứng lại những nhu cầu của họ:
- Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và [sau đó Ngài] chữa lành các bệnh nhân của họ (Mt 14:14). Ngài đã quan tâm tới những nỗi đau đớn do bịnh tật gây ra của họ và ra tay chữa lành!
- Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Ngài đã quan tâm tới những nhu cầu thiếu thốn về tâm linh và dạy dỗ dân chúng.
- Khi Đức Giê-su [thấy] người ta khiêng con trai duy nhất của một bà goá đi chôn … Ngài chạnh lòng thương … lại gần, sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! ” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7:12-15). Ngài đã quan tâm tới nỗi đau khổ của bà mẹ mất con và liền ra tay xoá đi nỗi đau đớn của bà.
- Khi thấy cô Maria khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc… Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến … Người đi tới mộ… kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11:33-42). Ngài đã quan tâm tới nỗi đau đớn và mất mát của hai chị em Mattha & Maria và ra tay phục hồi sự sống để hoàn lại niềm vui cho hai bà.
Bạn thấy không? Chúa Giêsu luôn luôn QUAN TÂM tới, và có những HÀNH ĐỘNG rất cụ thể để đáp ứng lại những nhu cầu của tha nhân. Còn chúng mình thì sao? Bạn và tôi đã biết quan tâm và có những hành động cụ thể để giúp đỡ tha nhân hay chưa?
Có phải rất nhiều lần tôi đã quan tâm tới những nhu cầu của tha nhân nhưng tôi lại không có những hành động cụ thể nào để đáp ứng lại những nhu cầu của họ, phải không? Khi xem TV, nghe Radio, đọc báo… tôi thấy nhu cầu cần sự giúp đỡ về tài chánh cho các trẻ em khuyết tật, mồ côi, mù loà…. Thế nhưng tôi chỉ biết chép miệng: “Tội nghiệp quá!”, tôi đã không mở hầu bao ra để gởi một chút quà để các cơ quan thiện nguyện có phương tiện giúp đỡ cho các em kém may mắn đó…. Thấy người nghèo, người bệnh, người vô gia cư…tôi có quan tâm, nhưng không ra tay giúp đỡ…Đấy! Bạn để ý một chút xem, có rất nhiều lần chúng ta đã quan tâm tới tha nhân nhưng chúng ta chỉ biết dừng lại ở mức độ THƯƠNG CẢM. Tôi và bạn đã không hành xử như Chúa Giêsu: Biết QUAN TÂM và có những HÀNH ĐỘNG cụ thể để giúp đỡ cho tha nhân.
Ước mong rằng trong những ngày tháng sắp tới, bạn và tôi, chúng ta sẽ bắt chước và biết noi gương Chúa Giêsu biết quan tâm và có những hành động thật cụ thể giúp đỡ cho những người chung quanh: cha, mẹ, chồng, vợ, con cái…
- Chỉ khi nào sự QUAN TÂM & HÀNH ĐỘNG đi liền với nhau thì lúc đó đức ái mới trở nên trọn vẹn và tuyệt hảo.
- Chỉ khi tôi và bạn biết QUAN TÂM & CÓ NHỮNG HÀNH ĐỘNG giúp đỡ tha nhân thì lúc đó chúng ta mới trở thành những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
Hãy chạy đến với Đức Mẹ và xin Mẹ chỉ bảo cho bởi vì Mẹ là mẫu gương tuyệt vời trong việc QUAN TÂM & HÀNH ĐỘNG giúp đỡ tha nhân: Khi nghe tin bà chị họ mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa để giúp đỡ cho bà Elizabeth (Lc 1:39). Khi thấy gia đình của đôi tân hôn lâm nguy vì thiếu rượu trong bữa tiệc cưới, Mẹ đã ra tay hành động bằng cách ngỏ lời với con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:4)
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Ðiều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể sinh ra nhiều hoa trái bông hạt.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa muốn dạy ta bài học của tình liên đới trong yêu thương, hiến dâng, hy sinh và cho đi. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, hoàn toàn không thể hiểu hết, với sự dâng hiến cái nghèo khó của Mẹ (khi bắt đầu công việc, trong tay Mẹ chỉ có 3 đồng xu), đã được Chúa làm cho nên giàu có, để ngày hôm nay, khi Chúa đã gọi Mẹ về với Người, Mẹ đã để lại cho Chúa cả một công trình đồ sộ trên trần gian. Cũng vậy, mỗi người trong chúng ta hãy học cách trao tặng những gì mà chúng ta đang có. Chúa không đợi chúng ta dư giả, giàu có mới dạy chúng ta cách cho, nhưng hãy hiến dâng ngay cả khi chúng ta nghèo nàn. Với một tâm hồn hiến dâng thực sự, cái nghèo của chúng ta sẽ được Chúa làm phép lạ để nên giàu có cho nhiều người. Tất cả chúng ta đều sinh ra với hai bàn tay trắng. Bước vào đời, ta là những người nghèo, nghèo thực sự. Hãy nhớ kỹ điều này để đừng sống ích kỷ, nhưng luôn luôn biết hiến dâng. Chúa không kêu gọi bạn và tôi làm phép lạ như Chúa, nhưng Chúa chỉ xin ta hãy yêu, hãy cho đi, hãy hiến dâng, hãy hy sinh. Phép lạ đương nhiên sẽ xảy ra sau khi ta cộng tác với ơn Chúa bằng tất cả khả năng của mình.
- Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì “bánh ngon bẻ đôi”, “chị ngã em nâng”, người ta sẽ sống đùm bọc lẫn nhau đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau” và ngay cả khi nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì “lá lành đùm lá rách”. Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em. Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Chúng ta có dư đủ tài chánh và tài lực. Điều chúng ta thực sự thiếu là tình yêu, tấm lòng muốn chia sẻ và cho đi. Chúng ta có thể nuôi sống tất cả những người nghèo đói trên thế giới. Không phải bởi riêng cá nhân mỗi người, nhưng với sự cộng tác giúp đỡ của tất cả những người có đức tin. Có tất cả hơn hai tỉ người là Kitô hữu trên thế giới. Nêú tất cả hai tỉ Kitô hữu này thực sự có đức tin mạnh, và có tấm lòng của người tin chân thật, thì chúng ta có thể hàn gắn được mọi hiềm khích giữa các quốc gia. Chắc chắn chúng ta có thừa nguồn tài chánh và tài lực, nhưng chúng ta thiếu đức tin và thiếu tấm lòng của con người có đức tin.
- Khi chạnh lòng thương, Đức Giê su dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo mốt. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của tôi.
Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Chúng ta khấn khó nghèo, nhưng nhiều khi chúng ta mua sắm những thứ không cần thiết hay sống qúa tiện nghi, chúng ta ăn nhậu xả láng: 1 thùng bia, 1 chai rược ngoại mất mấy trăm ngàn đủ để nuôi sống 1 người trong vòng 1 tháng, nuôi chó qúa nhiều trong khi nhiều người không có ăn…
Phép lạ hoá bánh thường được coi là hình bóng hay “khúc dạo đầu” của Bữa Tiệc Ly, khi Ðức Giêsu chia sẻ chính Mình và Máu của Người làm lương thực đời đời cho nhân loại. Như vậy, Bí Tích Thánh Thể (BTTT) đã trở nên cao điểm của sự chia sẻ, vì nơi đó Ðức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta qua việc trao hiến chính mạng sống mình. Ấy vậy, khi tham dự BTTT, rất nhiều khi chúng ta chỉ chú tâm đến tương quan chiều dọc, tức kết hiệp với Chúa trong BTTT, mà quên đi tương quan chiều ngang đối với tha nhân. Tương quan này hệ tại việc chia sẻ huynh đệ mà ta bắt gặp thấy nơi cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy; siêng năng dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ hiệp nhất với nhau, đặt mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (x. Cv 2, 42-46). Cũng trong tinh thần này, Thánh Giám Mục Ambrôsiô (thế kỷ thứ 4) dạy rằng: cái áo, đôi dép mà tôi không dùng đến là của người nghèo; chiếc bánh tôi ăn khi không đói cũng là của người nghèo.
Hơn thế, chia sẻ còn là dám hy sinh điều tôi đang cần đến cho ai đó cần hơn tôi. Trong phép lạ hoá bánh, các tông đồ đã trao cho Ðức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ai đó đã mang theo làm phần ăn cho chính họ. Thế nhưng chính nhờ chia sẻ số bánh và cá ít ỏi đó mà trên 5,000 người đã được nuôi ăn no nê. Ðó là phép lạ của sự chia sẻ. Thế giới ngày nay hãy còn nghèo đói, cực khổ, bất công phải chăng vì con người chưa biết hoặc chưa dám sống chia sẻ?
Năm 1976, trong một bài tham luận quan trọng có nhan đề “Cơn đói cơm bánh và cơn đói Tin Mừng” đọc tại Ðại Hội Thánh Thể quốc tế nhóm họp tại Philadenphia (Hoa Kỳ), cha Arrupê, Bề Trên Cả Dòng Tên, đã nhấn mạnh rằng khi thông dự vào BTTT, chúng ta dự phần vào một thân thể duy nhất là Ðức Kitô Thánh Thể. Trong một thân thể, nếu một chi thể đau yếu thì toàn thân cũng không được khỏe. Vì thế theo cha Arrupê, “nếu nạn đói còn hoành hành ở một nơi nào đó trên thế giới, thì việc cử hành BTTT ở khắp mọi nơi đều không trọn vẹn. Trong BTTT, chúng ta lãnh nhận một Ðức Kitô đang đói giữa những người đói ăn (-) Chính qua Ðức Kitô (là Thân Thể) mà những con người đó (là chi thể như ta) nài xin chúng ta một sự giúp đỡ, một sự công bằng, một tình yêu được diễn tả qua hành động. Vì thế, chúng ta sẽ không xứng đáng lãnh nhận Bánh Hằng Sống, nếu chính chúng ta không biết chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát, bất kể họ ở đâu, bất kể họ là hạng người nào.”
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9 ngàn người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
– Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế? Họ trả lời :
– Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp :
– Ở Ấn Ðộ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa :
– Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Món quà cưới của đôi bạn trẻ trong câu chuyện trên đây quả là cao đẹp. Nó cao đẹp bởi vì nó được làm nên bởi những hy sinh quá lớn. Nó cao đẹp bởi vì nó kết tinh bằng một tình yêu trao ban. Họ không chỉ hy sinh tiền bạc mà còn hy sinh cả vinh dự và niềm vui. Họ không chỉ trao ban của cải mà còn trao ban cả tấm lòng. Bởi vì họ đã học được nơi Ðức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Người thấy đám dân đông đúc thì chạnh lòng thương”.
Chính vì chạnh lòng thương mà Ðức Giêsu đã chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã không để cho đám đông tự mua lấy thức ăn. Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã bảo các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn. Và cuối cùng, lòng thương xót bao la của người mục tử tốt lành đã thực hiện một phép lạ ngoạn mục nhất trong Kinh thánh là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Ðức Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em được ăn no nê mà còn dư giả.
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới sẽ được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Có lẽ người nghèo sẽ không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu những con người biết chạnh lòng thương. Người ta cần có lương thực để sống, nhưng cũng rất cần có tình thương để tồn tại. Những người đang chờ chết là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Những người giàu có mà không biết chia sẻ cũng là những người đang chết đi cái nhân tính của mình. Nếu Ðức Giêsu đã bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn thì đó không phải lời khuyên mà là một lệnh truyền.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết: “Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Ðức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
Tình yêu trao ban mà Ðức Giêsu mời gọi những tín hữu Kitô hãy thực hiện thì chính Người đã làm gương trước. Vào bữa tiệc ly ngày thứ năm Tuần thánh, Người chính là tấm bánh được bẻ ra, và trao ban cho các môn đệ. Khi nhận lấy bánh Hằng Sống, chúng ta không thể giữ lấy cho riêng mình, nhưng là sẵn sàng chia sẻ trao ban cho những người chung quanh.
Ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất. Trao ban đích thực là trao ban chính bản thân. Con người chỉ trở nên giàu có khi trao ban chính bản thân mà thôi. Mẹ Têrêsa Calcutta không mang đến Ấn Ðộ một đồng xu dính túi, không cho những người nghèo tiền rừng bạc bể, không mang đến đó tiền của dư thừa. Mẹ trao ban chính mình. Nhưng chắc chắn khi qua đời ít có ai giàu có hơn mẹ.
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang trong giai đoạn triển nở. Cánh đồng truyền giáo mở rộng bao la khắp ba miền đất nước. Người nghèo đang đến gõ cửa Hội Thánh để được giúp đỡ. Giống như cậu bé của Tin Mừng, chúng ta cũng được mời gọi đóng góp những mẩu bánh và những con cá của mình để giúp các vị truyền giáo nuôi sống những tâm hồn đang lắng nghe Tin Mừng của Chúa qua Hội Thánh Công Giáo Việt Nam. Chúa đang chờ đợi và mong mỏi cử chỉ đầy tình thân thương đó. Ngay lúc này đây, biết bao nhiêu người không cơm ăn, áo mặc. Đức Kitô đang nói với mỗi người chúng ta: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN A
Bài đọc I (1V 19,9.11-13)
Sau khi vua Om-ri qua đời, A-kháp lên kế vị vua cha cai trị dân Israel. A-kháp đã làm nhiều điều sai trái trước mặt Chúa: Ông đã cưới vợ ngoại tên là I-de-ven mà còn lập bàn thờ để kính thần Ba-an. Ông còn cho tìm cách bắt các tiên tri của Chúa.
Tiên tri Êlia đã can đảm đứng ra lên án nhà vua cùng hoàng hậu. Ông còn phá đổ bàn thờ và giết tất cả các ngôn sứ của thần Ba-an. Hoàng hậu I-de-ven đã nổi giận ra lệnh truy nã và tìm cách giết chết tiên tri Elia. Tiên tri đã chạy trốn lên núi Hôrep và ở đó. Trong cơn gió hiu hiu, Thiên Chúa đã hiện ra với ông. Ông được gặp gỡ Thiên Chúa và Người đã thêm sức mạnh cho ông.
Ðoạn trích này mô tả Thiên Chúa như là Ðấng vô hình nhưng rất gần gũi và hùng mạnh: Êlia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu. Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường. Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.
Bài đọc II (Rm 9,1-5)
Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành. Tuy nhiên ông cảm thấy hầu như bất lực trong việc làm cho những đồng bào Do Thái của ông tin vào Ðức Giêsu Kitô: “Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn”. Vì yêu thương đồng bào và tha thiết với sự cứu rỗi của đồng bào, ông dám hy sinh tất cả: “Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích của anh em tôi”. Nhưng dù sao ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng dân Do Thái sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa”.
Tin Mừng (Mt 14,22-33)
- Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta. Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người bị coi là tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hội Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa. Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
- Tiếp theo, Người sai các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước và Người giải tán dân chúng. Giờ đây, Chúa Giêsu có thời gian để cầu nguyện với Chúa Cha. Có thể nói, việc cầu nguyện là nền tảng của đời sống và tác vụ của Chúa Giêsu, vì thế Người luôn dành thời gian để sống tình thân với Chúa Cha.
Cầu nguyện để được ở với Chúa, để củng cố đức tin, để tín thác vào Chúa.
- Hình ảnh chiếc thuyền các môn đệ vượt biển, đương đầu với sóng gió được sánh ví như con thuyền Giáo hội trôi theo giữa dòng đời trần thế. Phêrô được xem như viên thuyền trưởng hướng dẫn con thuyền vượt sóng đến bến bờ bình an. Trên hành trình ấy, những tảng đá ngầm, những cơn sóng thần, những trận cuồng phong và ngay cả hải tặc, … tất cả đều có thể làm cho con thuyền mỏng manh này bị nhấn chìm xuống đáy biển sâu nếu viên thuyền trưởng lơ là nhiệm vu. Chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng trong việc lèo lái con thuyền vượt sóng đại dương. Chúng ta thấy một khi Phêrô biết bám vào Chúa, biết tin tưởng và cậy trông vào Chúa, ông có thể làm được tất cả những phép lạ cũng như chiến thắng sự dữ như Chúa đã làm. Thế nhưng tại sao Phêrô lại bị chìm giữa biển khơi? Điều dễ nhận ra là một khi ông rời xa Chúa, tâm trí ông xao lãng việc kết hiệp với Chúa, ông sẽ không thể làm được chuyện gì. Việc ông bị chìm vào biển khơi khi đang bước đi ngon lành là một minh chứng điển hình cho việc ông rời xa Chúa. Như thế đã rõ, Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông dựa vào sức mình mà không dựa vào Chúa; Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông kém lòng tin; Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông vẫn còn hoài nghi ngay cả việc mình đang thực hiện bởi ý Chúa.
Con thuyền của các ông tượng trưng cho Hội Thánh. Hội Thánh là gia đình những người tin vào Chúa và nâng đỡ Đức Tin của nhau. Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa nên Chúa luôn để tâm đến mọi hoạt động của Hội Thánh. Tuy Đức Tin là ân sủng nhưng không Thiên Chúa ban cho từng cá nhân, nhưng cần được nuôi dưỡng trong Hội Thánh qua lời giảng dạy và các Bí Tích, như các chi thể cần có máu luân chuyển từ tim và bộ não sống động. Không một chi thể nào có thể sống được mà không gắn liền với thân thể, cho nên không một ai có thể có Đức Tin độc lập với Đức Tin của Hội Thánh. Đức Tin cũng cần phải được thực hành trong đời sống hằng ngày thì mới có hiệu quả.
Hội Thánh và cuộc đời của mỗi người chúng ta nhiều khi cũng có những sóng gió mà chúng ta không chống cự nổi, nhưng Chúa luôn bảo vệ Hội Thánh và bảo vệ mỗi người chúng ta nếu chúng ta tin vào Người. Khi gặp sóng gió hãy vững tay chèo lái, tức là vẫn trung thành tuân giữ giới luật Chúa, sống theo giáo huấn của Người cùng tin cậy vào Người và hãy yên tâm, đừng sợ vì Chúa luôn ở bên.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác,tin cậy vào Ngài . Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”, nhưng rồi “ông vẫn sợ”. “Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt chúng ta bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa.
- “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
Ở đây Chúa muốn dạy Thánh Phêrô và tất cả chúng ta một bài học là đừng cậy sức mình, vì con người vừa yếu đuối vừa hèn nhát. Đôi khi lòng mình không muốn để bị chìm vào trong biển cả tội lỗi, nhưng vì yếu đuối mà sa ngã, vì hèn nhát nên nhượng bộ làm theo bạn bè hay dư luận quần chúng. Muốn không bị chìm thì phải dựa vào ơn Chúa. Và một khi đang chìm thì phải bắt chước Thánh Phêrô kêu cầu cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!” Mỗi khi bị cám dỗ, mỗi khi gặp hiểm nghèo, cũng xin cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!”
Phêrô tiêu biểu cho người môn đệ điển hình bị giằng xé giữa đức tin và hoài nghi. Ông bắt đầu vâng lời Ðức Giêsu, nhưng ngay khi ông cảm thấy sức mạnh của gió tức là sự bách hại thì đức tin ông tiêu tan. Như thế, lời quở trách của Ðức Giêsu “Người đâu mà kém tin vậy! Sau lại hoài nghi?” cũng nhắm đến chúng ta. Giống như Phêrô, chúng ta thường bắt đầu một cách can đảm nhưng rồi lại mất hết can đảm khi mọi việc trở nên khó khăn.
Ðức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Ðồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”. Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Ðức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”. Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Ðức Giêsu mắng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Ðó là hành trình Ðức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Ðức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Ðức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Ðể cuối cùng, chính Ðấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh. Chúa Giêsu đang thành khẩn nói với tôi, với bạn rằng: Ngài luôn hiện diện ở bên tôi, bên bạn, và nhất là luôn hiện diện khi mỗi chúng ta gặp sóng gió, bão táp, gặp điều nguy khốn khiến ta khiếp sợ giữa biển đời thế gian. Điều cần thiết nhất là chúng ta phải vững tin Ngài vẫn đang và luôn hiện diện.
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu. “Có Thầy đây, đừng sợ”, cũng đồng nghĩa với việc đừng buông tay Thầy, đừng tin tưởng nắm níu tay thế lực chống lại Thầy, mà sẽ phải chuốc lấy cho mình những nỗi sợ kinh hoàng triền miên. Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa. Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.” Có tiếng trả lời: “Ðược lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”)
Kết thúc trình thuật trên đây là lời tuyên xưng của mọi người: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này mở ra một hành trình mới, đánh dấu sự trưởng thành trong niềm tin của các môn đệ. Tín thác vào Chúa Giêsu để mạnh mẽ, can đảm vững bước theo Người. Chúng ta cũng được mời gọi bước vào hành trình bão táp của một thế giới đầy bạo lực, bất công, chiến tranh, vô luân này không chút sợ hãi. Bởi vì Chúa Giêsu đang hiện diện và ở cùng con thuyền Giáo Hội.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN A
Người đàn bà Canaan
Bài đọc I (Is 56,1.6-7)
Thiên Chúa Giavê là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Do Thái cũng như ngoại giáo muốn trở lại. Ngài là Thiên Chùa duy nhất của những ai thờ phượng Ngài. Bài Đáp Ca diễn tả rõ hơn về việc nầy khi nói: “Lạy Chúa, toàn thể địa cầu hãy ca tụng Ngài.”
Bài đọc II (Rm 11,13-15.29-32)
Thánh Phaolo khẳng định trong thư gửi giáo đoàn Roma, Ơn của Thiên Chúa đến cho cả những người Do Thái và Dân Ngoại. Ai cũng được cứu rỗi nếu bằng lòng hoán cải và trở nên một phần tử của Dân Chúa, một nước Israel mới. Thánh Phaolô nói với những tín hữu Rôma vốn trước kia là lương dân nay đã tin vào Ðức Kitô: Tôi là tông đồ dân ngoại. Do việc đi rao giảng cho dân ngoại, nếu Phaolô có làm cho đồng bào Do Thái của ông phải phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.
Tin Mừng (Mt 15,21-28)
- Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc Thập Tự chinh đẫm máu chống lại người Hồi Giáo vào những năm 1095-1291, bước sang thế kỷ 16 là cuộc chiến giữa người Tin lành và Công giáo tại Âu Châu, rồi cuộc đối đầu giữa những người quá khích Ấn giáo với những người theo các tôn giáo khác tại Ấn Độ…
Và Mahamat Ganhdi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Ganhdi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Những câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại hiện nay. Đó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên. Thế đó, con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Đế của mình để bách hại và loại trừ người khác.
Thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ nhiều người, nhất là những kẻ bé mọn, những người dân ngoại, những người mà họ cho là tội lỗi.
Thế nhưng khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do Thái. Chúa cũng đã đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn quy tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Điều này được thể hiện rõ trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
- Đọc 4 bộ Tin Mừng do các Thánh sử Mattheô, Matco, Luca, và Gioan, độc giả thấy Tin Mừng do thánh Mattheô viết riêng cho các tín hữu Do Thái, những người đã gia nhập Kito Giáo, và những người Do Thái chưa vào đạo mà ngôn ngữ thời đó gọi họ là “những con chiên lạc nhà Israel.” Tuy nhiên trong Tin Mừng của Matthêu chúng ta cũng đọc thấy một vài chương viết về việc truyền giáo cho cả người ngoại nữa. Thí dụ như câu chuyện thường nghe trong Mùa Giáng Sinh về Ba Vua hay 3 nhà đạo sĩ Đông Phương (là những người ngoại giáo) đi tìm và thờ lạy Chúa Hài Nhi ở Bethlem. Hôm nay, chúng ta cũng đọc và nghe một đoạn nói về người đàn bà Canaan, một người ngoại giáo, đến để xin Chúa giúp con gái bà đang bị quỉ hành hạ, và bà tin tưởng Chúa sẽ nhậm lời bà.
Điều chúng ta biết được rằng là Chúa Giêsu luôn có một ưu tiên cho người Do Thái khi đi rao giảng Tin Mừng. Ưu tiên không có nghĩa là chỉ dừng lại ở phạm vi khuôn khổ của người Do Thái. Ưu tiên không có nghĩa là độc chiếm mà là được trước và kẻ khác được sau. Thánh Phaolô cho chúng ta lời minh chứng đó khi nói với người Do Thái: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.” (CV 13,46). Con cái ăn trước và người ngoài ăn sau.
- Câu chuyện xảy ra ở miền Tyrô và Siđon, tức là ngoài lãnh thổ Palestina. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina. Nên nhắc lại là dân Israel nghĩ rằng Thiên Chúa là Chúa của riêng họ, Ngài không ban ơn cho dân ngoại.
Lúc đầu Chúa Giêsu làm thinh, hình như phớt lờ bà vì 2 lý do: Thứ nhất, Chúa chỉ được sai với chiên lạc Israel (như Chúa nói) và Thứ hai, có lẽ cũng để thử lòng tin của bà. Có một chi tiết nếu không hiểu nhiều về phong tục người Do Thái, sẽ làm nhiều người trong chúng ta ngạc nhiên và lầm tưởng Chúa có vẻ kỳ thị. Khi Chúa nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó!” Thực ra, Chúa chỉ lặp lại một câu nói rất thông thường của người Do Thái. Thời Chúa Giêsu, khi đề cặp đến những người ngoại giáo, họ hay nói: “Đám ngoại giáo đó như đồ chó.” (that the pagans were nothing but dogs!). Hồi còn nhỏ, tôi hay nghe những người Việt-Nam trong các làng di cư Công Giáo nói về những người ngoại giáo rằng “Cái bọn bên lương đó ấy mà!” Không nên lấy bánh mà vứt cho chó. Không phải Chúa coi khinh người đàn bà và con gái của bà, nhưng Chúa muốn cho thấy rằng ơn Chúa rất cao trọng. Chính Chúa cũng đã mặc lấy thân phận yếu hèn của con người. Chính Chúa đã từ địa vị cao sang mà đã hủy mình ra không (không là gì cả, chứ đừng nói là chó nữa) để đem ơn cứu chuộc đến cho muôn người.
Người đàn bà Canaan đã không vì một câu nói để chạm tự ái, làm mất lòng tự trọng, hoặc lùi bước trước khi đạt được mục đích của mình. Người phụ nữ trong chuyện là một người ngoại. Chắc bà cũng chia sẻ quan niệm trên. Vì thế khi đến với Ðức Giêsu, bà rất khiêm tốn, tự nhận mình là “chó con” và chỉ dám xin ăn những vụn bánh thừa từ bàn ăn của con cái trong nhà rớt xuống.
Nhưng Ðức Giêsu, sau khi làm ra vẻ lạnh nhạt để thử đức tin của bà, đã phải nhìn nhận bà có đức tin rất mạnh. Và chính vì có đức tin cho nên bà được kể là con cháu của Abraham – “Cha của những người tin”, và do đó đáng được Ðức Giêsu ban ơn.
Thật ra, Ngài muốn thử thách niềm tin của bà vào Ngài, bằng cách thử làm cho bà nản lòng xem thái độ bà thế nào. Vì điều kiện để Ngài có thể chữa lành con gái của bà theo như ý bà xin là bà phải có đức tin mạnh mẽ. Nếu bà không có đức tin, Ngài không thể giúp bà được gì cả. Thật vậy, khi Ngài về quê hương của mình là Nadarét, Tin Mừng cho biết: «Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Vì thế, việc thử thách đức tin của bà là chuyện cần thiết. Và Ngài đã thử bà bằng cách tỏ ra coi thường bà giống như những người Do Thái khác vẫn đối xử với bà. Nhưng bà đã vượt qua thử thách ấy, bà đã thắng được lòng tự ái dân tộc của bà và không nản lòng. Điều ấy chứng tỏ bà tin vào quyền năng và tình thương của Ngài. Vì thế, Ngài đã cho bà được toại nguyện. Ngài nói: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Và con gái bà đã được khỏi ngay lúc ấy.
- Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban ơn cứu giúp con người vì tình thương vô biên của Ngài. Vì thế, yếu tố quyết định thành tựu hay không nằm ở phía con người: con người có đủ niềm tin hay không. Thật vậy, mỗi lần Ngài chữa bệnh thành công cho một người nào, Ngài không nói «Ta đã cứu chữa con» cho dù nói như vậy rất đúng, mà nói «Lòng tin của con đã cứu chữa con» (Mt 9,22; Lc 17,19). Khi có đức tin mạnh mẽ, thì điều ta mong muốn sẽ thành tựu: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20).
Người có đức tin mạnh mẽ không chỉ tin bằng lời nói, mà tin bằng hành động thực tế. Họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ vì bản chất Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16), Ngài không thể không yêu thương, không thể lãnh đạm với những nhu cầu khẩn thiết của họ. Và tình yêu của Ngài là thứ tình yêu đầy quyền năng, không sự gì là không làm được (x. Lc 1,37). Vì thế, khi họ kết hiệp với Ngài bằng đức tin và tình yêu, thì tình yêu của họ cũng sẽ trở thành một thứ tình yêu quyền năng, có khả năng làm được mọi việc. Họ sẽ có kinh nghiệm y như Phaolô: «Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Tuy nhiên, để có được kinh nghiệm về sức mạnh như Phaolô, điều kiện tiên quyết là họ phải từ bỏ chính mình, coi nhẹ «cái tôi» của mình, đồng thời ý thức sự hư vô và bất năng của mình đã. Ý thức sự bất năng của mình là nhận thức rằng nếu không nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa, họ sẽ không làm được gì cả: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5). Vì thế, không bao giờ họ hãnh diện hay lên mặt với ai khi mà tất cả những gì họ làm được đều nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ đó, lời cầu nguyện của họ trước Thiên Chúa rất đắt giá vì tâm hồn họ tràn đầy tình yêu, không mang tính vị kỷ, và cũng tràn đầy tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Ngài. Họ sẽ được Thiên Chúa đối xử với họ như đã đối xử với Abraham: «Ta sẽ chúc phúc những ai chúc phúc ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (St 12,3).
- Bà mẹ Canaan.
Vào tháng 12 năm 1987, một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên. Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Ðức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị Ðức Giêsu nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Vì đứa con bệnh tật, bà quên cả chính mình, sẵn sàng quên cả danh dự và “nhân thân” mình. Niềm tin mạnh mẽ không gì lay chuyển. Niềm tin vượt qua hàng rào ngăn cách giữa người Dothái và “dân ngoại”. Chúng ta cảm động trước tình thương con lớn lao cao cả của bà, hơn thế nữa nơi bà chúng ta còn học được tấm gương của một lòng tin kiên vững. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người. Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ, hận thù, để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn. Thương con nên khổ vì con. Người đàn bà Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau, khổ một, thì mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ nơi đây đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!” Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”. Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nỗi các môn đệ Chúa không chịu nổi những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để Người đuổi bà về.
Chúa Giêsu đã nói thẳng với bà: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Thế nhưng, chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và đức tin của bà. Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Tin và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta can đảm, kiên trì và khiêm tốn.
Nếu xét cách thường tình, người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Mt 15, 21 – 28 là một người bị người Do Thái khinh bỉ, miệt thị. Bà chỉ là một người vô đạo không hơn không kém. Nói theo ngôn ngữ của người Do Thái, bà là người ở ngoài, người không biết Chúa, người không hề biết một tí gì về lề luật của Môsê. Tuy nhiên, bà đã sống niềm tin mãnh liệt, niềm tin mà Chúa Giêsu đã có lần khen viên bách quản ( Mt 8, 10.13 ). Làm sao mà Người có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ, Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nỗi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ mình. Cũng có một bà mẹ, thế nên Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, Người chẳng nỡ từ chối những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại, sự hy sinh của con người. Với niềm tin mãnh liệt, bà đã thắng Thiên Chúa. Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu, và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
- Có nhiều phương cách luyện tập đức tin. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ mà ít phút nữa chúng ta sẽ cử hành một cách chăm chú hơn. Chúng ta có thể tập cầu nguyện mỗi ngày để việc cầu nguyện trở thành thói quen…Tuy nhiên, còn một phương cách luyện tập đức tin chúng ta xem ra cực kỳ hữu hiệu. Cách này đáng được lưu tâm đặc biệt. Dostoevski có bàn đến nó trong tác phẩm của ông nhan đề: “Anh em nhà Karamazốp” (The Brothers Karamazov). Trong tác phẩm này, tác giả đề cập đến một bà lão nọ, sức khoẻ thiêng liêng của bà đã suy thoái mau chóng theo sức khoẻ thể lý. Ngày nọ bà ta bàn luận vấn đề của mình với vị linh mục già tên là Zossima. Bà kể cho ngài nghe về đức tin yếu kém của bà, những nỗi ngờ vực vừa phát sinh, chẳng hạn như: Thiên Chúa có thực sự quan tâm đến vạn vật không? Có đời sống sau lúc chết không?
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe bà và nói: “Chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng những điều này, nhưng bà vẫn có thể tin tưởng những điều ấy vững chắc hơn”. Bà ta ngạc nhiên: “Bằng cách nào?” vị linh mục già đáp: “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống tương lai sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin bà sẽ càng lớn lên và các nỗi ngờ vực sẽ tiêu tan. Ðây là điều chắn chắn từng được thử nghiệm và nó đã có kết quả”.
Linh mục Zossima nói thật chí lý. Ngài cho ta thấy điểm quan trọng là: tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm thấy cái kia. Ðức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Albert Schweitzer, vị bác sĩ thừa sai vĩ đại cũng cùng quan điểm như trên trong cuốn sách của ông nhan đề Reverence For Life (Kính trọng cuộc sống ). Ông bàn đến một vài điều đem lại kết quả này như sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác cái gì đó để ăn, để uống hoặc để mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó quí bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho quí bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ trong bài Phúc Âm. Bà đến với Chúa Giêsu là vì kẻ khác chớ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng.
- Khi chúng ta cầu xin mà xem ra Chúa vẫn im lặng thường do mấy nguyên nhân chính như sau :
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta thế nào? Ta hãy cầu xin với sự xác tín Chúa sẽ ban những điều tốt lành cho ta, như lời Đức Giêsu phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” ( Mt 7, 7).
+ Có thể ta mới chỉ cầu xin một mình: ta cần xin cộng đoàn hợp ý như lời Đức Giêsu dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18, 19). Ta cũng nên xin Đức Mẹ, các thánh cầu bầu cùng Chúa cho ta theo tín điều “các thánh cùng thông công”.
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Khi ta cầu nguyện trong sự phô trương để tìm tiếng khen của người đời (x. Mt 6, 5-6) hay khi ta đòi Chúa phải theo ý ta thay vì lẽ ra ta phải vâng theo ý Chúa, như Đức Giêsu đã cầu xin: “Cha ơi! Nếu được, xin cho con chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39), hay như Người dạy ta xin trong kinh Lạy Cha: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu hy sinh hay thiếu lòng bác ái: ta hãy cầu xin, kèm theo những việc đạo đức như xưng tội rước lễ, và làm các việc hy sinh hãm mình. Ta cũng phải sẵn sàng tha thứ và làm hòa như Đức Giêsu dạy: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24).
+ Có thể ta đã xin những điều có hại cho phần rỗi của ta mà không biết: Đừng đòi Chúa phải làm theo ý ta, nhưng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Đấng luôn muốn ban ơn lành hồn xác cho ta như lời Đức Giêsu: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người “ (Mt 7, 7 -11).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ hại người: Xin những gì có lợi cho mình mà hại cho người, như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin được ngồi hai bên tả hữu (x. Mt 20 – 11) , hoặc xin Thầy sai lửa từ trời xuống thiêu huỷ làng Sa-ma-ri (x. Lc 9, 53-54)… nên không được Chúa chấp nhận (x. Mt 20, 23; Lc 9,55). Ta nên chú trọng xin những ơn tinh thần như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 6, 9-14), vì sẽ dễ được Chúa ban hơn là xin ơn vật chất thể xác. Vì trừ trường hợp thật đặc biệt gọi là phép lạ, bình thường Chúa không làm trái tự nhiên do Chúa an bài.
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho tất cả các Kitô hữu chúng ta về sự kiên trì cầu nguyện, đặc biệt là cho các bậc làm cha mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu xin, đã tin tưởng cầu xin, như người mẹ Canaan này chưa?
Người phụ nữ Canaan là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chính đức tin của bà làm cho mỗi người chúng ta phản tỉnh. Với những gì mà người phụ nữ Canaan đã làm, chúng ta hãy xem chúng ta đang ở đâu trong bàn tiệc Thiên Chúa, trong Giáo hội và trong lòng nhân loại?
- Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.
Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người mẹ.
Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý khi ca tụng tình thương ấy: Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào. Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo đáp công ơn của người mẹ hiền. Một ngày kia, khi người mẹ không còn nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Qua chuyện này, Ðức Giêsu cho thấy: con cháu đích thực của Abraham -mà cũng là dân Thiên Chúa đích thực – không phải là những người cùng huyết thống với Abraham, nhưng là những người có đức tin như Abraham, kẻ được gọi là “Cha của những người tin”. Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải tự nhìn lại chính mình. Có khi chúng ta đang đi vào vết xe cũ của những người Biệt phái xưa kia: Chúng ta tự hào mình là một kitô hữu, được rửa tội từ bé, mình là “đạo dòng, đạo gốc” rồi loại bỏ những người khác. Điều thứ hai chúng ta rút ra được từ lời Chúa hôm nay đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không loại trừ ai. Vì thế, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy biết tha thứ và sống bao dung với người khác, đón nhận người khác không phân biệt lương giáo, kể cả những người không cùng ý kiến với chúng ta như lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn đọc hàng ngày: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”
CHÚA NHẬT XXI- CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN A (x. CN 24, 25, 29 năm B)
- Thánh Phêrô thay mặt nhóm 12 tuyên xưng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (Kitô). Chúa Giêsu xác nhận lời tuyên xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là một Đấng Messia phải chịu đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải chịu khổ như Ngài.
Vị Cứu Thế đến để cứu độ nhân loại được gọi theo tiếng Do Thái thời đó là “Messiah” (Có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”), dịch ra tiếng Hy Lạp là Christos, ra tiếng Pháp và tiếng Anh là Christ, tiếng Việt Nam là Kitô, và trở nên danh hiệu để ghép vào tên riêng của Chúa Giêsu để thành “Kitô Giêsu” hoặc “Giêsu Kitô”. Kitô hay Mêsia là người được xức dầu, được Thiên Chúa chọn để giao cho một công việc nào đó. Đức Giêsu nhìn nhận căn tính này nhưng Người cấm các môn đệ không được nói điều này với ai, bởi vì, ý niệm Kitô hay Mêsia của Do Thái thời bấy giờ ít nhiều có liên can đến chính trị và quân sự. Do đó, Đức Giêsu đã tiết lộ ngay cho các môn đệ biết về hành trình thập giá của Người để họ đừng nghĩ đến chiến thắng chính trị hay quân sự. Đấng Thiên Sai sẽ bị đau khổ và bị đâm thâu như bài sách Dacaria loan báo, chứ không phải một Messia làm vua theo cái nhìn của người Do thái. Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi ràng buộc của tội lỗi hơn là xiềng xích nô lệ về thể xác.
Người Do Thái luôn luôn trông đợi Đấng Cứu Độ đến: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu Đời…” Hiện nay người Do Thái vẫn tin là Đức Kitô chưa đến, nên người Do Thái thường đến “Bức Tường Than Khóc’ (tường thành Giêrusalem cổ) để tiếp tục cầu nguyện xin Đấng Cứu Độ đến. Hơn nữa, theo dòng thời gian, người Do Thái thường có quan niệm Đấng Cứu Độ đến như một nhà lãnh đạo oai hùng để “đổi mới mọi sự” (Daniel 9:25-26) và lập nên một quốc gia Do Thái cường thịnh, vinh quang ‘thoát khỏi mọi áp bức của kẻ thù.” Những người đồng thời với Chúa Giêsu, dù được nghe lời xác quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan 1:29-34), và được chứng kiến những phép lạ vĩ đại Chúa Giêsu làm “người què được đi, người mù được thấy…” nhưng họ vẫn không tin Ngài là đấng “Kitô Thiên Chúa sai đến”, họ chỉ coi Ngài “như một Gioan Tẩy Giả, hoặc Elia, hay một trong các tiên tri thời xưa sống lại!” (như bản tường thuật trong Bài Phúc Âm hôm nay); vì thế Chúa Giêsu mới hỏi các Tông Đồ: “Còn các con bảo Thầy là ai?” Và Thánh Phêrô đã thay mặt anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Như vậy, chúng ta theo Chúa không phải để được vinh quang, giàu sang ở đời này, nhưng để noi gương Chúa “từ bỏ mọi sự và kiên nhẫn chịu mọi khổ đau ở đời này, sống yêu thương tha thứ, rồi để chết đi với Chúa, táng xuống mồ, trước khi được sống lại vinh quang trong Nước Chúa.”
- 2. “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8) Đức Vua Tình Yêu Giê-su đến thế gian “không phải để được phục vụ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18; 15, 13). Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”. Vậy những kẻ muốn theo Người “phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23) là điều tất yếu vậy. Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào. Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn.
Thánh Phaolô đã diễn giải sự phi lý điên rồ đó: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,22-25).
Đức Giêsu đã xác định Người là Mêsia đau khổ, qua đk mới vào được vinh quang, mà Isaia đã loan báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đức Giêsu đã biến thập giá từ một biểu tượng của sự ô nhục, và là một trong những hình phạt dã man nhất mà con người dành cho nhau, trở thành cây Thánh giá, biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu và sự sống. Một tình yêu và sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và tiếp tục tuôn chảy đến cho từng người chúng ta hôm nay. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
- 3. Lãnh bí tích Rửa tội để trở nên con cái Chúa, con cái của Hội Thánh Chúa, mỗi người đã tuyên hứa từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ. Như vậy việc từ bỏ ở nơi mỗi Kitô hữu công giáo, đã là một điều kiện ắt có và đủ, và phải thực hiện trong suốt cuộc sống đức tin của người tín hữu ấy. Có thể nói không ít người trong chúng ta, theo đạo từ đời cha ông đến nay, vẫn nghĩ rằng tôi theo đạo để được mọi thứ: Nước Trời, sự sống đời sau, cứu rỗi…, mà quên rằng trước khi được là tôi phải mất: mất chính mình-mất con người cũ rích của mình trong tình trạng tội lỗi…. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai muốn theo ta, hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta” vẫn luôn là một lời mời gọi khẩn thiết, nếu không nói đó là một đòi hỏi tự căn tính của Bí tích rửa tội, một lời thề hứa long trọng trước Thiên Chúa, mà mỗi Kitô hữu không thể thờ ơ hay bỏ qua như chuyện chơi đùa với Thiên Chúa, với Thần Linh được.
Thánh giá là dấu hiệu của Kitô giáo chúng ta. Thánh giá hiện diện ở mọi nơi chúng ta sinh hoạt tôn giáo, như nhà thờ, bàn thờ gia đình, đất thánh v. v. Trước khi làm một việc đạo đức, chúng ta luôn làm dấu Thánh Giá. Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu Lời Chúa để biết rõ hơn về ý nghĩa đích thực của Thánh giá. Và chúng ta xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Thánh Giá theo đúng ý nghĩa đích thực ấy. Chúng ta tôn kính những ảnh tượng Thánh Giá, nhưng lại sợ và trốn tránh những thánh giá Chúa gởi đến trong cuộc đời. Thập giá đã trở thành biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại. Và Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta cùng tham gia với Ngài. ” Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. ” (Lc 9,23)
“Từ bỏ chính mình”: xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là “thần hóa”. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ chính mình là chết đi con người cũ, khuynh hướng vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa …để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô.
Cuộc đời của người ky-tô chỉ đẹp khi biết từ bỏ. Từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa. Từ bỏ tội lỗi để sống theo lề luật của Chúa. Từ bỏ những gì không xứng hợp với danh nghĩa ky-tô hữu. Từ bỏ bản thân để sống vì lợi ích tha nhân. Nhất là từ bỏ chính mình để Chúa được lớn lên trong ta. Từ bỏ không chỉ là một lời mời gọi mà còn là một mệnh lệnh cho những ai tin theo Chúa. Tin Chúa phải theo Chúa. Có đi theo là có bỏ lại đằng sau. Bỏ lại những gì không cần thiết trong đời sống. Bỏ lại những gì làm cản bước chân ta. Bỏ lại tất cả những ràng buộc trần gian để con người sống gắn bó với Chúa hơn, sống cho Chúa để vì Chúa mà phục vụ anh chị em. Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân phận Thầy mình: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm2,11). Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu. Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày. Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho tha nhân. Mất mạng sống mình là để tín trung với Chúa.
Đau khổ và hạnh phúc là cái gì liên quan rất mật thiết với «cái tôi» của ta. Càng coi «cái tôi» của mình là quan trọng, càng quan tâm hay chú ý tới nó, thì càng nhạy cảm với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng thấy bị «mất mình», «vong thân». Trái lại, càng coi «cái tôi» của mình không là gì cả, càng ít quan tâm tới nó, thì càng dễ cảm nhận được hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lý của sự sống. Càng sống ích kỷ, càng chỉ nghĩ đến mình, ta càng đánh mất mình, càng thấy cuộc đời là vô nghĩa, và càng đau khổ. Trái lại, càng quên mình, nhất là càng sống vị tha, ta càng thấy cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Đức Giêsu có nói về nghịch lý này: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Còn thánh Phanxicô Khó Khăn thì nói: «Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân» (Kinh Hòa Bình). Bỏ mình ở đây không có nghĩa là bỏ hết những khả năng, tài cán, và nghị lực… của chúng ta. Nhưng là bỏ chính cái TÔI vị kỷ của ta. “Bỏ mình” là không còn quá chú trọng đến mình, không còn tập trung mọi sự về mình, không biến mình là trung tâm của vũ trụ và chú ý của người khác. Nhưng chỉ hướng “mình” về với Chúa, Chúa là trung tâm đời mình, không còn ai khác.
Cứ thử sống như thế, ta sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an và hạnh phúc, một thứ bình an hạnh phúc sâu xa khác hẳn với thứ hạnh phúc mà chúng ta thường tìm kiếm theo lối ích kỷ. Và chúng ta chưa hạnh phúc cũng vì chúng ta không chấp nhận đau khổ: hơi khổ một chút là ta kêu van, bực bội, khó chịu, và tìm cách trút đau khổ cho người khác nếu được. Chính vì chúng ta sống như vậy, mà chúng ta mới đau khổ, đồng thời gây đau khổ cho bao người khác. Chúng ta có thể dựa vào tiêu chuẩn rõ ràng này để biết mình có phải là người thật sự theo Chúa hay không. Nhiều người tưởng mình đang theo Chúa cách tích cực chỉ vì mình đang là Kitô hữu, là tu sĩ, là linh mục, giám mục, hoặc đang làm tông đồ, tham gia hội này dòng kia. Nhưng nếu người ấy chưa từ bỏ được «cái tôi» của mình, ai nói động chạm đến mình là nổi đóa lên ngay, thì họ chưa phải là người theo Chúa đích thực. Hoặc khi nào phải hy sinh một chút cho người khác là tìm cách tránh né, từ chối, thì đó chỉ là kẻ giả danh theo Chúa thôi. Lời Chúa nói thật rất rõ ràng để mỗi người tự xét và tự biết mình trong việc này.
- 4. “Vác thập giá mình”: Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Chúa Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 24 giải thích câu 23: “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa. Chúa đã chọn con đường thập giá và ai theo Chúa cũng phải đi con đường đó, không còn con đường nào khác. Những đau khổ, những thử thách trong đời có giá trị giúp thanh luyện chúng ta, giống như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy. Và trong ý nghĩa đó, thử thách đau khổ sẽ trở thành những hạt mầm chất chứa nguồn ơn cứu độ khi chúng ta biết liên kết với những đau khổ của Đức Kitô. Khi gặp đau khổ, thay vì kêu ca, trách móc… hãy dâng lời tạ ơn Chúa.
Khi bạn cho rằng đó là cơ hội để bạn chịu đau khổ và nên giống Chúa Kitô thì thập giá là niềm hạnh phúc. Chấp nhận đau khổ theo Đức Giêsu còn là một điều phúc (x. Mt 5,5). Chấp nhận đau khổ, nhất là với một tinh thần tự ý còn là một thình thức sám hối hữu hiệu. Đau khổ mang giá trị thanh tẩy thật, giúp tâm hồn dễ dàng tiến triển trên con đường nhân đức. Đau khổ là cách thể tuyệt vời để luyện tâp tâm tính như Raymond Offner đã nói: “Đau khổ làm cho người ta trở nên khôn ngoan sáng suốt hơn”. Thật vậy, đau khổ tôi luyện người ta thành nhân, sung sướng khiến người ta hư đốn. Vì thế mà Chúa Giêsu đề cao đau khổ và cảnh báo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ vẫn tồn tại. Muốn thoát khổ, chỉ có cách duy nhất là đi xuyên qua đau khổ. Nhà ngoại giao kiêm văn sĩ Paul Claudel (1868-1955) đã nhận định: “Chúa Giêsu xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”.
- 5. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Người ta nghĩ Thầy là ai”, Ngài không hỏi thế vì Ngài, bởi vì Ngài đã biết rõ Ngài là ai rồi. Ngài hỏi thế là vì các môn đệ, Ngài tạo dịp cho họ suy nghĩ chín chắn về bản thân Ngài. Khi hỏi câu nầy, Chúa muốn nghe lời tuyên xưng từ mỗi cá nhân về liên hệ giữa mình với Chúa (the personal relationship) ở hiện tại mà không chú ý để nghe nói về, hoăc nghe từ ai trong quá khứ. Chúa muốn biết sự liên hệ giữa Chúa với ta thế nào: thân thương hay quen sơ, thâm tình hay xã giao, thắm thiết hay lạnh nhạt. Nói tắt, Chúa muốn biết cảm nghiệm bên trong từ con tim và trí tuệ ta chứ không phải bên ngoài từ sự hiểu biết suông. Sự liên hệ giữa Chúa và chúng ta chỉ được xác nhận bởi việc tuân giữ những luật lệ và thói tục bên ngoài, thiếu sự xác tín từ trong tâm hồn. Đức tin của chúng ta vẫn chỉ mượn lại của ông bà cha mẹ hay người khác. Chúng ta nghe nói về Chúa nhưng chưa gặp Ngài trong cảm nghiệm đời sống đức tin. Chúa Giêsu đối với chúng ta là Đấng đã từng nghe nói hay nghe hơi quen quen chứ không phải là bạn chí thiết, là Cứu Chúa của mình. Do đó, việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật hay những buổi cầu nguyện, tĩnh tâm…là một sự bắt buộc, có thể vì sợ tội, hay vì sợ người khác dòm ngó, không đi không được, hơn là vì tự nguyện và yêu thích.
Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu? Nhiều khi ta biết rất rõ Giáo Hội nói gì về Đức Giêsu, và ta cũng tuyên xưng mạnh mẽ ra bên ngoài tất cả những gì Giáo Hội dạy. Nhưng trong thực tế, có thể Đức Giêsu chưa là gì đối với bản thân ta. Ngài vẫn như một ai đó xa lạ với ta, ở bên ngoài ta. Ta chưa cảm nghiệm được sự hiện diện hữu hiệu của Ngài ở trong ta. Giữa ta và Ngài chưa có một quan hệ thân thiết đầy tình nghĩa, chiếm nhiều đầu óc của ta, có khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của ta, chi phối và thúc đẩy ta hành động. Rất nhiều khi ta đến nhà thờ để gặp Ngài, rước Ngài vào tận trong cơ thể ta, nhưng dường như giữa ta và Ngài chẳng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan hệ giữa ta với Ngài nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Sở dĩ như vậy là vì bản thân ta vẫn chưa xác định được Ngài là gì đối với ta. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi ta: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Ngài muốn ta xác định lại chỗ đứng đích thực của Ngài trong tâm hồn ta, để từ đó xác định lại mối quan hệ giữa ta với Ngài.
Tại sao cần phải xác định như thế? Vì có xác định Ngài là gì đối với ta, và ta là gì đối với Ngài, ta mới hành xử với Ngài thích hợp với quan hệ đã xác định ấy. Tương tự như quan hệ của ta với một người nào đó: nếu ta xác định người ấy chẳng là gì đối với ta, thì ta đối xử với người ấy sao cũng được, chẳng cần phải tỏ ra nồng thắm hay tình nghĩa. Nhưng một khi đã xác định người ấy là cha mẹ ta, là vợ chồng hay người yêu ta, là con cái của ta, hay là ân nhân, bạn bè ta, thì ta phải đối xử sao cho xứng hợp với quan hệ của người ấy với ta. Không thể cư xử với cha mẹ hay người thân tương tự như với người dưng được. Vì thế, một khi ta đã nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Đấng Cứu Thế, hay là Bạn, là Người Yêu… thì ta phải đối xử với Ngài đúng với những tư cách ấy của Ngài. Nếu nhìn nhận Ngài là Vua là Chúa thì đối với Ngài ta phải hành xử như một thần dân. Nếu nhìn nhận Ngài là Cha thì ta phải hành xử như một người con. Nếu coi Ngài như lẽ sống cuộc đời mình, thì ta phải sẵn sàng sống chết với Ngài… Nếu nhìn nhận một đằng, nhưng lại hành xử một đằng, thì sự nhìn nhận đó là giả dối.
Khi ta đã xác định Ngài là Chúa, là Thầy, và ta là môn đệ theo Ngài, Ngài cho ta biết điều kiện để theo Ngài: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo» . Ngài muốn ai theo Ngài thì phải thực hành đúng như vậy. Không thực hành như vậy thì không phải là theo Ngài đúng nghĩa. Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của mình.
Như vậy, nếu ta xác định mình là người theo Đức Giêsu mà lại không chịu từ bỏ bản thân, vẫn tiếp tục sống ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vun vén mọi sự cho mình, không chịu dấn thân sống tinh thần yêu thương, không chấp nhận vác thập giá theo Ngài, lúc nào gặp khó khăn cũng than phiền, cũng đổ lỗi cho người khác, cũng muốn lánh nặng tìm nhẹ, tránh khổ tìm sướng, thì việc xác định của ta chỉ là giả dối, việc theo Chúa của ta chỉ là trên danh nghĩa chứ không phải trên thực tế.
Phêrô quá trần tục đến nỗi không hiểu nổi ý định của Thiên Chúa. Bằng chứng, ông đã ngăn cản khi Thày tự xưng là Con Người với một viễn ảnh vô cùng đen tối. Ngược với hình ảnh “Ðấng Kitô” trong đầu Phêrô và truyền thống Do thái. Tôi có thể bị cám dỗ sống đức tin như trong sách vở. Chính ông Phêrô đã trải qua cơn cám dỗ này. Ông đã trả lời đúng bài bản, nhưng lại không hiểu gì về sứ điệp của Chúa. Bởi thế, ông mới bị la rầy là Satan. Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi tôi từ bỏ chính mình. Có bỏ mình mới có thể bước theo Thày. Mặc dù không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy tính ích kỷ, không biết tôi đã bước theo Thày cách nào và tới đâu rồi?
“Chúa Giêsu là ai?” vẫn mãi là câu hỏi cần mỗi người Kytô chúng ta đi tìm lời giải đáp. thực sự Chúa đang chiếm một địa vị nào trong con người, trong tâm hồn chúng ta. Có thật cần thiết không hay cũng chỉ là một “vật trang trí”? Chúa chỉ cho chúng ta thấy ai sẵn sàng mất mạng vì Chúa, chấp nhận sự thua thiệt, đón nhận thập gía mình hằng ngày để theo Chúa sẽ là người trả lời được câu hỏi mà Chúa sẽ thẩm vấn từng người chúng ta. Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
- Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. Tin Chúa nhưng ta sống với Chúa thế nào? Ta biểu lộ đức tin đó làm sao: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết….Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.” (Gc 2: 17-18) Một đức tin mà không được thể hiện qua những công việc từ thiện bác ái, là một đức tin chết. Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giê-su nói. Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau. Tin và con đường thập giá nhưng khi gặp đau khổ, ta có thái độ thế nào?
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Ðức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá. Cuộc đời người Ki-tô hữu hơn người khác hệ tại ở chỗ biết chuẩn bị cái chết như Đức Giê-su: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt khác !” (Ga 12,24) Thập giá của bổn phận với ơn gọi của mình đã chọn, điều đó không tránh khỏi. Ta phải lê gót cất bước cho đến cùng; với nguồn ơn thánh Chúa giúp, ta có thể an bình vui sống chịu đựng vì đó là thập giá có tình yêu. Khi gặp đau khổ, nhìn lên thập giá Chúa Giê-su để nghe Ngài thầm nhủ: “Ơn Thầy sẽ đủ cho con.” (2Cor 12:9)
- Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh ra. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giê-bê-đê mới xin Chúa cho 2 người con là Gio-an và Gia-cô-bê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công, được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Câu hỏi cho chúng ta hôm nay là làm thế nào để vác thập giá của mình mà nó có thể đem lại sự xỉ nhục, sự đau khổ nhưng chúng ta không hổ thẹn, như bài đọc một đã viết: “Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50:7)? Thánh Augustinô viết: Ðâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu. Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến trên chúng ta mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh được khổ đau phiền muộn nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn. Trường hợp Golda Meir: Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn tiềm tàng, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại lợi ích cho mình hơn.” Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel. Thiên Chúa thường dùng khổ đau phiền muộn để biến đổi chúng ta thành người tốt hơn và biết thông hiểu kẻ khác hơn. Khổ đau và phiền muộn có thể mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng dám mơ ước.
Với trải nghiệm cuộc sống ở đời, cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã viết trong ca khúc “ Một cõi đi về”: Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt/ Dọi suốt trăm năm một cõi đi về. Với những triết lý của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, chúng ta thấy cuộc đời này cứ loanh quanh, luẩn quẩn, rồi chẳng biết nơi đâu là chốn quê nhà, đi mà chẳng biết đâu là đích điểm của cuộc đời. Thật là vô nghĩa. Với giới hạn của thân phận con người thì chúng ta vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng về sự sống mai sau sẽ như thế nào. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chính vì lẽ đó, trong trang Tin mừng hôm nay, câu hỏi của Chúa Giê-su sẽ là câu trả lời cho chúng ta về những điều vô nghĩa đó, khi Chúa Giê-su hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai? Thì thánh Phê-rô đã trả lời: “ Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Còn chúng ta thì sao? Chúa Giê-su cũng đang hỏi chúng ta, Ngài cần câu trả lời của mỗi người chúng ta, và cho những ai đang còn hoài nghi về Thiên Chúa, thì thánh Phê-rô và các tông đồ là chứng nhân sống động về Thiên Chúa. Trong khi đó có kẻ bảo Thiên Chúa đã chết, và không có Thiên Chúa hiện hữu trong thế giới này. Khi con người sống trong một thế giới khoa học thực tiển và thực dụng, họ cho là Thiên Chúa vắng bóng. Hơn nữa, những điều Chúa nói thì họ cho là đi ngược lại với những gì con người đang sống, và hành động. Trong khi đó, Chúa Giê-su lại nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo; ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin mừng thì sẽ được cứu sống”. Nếu nhạc cố sỹ Trịnh Công Sơn vẫn chưa tìm ra nơi nào là chốn quê nhà, thì hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta con đường về quê hương đích thực chính là nơi Ngài. “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”. Chúa Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta. Như lời thánh Phê-rô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc đích thực trong từng phút giây đời sống của chúng con. Xin cho tay của chúng con biết mở rộng và tim của chúng con biết khát khao tình yêu Thiên Chúa. Khi con người không đặt Thượng Đế vào vị trí trung tâm của cuộc sống, họ sẽ dễ xô xát, cãi vã, ghen tị, đấu đá, thủ đoạn, lợi dụng, thù hận, hãm hại nhau… Nói cách khác, nhiều đổ vỡ bắt nguồn từ việc không có hoặc thiếu vắng niềm tin. Người ta không thể sống trọn vẹn, hài hòa nếu họ không có niềm tin.
- Thường khi gặp đau khổ (thể xác và tinh thần), chúng ta thường bực bội, khó chịu, cằn nhằn, chửi bới, nhiều khi còn trách cả Chúa…. Hãy tập tạ ơn Chúa khi gặp đau khổ…..
Vậy đường Thánh giá mà Hội Thánh đi theo khác hẳn kiểu người đời lầm tưởng: là chịu đựng, là cắn răng với cái khổ, là lầm lũi bước đi mặc đời lầm than. Không, đường Thánh giá là con đường tuy khổ nhưng đẹp, tuy gian nan nhưng vinh quang. Tại sao thế? cái chết của Chúa Giêsu là “dạng thức cao nhất của Tình Yêu”. Vậy đường Thánh Giá là đường tình yêu. Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu không phải là cùng đích của mầu nhiệm Cứu độ, mà chính sự Phục Sinh vinh hiển của Người mới là trung tâm và cùng đích. Do đó, đường Thánh Giá là đường hy vọng. Chúng ta khi suy ngắm con đường Chúa đi cũng cảm nghiệm được rằng đường Thánh Giá là đường phục vụ. Sứ mạng và bản chất của Hội Thánh là ra đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu và hy vọng, thì hệ quả tất nhiên là phục vụ. Chính vì yêu thương, hy vọng và phục vụ mà Hội Thánh đi con đường Thánh giá, chứ không phải vì không hiểu biết hay vì yếu kém. Và khi đi trên con đường ấy, Hội Thánh mang sứ mạng đi tìm công lý, bình an và cứu độ, cũng như Đức Kytô đi đường Thánh giá là để trả lại những giá trị ấy cho cõi nhân sinh. Như vậy, Hội Thánh không chấp nhận bất cứ hình thức thoả hiệp nào với cỏ dại bên vệ đường để tìm dễ dãi mà quên nhìn về phía trước nơi có ánh bình minh của ơn cứu độ.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN A
Sửa lỗi anh em
Bài đọc I: Ed 33,7-9-phải sửa lỗi cho nhau….
Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.
Cũng vì thế, thánh Giacôbê nói: “Ai làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5,20).
Bài đọc II: Rm 13,8-10- Sửa lỗi trong Yêu thương
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương chính là chu toàn Lề Luật vậy.
TIN MỪNG: Mt 18,15-20
- VIỆC GÓP Ý SỬA LỖI CHO NHAU TRONG CỘNG ĐOÀN
Phúc âm Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về tiến trình “sửa lỗi” để xây dựng Giáo hội. Từ chương 14, sau khi kêu gọi các tông đồ, Chúa Giêsu giáo huấn các ông. Toàn bộ chương 18, sự dạy dỗ của Chúa tâp trung và nhấn mạnh đến việc sửa chữa sai lỗi trong cộng đoàn, ngày nay gọi là Hội thánh.
Toàn bộ giáo huấn của Kinh Thánh – cả Cựu lẫn Tân Ước – đều tóm gọn trong hai chữ yêu thương. Yêu thương có hai đối tượng chính là Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng theo giáo huấn của Đức Giêsu, tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa tất yếu phải được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân. Nghĩa là đã yêu Thiên Chúa thì tất nhiên phải thương tha nhân. Thánh Gioan viết: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại không yêu thương anh em mình, người ấy là kẻ nói dối» (1Ga 4,20). Vì tha nhân chính là hiện thân cụ thể và thấy được của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta, bất kể tha nhân đó là ai: người yêu ta hay người ghét ta, kẻ ta yêu hay kẻ ta ghét, người làm lợi cho ta hay kẻ thường làm hại ta, người thánh thiện hay người tội lỗi. Kẻ thù, kẻ xấu xa, kẻ tội lỗi mà ta còn phải yêu thương và mong muốn những điều tốt lành cho họ, huống gì người anh em cùng trong một cộng đoàn với ta, cùng chung một lý tưởng với ta, cùng theo Chúa như ta, phạm phải một số lầm lỗi nào đó. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy ta cách đối xử với những anh em có những lầm lỗi đó.
Khi anh em mình có lầm lỗi, Ngài không dạy ta cứ mặc kệ họ, mà đề nghị ta sửa lỗi cho họ: «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi người ấy» (Mt 18,15a). Ngôn sứ Êdêkien còn cho việc sửa lỗi ấy là một bổn phận hay trách nhiệm: «Chúa phán: Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó» (Bài đọc 1).
Sửa lỗi cho họ chính là cách thể hiện tình thương của ta đối với họ. Vì yêu thương ai thì phải tìm cách làm cho người ấy nên tốt, nên hoàn thiện hơn. Thấy anh em ta lầm lỗi, mà vì nể nang họ, sợ họ bị chạm tự ái, sợ họ buồn nên ta không đả động gì đến lỗi của họ, cứ để mặc họ tiếp tục lầm lỗi, thì đó không phải là yêu thương họ. Tình thương phải thúc giục ta đưa họ ra khỏi sai lầm, khỏi tội lỗi và điều xấu ác, vì nếu họ cứ tiếp tục lầm lỗi, thì hậu quả đến với họ sẽ là đau khổ (đau khổ tinh thần, tâm lý hoặc thể chất), và có thể nguy hại cho linh hồn họ.
“Nhân vô thập toàn”, nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết điểm. Nếu đố kỵ nhau thì những lỗi lầm và khuyết điểm của những cá thể sẽ làm khổ cho cả tập thể. Nếu tập thể đó là một cộng đoàn huynh đệ, thì người này phải lấy tình thương mà sửa lỗi người kia, cộng đoàn sẽ ngày càng tốt hơn, cuộc sống cộng đoàn sẽ ngày càng hạnh phúc hơn. Nhưng: Vì thiếu can đảm, chúng ta đã không dám sửa lỗi cho những anh chị em chúng ta. Vì thiếu quan tâm, chúng ta bỏ mặc khi thấy một người trong cộng đoàn phạm lỗi. Nhiều khi chúng ta không chú ý sửa lỗi, mà chỉ kết án anh chị em.
Sửa lỗi chứ không phải bới móc, không phải rỉ tai và luôn luôn ý thức rằng: Tôi cũng có lỗi và cần được người khác sửa lỗi. Vì thế, tôi phải gặp người anh em chỉ hai người thôi để như là một lời tâm sự và để giữ thể diện cho người có lỗi, đồng thời giúp họ cảm nhận được tình thương, và để duy trì danh dự cho người đó giúp họ dễ dàng sống tốt hơn. Đừng để họ bị đè bẹp và thất vọng vì dư luận, định kiến. Đồng thời, khi gặp riêng, chúng ta cũng giữ được sự kín đáo, bảo vệ được danh dự của người sai lỗi. Nhờ đó, việc sửa lỗi sẽ dễ dàng hơn.
Kế đến, Đức Giêsu dạy chúng ta: “Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hay ba nhân chứng”. Mời thêm người không phải để làm áp lực, nhưng là để sự việc khách quan hơn. Đồng thời, cũng giúp cho người sai lỗi nhận ra tầm quan trọng của họ ở giữa cộng đoàn. Họ đang được sự quan tâm của rất nhiều người.
Nếu cũng không thể được thì lúc ấy mới đưa ra cộng đòan. Bước thứ ba là đưa ra cộng đoàn để cùng nhau xây dựng. Và cuối cùng: “Nếu nó cũng không nghe họ, hãy kể nó như người ngoại giáo và người thu thuế”. Nếu làm hết cách theo khả năng mà chưa kết quả, hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Chúa.
Tiến trình như thế cho thấy việc sửa lỗi anh em là cần thiết, tế nhị và cũng rất khó khăn, phải kiên trì như người cha nhân hậu trong Luca 15, có như thế mới nói lên tình yêu thương chân thật, vì bản chất của tình yêu là “muốn sự lành cho người mình yêu”, nên phải tích cực đóng góp phần mình vào việc giúp đỡ lẫn nhau sống hòan thiện.
Việc sửa lỗi cho nhau đặt trên nền tảng Đức Ai chứ không phải kỷ luật, cho nên nếu có phải dùng những chứng nhân thì cũng không phải để tố cáo theo pháp lý, mà để có những người anh em giúp khuyên nhủ hầu giúp người có lỗi cảm thấy được thông cảm mà can đảm trở về, và cuối cùng là cầu nguyện cho người có lỗi. Chúa Giêsu muốn chúng ta sửa lỗi trong tương quan huynh đệ và tương quan này được xây dựng trong tương quan với Chúa Giêsu, đặt trên cơ sở là làm theo ý Cha (x. Mt.12,48-50; Cv.9,11…). Tình huynh đệ này phát sinh do việc sinh lại và mối quan hệ Cha – Con đối với Thiên Chúa (Rm.12,10).
Trong mọi trường hợp, đức ái phải được tôn trọng tuyệt đối, bởi nếu không, chúng ta sẽ rơi vào khuôn sáo của kỷ luật, của luật pháp, của kéo bè đảng phái, của lên án,… và hậu quả là, không đem người anh em trở về mà lại còn đẩy họ ra xa hơn mối liên hệ với cộng đoàn. Kế đến, vì có người anh em phạm tội nên đời sống cộng đoàn ít nhiều bị rạn nứt. Vì thế, Chúa Giêsu muốn hàn gán sự rạn nứt này bằng chính đời sống cầu nguyện chung: khi có hai, ba người họp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Chúng ta có thể xem đây là phương thức hữu hiệu nhất để nối kết tình bác ái cũng như hiệp nhất trong cộng đoàn. Như thế, khi có người anh em trót lỗi lầm, chúng ta biết cần phải làm gì trước tiên để dẫn họ quay về nẻo chính đường ngay.
Chúng ta thấy tiến trình tiếp cận người anh em lầm lỗi luôn theo trình tự tiệm tiến, từ kín đáo, riêng tư đến công khai với mục đích giúp người anh em nhận ra lỗi lầm để sửa đổi. Tiến trình Chúa Giêsu đưa ra không nhằm để vạch trần hay nhục mạ người anh em lầm lỗi, trái lại, Người muốn dùng để cứu lấy người anh em, đừng để họ phải hư mất. “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được một món lợi là người anh em mình”. Ngôn từ dùng để tiếp cận người anh em không phải là loại ngôn từ hàng chợ, chua cay gắt gỏng, đầy mầu sắc lên án hay phê bình chỉ trích, nhưng là loại ngôn từ nhẹ nhàng đầy tình bác ái, cảm thông và yêu thương.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Thế nhưng vẫn có những trường hợp cá biệt, cố chấp không đón nhận sự hoà giải của cộng đoàn. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đưa ra một giải pháp cuối cùng, đó là xem họ “như một người ngoại hay một người thu thuế”. Đưa ra giải pháp này, chúng ta thấy Chúa Giêsu không nhằm kết án hay loại trừ người anh em mà chỉ xem họ như những người chưa nhận ra Thiên Chúa là chân lý và là lẽ sống. Đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn mời gọi chúng ra hãy đồng hành với họ, đồng bàn với họ như Chúa Giêsu đã từng đồng bàn với những người thu thuế, tôn trọng phẩm giá của họ. Lý do duy nhất để chúng ta hành xử như thế là bởi vì họ như những người chưa có niềm tin; cuộc đời của họ vẫn còn khép kín, chưa mở lòng ra đón nhận chân thiện mỹ và công việc của họ vẫn ngập tràn sự bất công và bóc lột người khác. Chính vì thế, hơn ai hết, họ là những người đáng thương hơn đáng trách và chúng ta cần phải dùng bác ái để đối đãi với họ và không ngừng dùng lời cầu nguyện để xin Chúa sớm dẫn họ trở về nẻo chính đường ngay.
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Ðối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho Giáo hội, xã hội suy thoái. Sửa chữa anh em là một điều rất hợp thánh ý Chúa. Ngài không muốn cho tội nhân phải hư mất mà được hối cải và được sống. Sửa chữa nhau là điều luật của bác ái: yêu tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta. Mà yêu người là muốn sự lành cho người, là lo lắng kéo người ta ra khỏi tình trạng tội lỗi, đưa đến chỗ thánh thiện. Nhưng để việc sửa chữa anh em đem lại kết quả mong muốn, thì ngoài sự cầu nguyện là việc rất cần thiết cho mọi cuộc trở lại, chúng ta phải thực hiện theo phương pháp và thứ tự như Chúa Giêsu dạy.
Để thực hiện giáo huấn của Chúa về việc góp ý và sửa lỗi cho anh em, chúng ta phải trang bị cho mình một số điều kiện không thể thiếu như sau:
– Lòng khiêm nhường: là điều kiện đầu tiên. Vì thấy anh em sai sót, không có nghĩa là chúng ta hoàn hảo, thánh thiện hơn họ. Hãy coi chừng kẻo chúng ta “thấy cái dằm trong mắt anh em mà không thấy cái đà trong mắt mình” Hãy coi chừng tính kiêu căng khiến chúng ta mù quáng và tự mãn một cách nguy hại. Vì nếu không khéo hay vụng về cách nào đó thì anh em sẽ cho rằng chúng ta sửa lưng anh em chứ không phải sửa lỗi anh em, miệt thị, hạ giá anh em hơn là muốn anh em nên tốt. Và không khéo thì chúng ta sẽ bị anh em mắng lại: Chân mình thì lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Nói cách khác phải có sẵn một tinh thần khiêm hạ, đơn sơ, vô vị lợi khi thi hành trách nhiệm sửa lỗi anh em. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” phải là nguyên tắc hành xử trong lãnh vực tế nhị này, có nghĩa là trước khi sửa lỗi người khác, chúng ta phải sửa lỗi của bản thân mình đã.
Lòng yêu thương và quý trọng: là điều kiện thứ hai. Vì yêu thương là muốn điều tốt, điều thiện cho anh em. Việc góp ý và sửa lỗi anh em là việc hết sức tế nhị và chỉ đạt kết quả nếu chúng ta thực sự yêu thương và quý trọng người mà chúng ta muốn góp ý và sửa lỗi. Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại. Thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma trong bài đọc 2: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Lời khuyên quí báu này càng phải được áp dụng trong trường hợp chúng ta muốn góp ý, sửa lỗi anh em.
-Lòng dũng cảm và vô vị lợi: là điều kiện thứ ba. Có lòng dũng cảm và vô vị lợi chúng ta mới vượt thắng được tính cả nể và sự ngần ngại làm mất lòng người mà chúng ta muốn góp ý và sửa lỗi. Có nhiều người không có cơ may thay đổi cách sống, chỉ vì không được những người thân cận mạnh dạn góp ý và sửa lỗi cho họ, nên họ cứ tưởng là mình đã hoàn hảo rồi, không cần phải thay đổi chi cả!
-Nghệ thuật góp ý sửa lỗi: là điều kiện thứ bốn. Không phải góp ý và sửa lỗi bằng bất cứ cách nào, với bất cứ ngôn từ nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trái lại cả là một nghệ thuật chọn nơi, chọn lúc, chọn lời, chọn cách để góp ý và sửa lỗi anh em ! Có thế thì thiện ý của chúng ta mới được đón nhận và có hiệu quả. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em : Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Ngoài sự khiêm nhường, tình yêu thương, lòng dũng cảm của người muốn góp ý và sửa lỗi anh em, người muốn được anh em góp ý và sửa lỗi còn cần có một điều kiện khác: Ðó là tinh thần phục thiện! Ðây là điều kiện hết sức quan trọng, không thể không có, cũng giống như những điều kiện kia. Vì chưng lòng tự ái và kiêu căng trong chúng ta có thể đóng chặt cửa trái tim chúng ta lại, khiến chúng ta không đón nhận được những góp ý và sửa lỗi lành mạnh mà chúng ta rất cần, để hoàn thiện bản thân.
Trong cộng đoàn, các tín hữu có trách nhiệm phải giúp nhau sửa đổi cách sống cho mỗi ngày một hoàn thiện, vì họ thực sự là anh em của nhau, là chi thể của Thân Mình Chúa Ki-tô là Hội Thánh. Nhân vô thập toàn, người nào cũng có khuyết điểm, không ai vẹn toàn trăm phần trăm. Thế nhưng tâm lý tự nhiên người ta thường nói: đẹp đẽ khoe ra xấu xa che lại. Và không ai muốn vạch áo cho người xem lưng, vì ai cũng sợ người khác biết được khuyết điểm hay tính xấu của mình, tự nhiên ai cũng muốn người khác quên đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Do đó việc sửa lỗi anh em gây khó khăn vì phía người sửa lỗi. Việc sửa lỗi anh em thật tế nhị và khó khăn. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Ðối với người có trách nhiệm hay bề trên sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là một bổn phận nữa.
Mục đích sự can thiệp sửa lỗi này không phải là để kết án người anh em mình, mà là để thu phục, làm cho người anh em trở lại với cộng đoàn. Nếu được như vậy thì kể như “đã lợi được một người anh em”. Tất cả việc sửa lỗi đều phải xuất phát do do động lực tình yêu, coi người khác là cùng thân thể với mình, lỗi người cũng là lỗi mình.Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy tràn Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là Ðấng duy nhất “sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta”.
Chúng ta là chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta cùng tuyên xưng một niềm tin, một niềm hy vọng và cậy trông, cùng chia sẻ một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Chúng ta có bổn phận xây dựng đời sống chung nên tốt hơn, hoàn hảo hơn và thánh thiện hơn. Lời cầu nguyện là máng chuyển cầu ơn Chúa xuống trên chúng ta. Ơn sủng của Chúa sẽ giúp chúng ta kết hợp nên một thân thể trong Chúa Kitô. Tin tưởng vào lời Chúa đã hứa: Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt. 18,19). Chúng ta cùng cầu nguyện để được ơn hiệp nhất và ơn bình an.
- Bất kỳ xã hội nào cũng luôn luôn có người tốt người xấu, người thánh thiện kẻ tội lỗi. Người tốt và thánh thiện thường được kính nể, khâm phục, ưa thích và lui tới. Kẻ xấu hay tội lỗi thường bị khinh thường, tẩy chay và xa tránh. Nhưng Thiên Chúa – là Cha chung của mọi người – không phân biệt đối xử như vậy, vì ai cũng là con cái Ngài, được Ngài yêu thương vô bờ bến. Vì thế, «Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính» (Mt 5,45). Cách đối xử không phân biệt của Thiên Chúa được thể hiện qua Đức Giêsu, là hiện thân của Ngài ở trần gian. Chính những người tội lỗi, xấu ác, lại là những người được Ngài quan tâm yêu thương đặc biệt. Ngài đến trần gian vì mọi người, nhưng trước tiên là vì những người tội lỗi: «Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi» (Mt 9,13). Và Ngài sẵn sàng «để chín mươi chín con chiên trên núi mà đi tìm con chiên lạc» (Mt 12,18). Và bài Tin Mừng hôm nay (Mt 9,9-13) cho ta thấy cách đối xử nhân hậu, yêu thương, hòa nhập của Đức Giêsu với những người tội lỗi.
Thói đời, khi tuyển chọn người cộng tác với mình, người ta thường lựa những người mà họ biết chắc là tốt, làm việc được. Còn Đức Giêsu, ngài biết Matthêu là một người thu thuế, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, cần xa tránh. Thế mà Ngài vẫn kêu gọi ông làm môn đệ cho Ngài. Chính nhờ được Ngài kêu gọi, ông đã trở nên một con người tốt, một tông đồ nhiệt thành của Ngài. Như vậy, đối với người không tốt, Ngài không chủ trương loại trừ, vứt bỏ, mà thâu nhận họ để gần gũi, yêu thương, hầu giáo dục, cải hóa họ, đưa họ về đường ngay nẻo chính. Kẻ chủ trương loại trừ người xấu, không tín nhiệm họ, không dùng họ, là vì người ấy chỉ nghĩ đến sự thuận lợi cho mình hay công việc của mình. Còn Đức Giêsu, việc cứu độ trần gian, thiết lập Nước Trời mà Ngài phải hoàn thành vô cùng quan trọng. Nhưng Ngài vẫn mời gọi Matthêu – một người đại diện cho thành phần bị cho là tội lỗi – cộng tác vào việc này. Ngài không chỉ nghĩ tới hiệu quả của công việc, mà còn nghĩ đến quyền lợi và hạnh phúc của cả người xấu, kẻ tội lỗi, đến khả năng làm cho họ trở nên tốt nữa.
Ta đừng tưởng những người bị mọi người coi là tội lỗi đều thật sự là những người tội lỗi hơn ta. Coi chừng, cách đánh giá của Thiên Chúa hay Đức Giêsu khác hẳn với ta. Người Pharisêu đánh giá rất thấp hạng thu thuế và phường đĩ điếm, nhưng Đức Giêsu lại quả quyết với họ: «Tôi bảo thật các ông: phường thu thuế và bọn gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Trong dụ ngôn hai người cầu nguyện tại đền thờ (Lc 18, 9-14), người Pharisêu cứ tưởng mình được Thiên Chúa đánh giá cao hơn người thu thuế rất nhiều. Nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại. Đức Giêsu nói: «Tôi nói cho các ông biết: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người Pharisêu thì không» (Lc 18,14).
Tại sao vậy? Vì «Người không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói» (Is 11,3; x. Mc 12,14). Nhiều trường hợp dáng vẻ bên ngoài không phản ảnh đúng thực tại bên trong, mà có khi hoàn toàn trái ngược. Thật vậy, một số người Pharisêu bị Đức Giêsu kết án: «Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!» (Mt 23,28). Rất nhiều khi chính chúng ta cũng bị lừa, hoặc tự lừa dối mình, vì vẻ bên ngoài của ta, vì chức vụ cao trọng ta đang nắm. Chúng ta tưởng mình là công chính vì thấy mọi người đều đánh giá ta như vậy, hoặc vì ta đang ở trên một bậc thang rất cao trong Giáo Hội hoặc xã hội. Thế là ta hãnh diện và lên mặt với mọi người. Thật ra, ta đang bị lừa dối bởi chính quan niệm sai lầm của ta. Vì thế, thánh Phaolô mới nói: «Ai tưởng mình đang đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). Tốt nhất là chúng ta đừng tự đánh giá mình cao quá, đừng vội cho mình đạo đức thánh thiện cho dù ta được mọi người suy tôn như vậy. Vì chưa chắc Thiên Chúa đã đánh giá ta như mọi người đánh giá. Hãy suy nghĩ lời Chúa: «Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên» (Mt 23,12; Lc 14,11). Tốt nhất, nên tự đánh giá mình thấp kém một chút, vì tự đánh giá kiểu ấy thường là đúng với sự thật hơn.
Khi tự đánh giá mình cách khiêm nhu như vậy, ta dễ có thái độ giống Đức Giêsu khi gặp những người tội lỗi: sẵn sàng hòa mình với họ, giao thiệp, ăn uống với họ, coi họ như anh em, bạn hữu của mình, nhất là thật sự yêu thương họ… Chứ không xa cách, khinh bỉ, chê bai, nguyền rủa, ghét cay ghét đắng họ. Thiết tưởng là môn đệ Đức Giêsu, ta phải có thái độ giống như Ngài đối với những người bị mọi người coi là tội lỗi, xấu xa… Chính thái độ đối với những người này mới thật sự chứng tỏ ta có tình yêu đích thực ở bên trong hay không.
Đọc và suy gẫm Kinh Thánh hằng tuần, có khi hằng ngày, nhưng nhiều khi ta không thấm nhuần được tinh thần yêu thương tha thứ của Đức Giêsu. Mặc dù ta vẫn chê bai người Pharisêu, nhưng đối với người tội lỗi, phản ứng của ta thường rất giống người Pharisêu: ta cũng ưa tẩy chay, xa lánh, kết án, loại trừ những người tội lỗi, đồng thời tự hào rằng mình công chính không khác gì họ. Họ thích áp dụng luật lệ để ném đá cho chết những người phụ nữ ngoại tình, hơn là làm theo đòi hỏi của tình thương trong lòng họ (x. Ga 8,3-5); ta thường cũng hành xử như thế. Còn Đức Giêsu, trong những trường hợp ấy, Ngài không kết án, nhưng thông cảm sâu xa với hoàn cảnh và sự yếu đuối của họ, đồng thời tìm cách cảm hóa để họ đi vào con đường ngay chính (x. Ga 8,11). Chúng ta hãy xin Chúa giúp ta hành xử theo tinh thần yêu thương của Đức Giêsu.
- Khởi đầu mỗi thánh lễ, có phần nghi thức ăn năn sám hối tội lỗi. Chúng ta đọc kinh cáo mình và kêu van rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Rồi chúng ta nài xin Đức Maria và các thiên thần, các Thánh và anh chị em khẩn cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Trong kinh sám hối thì tâm tình rất sâu đậm và sốt sắng. Trở lại thực tế cuộc sống thì những tâm tình sám hối lại biến mất. Chúng ta lại phàn nàn: Lỗi tại tôi nhưng lôi thôi tại bà. Lỗi tại tôi nhưng luôn luôn có chữ “nhưng mà” hay “bởi vì” để làm nhẹ bớt cho sự sai lỗi của mình. Ít khi chúng ta nhận lỗi của mình ngay lập tức vì chúng ta sợ. Sợ mất danh dự, sợ mất tiếng tốt, sợ bị phát hiện sự thật và sợ phải nghe sự phê bình. Có nhiều cách thế dẫn đến sự sai lỗi lắm. Có khi làm lỗi vì mình không biết, có khi hiểu lầm hoặc vì yếu đuối rơi vào cơn cám dỗ.
Nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình. Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”
Chúng ta hãy nhìn lại trường hợp cụ thể về vua Đavít được thuật lại trong Kinh Thánh (Sách Samuen). Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua. Khi biết chuyện, vua Đa-vít tìm cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria. Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà. Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đa-vít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường. Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua.( II Sam 11 và 12) Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ. Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt”. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.” Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta”. Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết. Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải. Tội của mình, mình chứa đựng trong cái gùi sau lưng nên không thấy được. Vì thế, giúp người khác nhận ra lỗi của họ là điều rất cần thiết và là một nghĩa vụ thiêng liêng.
Được người khác sửa lỗi cho mình là một cơ may hạnh phúc. Sách châm ngôn dạy rằng: Coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải nghèo phải nhục, tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được hiển vinh (Cn. 13,18). “Vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (Cn. 6,23). Chúng ta thường chỉ nhận lỗi khi bị bắt quả tang hay có những vật chứng, nhân chứng sự thật. Một trong những lỗi mà con người hay phạm nhất đó là sự dối trá. Sự lừa dối được ẩn nấp sau nhiều chiêu bài. Dối trá gây ra biết bao bi kịch và thảm cảnh ở đời. Gây phá sản từ đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Có người hãnh diện vì mình đã gian dối vượt qua được nhiều nhân viên, cơ quan công quyền và chính phủ. Thiên hạ dối gian đủ điều để được lợi cho cuộc sống tạm này. Gian dối, lừa lọc đưa đến các thứ hàng giả. Giả dối quen rồi, chúng ta chẳng còn biết đâu là thật, là giả nữa. Lương tâm không còn bén nhậy với những phán đoán ở đời.
Lắng nghe theo lời sửa dạy của người khác là một mối lợi. Sự sửa dạy sẽ làm cho chúng ta trưởng thành trong nhân cách, xử thế và sống đạo làm người. Chấp nhận lời sửa dạy sẽ giúp chúng ta nên người hơn. Sự nhắc nhở, uốn nắn và hướng dẫn của người khác sẽ giúp chúng ta nên khôn ngoan: Kẻ ngu khinh lời cha nghiêm huấn, ai giữ lời sửa dạy sẽ nên khôn (Cn. 15,5). Kho tàng sự khôn ngoan nằm trong nền văn hóa, truyền thống và tục lệ của cha ông để lại. Hơn nữa chúng ta còn có nguồn mạc khải từ chính Thiên Chúa hướng dẫn con người qua các lời dạy dỗ trong Kinh Thánh: Người giữ lời nghiêm huấn thì đi trong sinh lộ, kẻ khinh lời sửa dạy ắt sẽ bị lạc đường (Cn. 10,17).
Biết rằng con người lỗi phạm là truyện thường tình. Ai nói mình không phạm lỗi là người nói dối: Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta (1Ga 1,10).
Không ai trong chúng ta là người chỉ đạo dẫn đường tuyệt hảo. Chúng ta cần học hỏi và chỉ bảo lẫn nhau. Khi chúng ta hồi tâm dựa vào các giới răn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra có những lỗi lầm đối với chính bản thân, đối với người khác và đối với Thượng Đế. Mọi sai trái lỗi lầm đều có nguyên nhân và hậu qủa. Hãy mang ơn những người dám nói sự thật và sửa dạy chúng ta. Sửa lại lỗi lầm là điều đáng khuyến khích.
Chúng ta không thể lên thiên đàng hưởng phúc một mình. Cần có tha nhân cùng tiến bước trong cuộc lữ hành trần thế. Giúp nhau nên công chính và hoàn thiện là trách nhiệm của mỗi người.Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Galata sống bác ái và nhiệt thành: Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ (Gl 6,1).
Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp: Trường hợp của đoạn Tin Mừng này liên quan đến lỗi có hại cho cộng đoàn, khi đó vì tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải đi sửa lỗi; còn trường hợp thứ hai được Thánh Matthêu ghi tiếp theo sau đoạn này (Mt 18,21-35) là lỗi giữa những cá nhân với nhau. Khi đó, giải pháp là tha thứ, tha “không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7”.
- VIỆC THI HÀNH QUYỀN BÍNH TRONG CỘNG ÐOÀN HỘI THÁNH:
Người đời thường mỉa mai thói quan liêu hống hách đối với những người dân thấp cổ bé miệng của những kẻ có chức có quyền, rằng họ có “quyền” chỉ để “hành” người khác.
Cộng đoàn Hội Thánh cũng đòi hỏi phải có một phẩm trật đi kèm với quyền bính, có trên có dưới, có người lãnh đạo, có người thừa hành. Thế nhưng mối tương quan giữa mọi người với nhau cộng đoàn lại phải được xây dựng trên nền tảng yêu thương, tôn trọng và phục vụ lẫn nhau.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su bảo: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy…”
Thứ quyền bính cầm buộc hoặc tháo cởi mà Chúa Giê-su trao cho các môn đệ ở đây phải được hiểu là để nhắm tới việc xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất trong yêu thương. Tháo cởi thì rõ ràng là vì yêu thương rồi, nhưng cầm buộc một điều gì đó, một ai đó, ví dụ: vạ tuyệt thông, hóa ra lại cũng chỉ vì yêu thương, không phải để trục xuất, để loại trừ vĩnh viễn người phạm lỗi khỏi cộng đoàn, nhưng cốt để làm gương, cho mọi người đừng liều lĩnh phạm vào một lỗi lầm tai hại nào đó, và mặt khác cũng là để cho ai đã trót phạm tội thì biết mau mau sám hối để được quay trở về hiệp thông với cộng đoàn.
Vậy, việc thi hành quyền bính trong Hội Thánh nhất thiết phải đặt trên cái nền là lòng yêu thương nhau trong cộng đoàn.
- VIỆC HIỆP Ý CẦU NGUYỆN CHUNG VỚI NHAU:
Tiếp theo, Chúa Giê-su quả quyết: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Ngoài việc Chúa Giê-su mời gọi mọi người trong cộng đoàn luôn biết quy tụ bên nhau để cầu nguyện chung với nhau, khi đặt trong mạch văn Tin Mừng hôm nay, nối kết với 2 lời dạy dỗ về việc góp ý sửa lỗi cho nhau, về việc thi hành quyền bính trong Hội Thánh, chúng ta có thể nhận ra điều này: Cầu nguyện chung với nhau chính là phương thức hiệu quả nhất để duy trì mối tương quan yêu thương và sự hiệp nhất trong cộng đoàn Hội Thánh, và trong cả cộng đoàn bé nhỏ là gia đình của chúng ta.
Chúa Giê-su nhấn mạnh như một lời cam kết, rằng: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” Có yêu thương gắn bó thì mới tìm đến với nhau để cầu nguyện chung. Cầu nguyện chung với nhau cũng là để khẩn nài xin cho cộng đoàn được ngày một thêm gắn bó yêu thương nhau hơn. Làm được điều đó, không lẽ gì Chúa Giê-su lại không đến và hiện diện ở giữa cộng đoàn, không lẽ gì Thiên Chúa Cha lại không nhận lời cầu nguyện của cả cộng đoàn có sự hiện diện của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Người?
Vậy, việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn chính là dấu chỉ của lòng yêu thương.
Những ai nhận ra mình còn có những lỗi lầm khuyết điểm, hãy chân thành nhận lấy những lời góp ý sửa lỗi của người khác. Bởi vì lời góp ý sửa lỗi ấy phát xuất từ tấm lòng chan chứa yêu thương.
Những ai do phẩm trật của mình trong Hội Thánh mà phải thi hành quyền bính, cầm buộc hoặc tháo cởi, hãy luôn nhớ thi hành quyền bính trong yêu thương.
Và sau hết, chúng ta vẫn thường có cơ hội quây quần bên nhau, không chỉ là 2, 3 người trong gia đình, nhưng là 2, 3 chục người trong các buổi chia sẻ Lời Chúa, 2, 3 trăm người trong các Thánh Lễ, hoặc như ở Linh Ðịa La Vang với 2, 3 trăm ngàn người hành hương… Hãy nhân danh Chúa Giê-su để cầu nguyện, để xin Người ban những ơn cần thiết cho Hội Thánh, cho gia đình, cho bản thân, nhất là chúng ta hãy nhớ xin cho chính cộng đoàn và gia đình chúng ta thêm sự hiệp nhất, thêm lòng gắn bó yêu thương nhau.
Chúa Giê-su làm nổi bật gương và mẫu của một cộng đoàn tình thương. Cộng đoàn này dựa trên căn bản của cộng đoàn tiên khởi mà Sách Tông Ðồ Công Vụ đã đề cập tới trong đoạn 2, 42 – 47. Cộng đoànn yêu thương, hiệp nhất, coi mọi sự là của chung, một cộng đoàn chia sẻ và cầu nguyện. Chúa có mặt, Chúa hiện diện nơi cộng đoàn, mọi sự sẽ được giải quyết êm đẹp và tươi thắm. Cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương là cộng đoàn làm theo lối Chúa chỉ dạy.
Lời cầu nguyện của mỗi người ở trong phòng kín là cách cầu nguyện khiêm tốn làm đẹp lòng Chúa (x. Mt 6,6). Nhưng lời cầu nguyện chung của hai ba người họp lại với nhau lại càng đẹp lòng Chúa hơn và dễ được Chúa Cha chấp nhận hơn. Cầu nguyện chung là một phương thức cổ võ và duy trì đức ái và sự hiệp nhất cộng đoàn. Tóm lại, khi hội họp với nhau, các tín hữu cần lưu ý hai điều quan trọng: Một là phải họp nhau trong sự bác ái và hiệp nhất cầu nguyện chung. Hai là phải nhân danh Đức Giê-su, nghĩa là họp nhau để duy trì sự đồng tâm nhất trí xây dựng Hội Thánh và phục vụ cho Tin Mừng ngày một lan rộng.
Tóm lại, cầu nguyện cho nhau, cầu nguyện với nhau và sửa chữa lẫn nhau, đó là ba đặc tính của các cộng đoàn Ki-tô hữu hoặc trong các đoàn thể, các gia đình, các giáo xứ. Cầu nguyện cho nhau thì dễ, cầu nguyện với nhau khó hơn một chút, vì phải đồng tâm nhất trí, nhưng sửa chữa nhau là điều khó hơn cả. Việc sửa chữa nhau đòi hỏi một tình yêu thương cao độ. Tình yêu nơi người sửa lỗi nhiệt thành, muốn cho anh em nên tốt thật, và sẵn sàng hy sinh thời giờ, sức khỏe, nhẫn nại, chịu đựng, cũng như đem tất cả tài năng để tìm ra những biện pháp cần thiết, không kém tế nhị, để đưa người anh em tới chỗ tốt lành thánh thiện. Tình yêu nơi người được sửa lỗi phải thiết tha với sự trọn lành, tỏ ra biết ơn người sửa chữa mình, khiêm tốn và vui vẻ đón nhận, cũng như cương quyết thi hành những điều sửa bảo để nên tốt.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN A
Tha thứ đến “bảy mươi lần bảy”
Hc 27, 33–28, 9: Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa; tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
Rm 14, 7-9: Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa.
TIN MỪNG: Mt 18, 21-35
- Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn.
Tha thứ như Ðức Giê-su đòi hỏi không phải là chuyện dễ, trái lại là chuyện vô cùng khó và vượt xa khả năng tự nhiên của con người. Nhất là đối với người Việt Nam chúng ta, thì việc tha thứ dường như còn khó khăn hơn so với người Tây Phương. “Sống để bụng, chết đem theo”: câu nói ấy cho thấy người Việt chúng ta giận dai, thù dai và nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Người ta thường thấy hai người Tây phương tranh cãi quyết liệt, phê bình nhau gay gắt trong phòng họp. Nhưng khi ra khỏi phòng thì họ vẫn thân thiện, đoàn kết, quí trọng nhau như bình thường. Còn người Việt Nam mình hễ bị đồng nghiệp – dù là giám mục hay linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân – phê bình trong buổi họp hay trong khi làm việc chung, thì từ sau buổi họp ấy trở đi, giữa hai người khó mà có một tương quan tự nhiên, tốt đẹp như lúc trước. Người bị góp ý, phê bình sẽ khó mà “tiêu hóa” nổi sự kiện bị ( đáng lẽ phải coi là được ) góp ý hoặc phê bình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo. Có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
- Sỡ dĩ tha thứ là việc khó khăn như thế, vì chúng ta sống nặng về cảm tính và chưa trưởng thành về mặt nhân bản, nên không phân biệt nổi hai lãnh vực khác nhau là lãnh vực con người và lãnh vực công việc. Khi người khác góp ý hay phê bình chúng ta là người ta góp ý về cung cách ứng xử hay phương pháp làm việc chứ không hề hạ phẩm gía chúng ta. Nhưng thường chúng ta cho rằng gía trị, uy tín của mình bị hạ thấp bởi những góp ý hay phê bình thẳng thắn, chân tình và chính xác của đồng sự. Thật ra giá trị của một người tùy thuộc rất nhiều vào khả năng phục thiện, đón nhận góp ý và hoàn thiện bản thân của người ấy, nhờ vào những góp ý, sửa lỗi của người khác.
Có một nguyên nhân khác, quan trọng hơn, là chúng ta chưa thấm nhuần Tin Mừng, chưa được Phúc-âm-hóa ở tận tầng đáy tâm hồn của chúng ta. Nói cách khác, cách sống và giáo huấn của Ðức Giê-su chưa thâm nhập cảm quan và trái tim chúng ta. Trên thập giá, vào lúc đau đớn khủng khiếp nhất của một Thiên-Chúa-làm-người, Ðức Giê-su đã tha thứ cho những kẻ bắt bớ, đánh đập, kết án, sỉ nhục và giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Trước đó, Ðức Giê-su đã tha thứ cho Phê-rô, tông đồ trưởng, người đã thề sống thề chết với Thày nhưng đã chối Thày 3 lần trước lời hạch sách của một người tớ gái của thượng tế (Mc 14, 66 – 72).
- Trong bài Tin Mừng hôm nay, ông Phêrô đã đến với Ðức Giêsu để hỏi về số lần mình phải tha thứ cho người anh em lỗi phạm đến mình. Phêrô thử đề nghị 7 lần. Con số 7 thường tượng trưng cho sự trọn vẹn, hoàn hảo. Nếu ta tha thứ cho ai 7 lần một ngày (x. Lc 17,4), chắc đã là một hành vi đáng phục rồi. Nhưng ở đây Ðức Giêsu không dừng lại ở số 7, mà là những bội số của 7. Các bản dịch có sự khác nhau: bảy mươi bảy lần hay bảy mươi lần bảy. Dù sao thì qua những con số trên, Ðức Giêsu mời gọi Phêrô tha thứ một cách vô giới hạn. Khác với Lc 17,4, ở đây không thấy nói đến việc người được tôi tha thứ phải có lòng hối hận ăn năn. Có thể nói là tôi được yêu cầu tha thứ cho người anh em tôi một cách vô điều kiện.
Luật Cựu ước chủ trương «mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm» (Xh 21,24-25; x. Lv 24,20; Đnl 19,21). Các rabbi Do Thái dạy rằng phải tha thứ cho những người xúc phạm mình, nhưng chỉ ba lần thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của người Do thái. Người Việtnam chúng ta cũng thường nói “qúa tam ba bận”… Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta tha thứ không giới hạn: Cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: ‘Tôi hối hận’, thì con hãy tha thứ cho nó”. (Lc 17,4) Chỗ khác Chúa nói: «Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy» (Mt 18,22).
Tha thứ là hành động của nhân đức, là tuyệt đỉnh của đức bác ái. Tha thứ không chỉ những người xúc phạm tới mình, mà ngay cả kẻ thù. Là nhân đức, bởi tha thứ đòi hỏi phải vượt khỏi chính mình, khỏi sự thù hằn. Là tuyệt đỉnh của đức ái, vì “không chỉ tha bảy lần mà tới bảy mươi lần bảy”. Điều đó có nghĩa là tha thứ tất cả, không oán giận hay để bụng.
Người ta chỉ có thể tha thứ cho nhau khi chính chúng ta biết nhìn ra mình cũng cần được người khác tha thứ. Người ta chỉ có thể tha thứ đến “bảy mươi lần bảy” khi chính chúng ta nhìn ra anh em mang hình ảnh của Chúa. Người ta chỉ có thể bắt tay làm hòa với nhau bởi đó cũng là điều kiện để chính chúng ta muốn được Chúa tha thứ. Thật không dễ để tha thứ nếu chúng ta không có trái tim của Chúa.
- Tại sao chúng ta phải tha thứ?
-Vì chính Chúa Giêsu đã sống và dạy chúng ta. Lời dậy và việc làm của Chúa ăn khớp với nhau. Thật vậy trên thập giá Chúa Giê-su đã xin với Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Tha thứ không vì tha nhân biết hối hận, cũng không vì mình mà vì tình yêu của Chúa, nhận biết Chúa yêu thương mình nên cần tha thứ cho người khác để đáp trả tình yêu thương của Chúa. Yêu thương người như Chúa yêu thương.
– Sự tha thứ sẽ đem lại lợi ích trước tiên cho chính người biết tha thứ. Luật mắt đền mắt là luật công bằng, nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù. Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tan. Người Trung Hoa thời xưa có câu ngạn ngữ nhằm cảnh cáo tai hại này: “Khi nào bạn cứ đeo đuổi việc báo thù thì bạn hãy đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù bạn và một cái cho chính bạn”. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn. Xét về khía cạnh tâm lý tự nhiên thì việc thứ tha là một cách giải thoát đi nỗi đau đớn, lòng hận thù trong chính con người mình khi người khác xúc phạm đến ta. Việc chúng ta giận ghét người khác không làm cho người khác đau khổ nhưng ngược lại chính chúng ta là người phải chịu sự dằn vặt tâm hồn, mất bình an, ngủ không yên và nhiều xáo trộn khác. Chính chúng ta hại bản thân. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Cảm xúc tiêu cực này khiến ta không thoải mái, máu ta sinh ra nhiều chất độc, lục phủ ngũ tạng của ta cũng bị thương tổn. Nếu ta thường xuyên ở trong tình trạng u uất này, ta dễ sinh ra những bệnh nan y, khó chữa, như cao huyết áp, tiểu đường, ung thư… Khi tha nhân xúc phạm hay làm hại ta, nếu ta buồn giận họ và không tha thứ cho họ, thì chẳng những ta bị thiệt hại hay mất mát vì những gì họ trực tiếp gây ra, mà ta còn tự làm cho chính ta bị thiệt và mất mát nhiều hơn thế bội phần. Do đó cứ nuôi giận hờn mà không chịu tha thứ quả là thiếu khôn ngoan. Nếu ta không tiêu diệt giận hờn thù oán, thì hờn oán sẽ tiêu diệt ta. Như vậy việc chúng ta tha thứ làm ích không cho người nào khác hơn là cho chính chúng ta trước nhất. Nó mang lại sự bình an tâm hồn, cuộc sống tươi vui. Ơn tha thứ sẽ đem lại hạnh phúc và bình an cho tâm hồn của ta.
Biến kẻ thù thành bạn mình chính là một cách diệt được kẻ thù cách khôn ngoan nhất, trong đó không có ai bị hại, mà ta lại còn có thêm bạn. Đó là cách mà thánh Phaolô đề nghị: «Kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác» (Rm 12,20-21). Đó cũng là thực hành điều Đức Giêsu dạy: «Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em» (Lc 6,27).
– Phải tha thứ vì chính ta cần được mọi người thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
– Tha thứ để được Chúa thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” mà Ðức Giê-su giải thích lý do thâm sâu tại sao chúng ta phải tha thứ lỗi phạm của anh em một cách không giới hạn: Tha thứ các lỗi phạm của anh em là điều kiện để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi cho chúng ta. Nếu so sánh khoản tiền mà tên đầy tớ không biết xót thương nợ ông vua với khoản tiền mà người bạn của hắn nợ hắn thì chúng ta thấy sự chênh lệch hết sức lớn lao giữa hai món nợ ấy: một đàng là “mười ngàn yến vàng”, còn một đàng chỉ là “một trăm quan tiền”. Tên đầy tớ không biết xót thương không tha cho bạn mình món nợ nhỏ, thì cũng chẳng xứng đáng được vua tha món nợ lớn. Nếu con người sống trong hận thù, sống trong hờn căm, con người sẽ chuốc lấy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa:” Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao ?”(Mt 18, 32-33) Và Chúa ôn tồn nói như một lời phán xét: ”Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 36). Nếu ta không tha thứ lỗi lầm cho những người sống chung quanh ta, là những người mà Đức Giêsu đã tự đồng hóa với chính Ngài (x. Mt 25,40.45;10,40;18,5; Lc 10,16), thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha tội cho chúng ta.
Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta ai cũng tức giận trước thái độ tàn nhẫn của người đầy tớ đã được chủ tha. Chúng ta nghĩ rằng nếu mình ở vào địa vị người đầy tớ này, chắc chúng ta sẽ quảng đại và bao dung hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, lắm khi chúng ta vẫn là một người đầy tớ tàn nhẫn đối với đồng bạn. Chẳng ai có thể lường được mình đã nợ Cha trên trời một món nợ lớn ngần nào. Mười ngàn nén vàng chỉ là một con số tượng trưng cho món nợ khổng lồ, không thể trả nổi. Không cần phải là một tội nhân phạm những tội ác ghê tởm, chúng ta mới mắc nợ Thiên Chúa. Chính các thánh là người cảm nhận một cách sâu xa món nợ tình yêu đối với Cha trên trời. Họ thấy rõ mình đã nhận được quá nhiều ơn, và cả đời sống thánh thiện của họ cũng là một ơn nhưng không. Chỉ khi ý thức rằng mình đã được tha quá nhiều và đã được hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy việc tha thứ cho người khác là chuyện tự nhiên, chuyện phải làm.
Tha thứ cho người xúc phạm đến mình là một điều rất quan trọng trong đời sống tâm linh cá nhân và cộng đoàn Ki-tô hữu. Tha thứ là điều kiện để được thứ tha: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37). Ðó cũng chính là điều Ðức Giê-su đã dạy trong Kinh Lạy Cha:”Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6, 12; Lc 11, 4). Ở cuối Kinh Lạy Cha, thánh Mát-thêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6, 14 – 15). Lời kinh này không khéo sẽ trở thành rất bất lợi cho ta, vì nếu ta không quảng đại tha thứ cho tha nhân thì Ngài cũng căn cứ theo cách ấy mà đối xử với ta, vì ta đã cầu xin Ngài như vậy. Ngược lại, nếu lúc nào ta cũng tha thứ cho anh em mình vô điều kiện, không đòi họ phải xin lỗi mới tha, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta cách vô điều kiện như vậy, vì Ngài không thể kém quảng đại hơn ta. Vì thế, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân vô điều kiện là một thái độ hết sức khôn ngoan.
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Hơn nữa ở một nơi khác trong Phúc âm, Chúa Giê-su còn cho chúng ta thấy, đối với Thiên Chúa thì tha thứ và làm hòa với anh em còn quan trọng hơn việc dâng tiến lễ vật: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình“ (Mt 5,23). Nói thế có nghĩa là việc làm hòa với người có chuyện bất bình với mình là công việc ưu tiên của người tín hữu. Làm hòa và tha thứ cho anh em là điều kiện để của lễ của chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận. Một chi tiết đáng lưu ý là Ðức Giê-su dạy chúng ta phải chủ động tìm đến người anh em có bất hòa với chúng ta, chứ chúng ta không chỉ chờ người kia đến xin lỗi chúng ta thì chúng ta sẽ tha thứ.
– Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên chúa. Thiên chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Ðức Giê-su đã khắc hoạ rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha. Sống yêu thương tha thứ là sống cốt lõi của đạo chúng ta … Ðức Giê-su xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phê-rô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Tha thứ đòi hỏi có ơn Chúa. Không có ơn Chúa giúp, chúng ta không thể tha thứ cho kẻ thù. Vậy thì cách thức hay nhất để tha thứ là hãy cầu xin – Chúng ta xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Muốn cho tâm hồn chúng ta dịu lại và thứ tha thì đầu gối chúng ta phải quỳ xuống mà van xin – Hãy đọc nhiều lần kinh Lạy Cha, trong đó có câu “Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ với chúng con”. Hãy thành tâm cầu xin, Thiên Chúa sẽ làm. Lạy Chúa! xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an; tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người hơn được người mến yêu; vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ƠN AN BÌNH.
- Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ. Những tình yêu, những mối giây liên hệ tái sinh sau khi được tha thứ thì thường bao giờ cũng rất khác biệt, cũng rực rỡ vô cùng. Nếu Chúa Yêsu không tha thứ cho Phêrô thì Phêrô chắc cũng chẳng sống chết với sứ mạng của Chúa. Sau khi lỗi phạm và được tha thứ, tình yêu của Phêrô đã bừng cháy. Phaolô cũng thế, bởi vì hận thù tôn giáo của Ðức Kitô quá nhiều nên khi được ơn gọi, được tha thứ, Phaolô đã trở nên điên dại trong sứ vụ rao truyền danh Ðức Kitô cho thế giới.
Muốn sống tinh thần tha thứ chúng ta phải khiêm tốn, đừng ngại xin lỗi những người nhỏ hơn mình, đừng tự ái. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta tha thứ, đồng thời cũng khuyên chúng ta hãy biết xin lỗi. Viêc xin lỗi không phải là nhục nhã mà trái lại tăng uy tín, hàn gắn được những vết thương do những va chạm và giúp cho cuộc sống chung được hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình trong hôn nhân công giáo cũng đòi hỏi ta biết tha thứ giữa vợ và chồng và ngược lại, giữa cha mẹ với con cái và ngược lại. Đây mới chính là yếu tố thành công nhất để giúp thăng tiến tình yêu của nhau lên chỗ cao vợi. Và tình yêu thương của nhau sẽ càng thắm đậm hơn. Khi ta tha thứ cho anh em thật nhiều lần, ta sẽ có thói quen tha thứ, nhân đức tha thứ, nhất là bản tính hay tha thứ, rất ích lợi cho sự phát triển tâm linh, sự bình an và hạnh phúc của ta trong cuộc đời.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A
Người thợ giờ thứ mười một
Is 55, 6-9: Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội. Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi. Trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”: Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
Pl 1, 20c-24. 27a: Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.
TIN MỪNG: Mt 20, 1-16a
- Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Ông chủ trao cho năm nhóm thợ tiền lương đồng đều mỗi người một đồng, chính là Đức Giê-su ban ơn cứu độ đồng đều cho tất cả mọi người Công Giáo, tân tòng cũng như đạo gốc, không ai cảm thấy mình bị thiệt thòi, không ai được kể công với Chúa, vì ơn cứu độ là ơn nhưng không. Bởi đó họ phải luôn biết tạ ơn Chúa, vì được làm con Chúa và hằng ngày còn được nuôi dưỡng bằng ơn thánh (một đồng), mà ta được đón nhận hằng ngày trong Thánh Lễ.
Dụ ngôn thợ làm vườn nho nếu xét về mặt xã hội, không ông chủ nào đối xử với các thợ như thế. Đành rằng ông chủ trả lương cho thợ không sai hợp đồng, không bất công. Nhưng làm như vậy là chủ tỏ ra thiếu khôn ngoan, gây cớ cho người ta ghen tỵ nhau, hoặc làm cho thợ hiểu lầm chủ thương người này mà ghét người kia. Thợ mà biết tâm tình chủ như thế, chắc gì lần sau chủ có thể mượn được thợ vừa ý! Nhưng Đức Giê-su kể dụ ngôn này nhằm diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, vì “đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của loài người, vì ý nghĩ của Thiên Chúa khác với suy nghĩ của loài người” (Bài đọc I). Qua dụ ngôn này Chúa muốn ta phải ý thức mình vừa là thợ, vừa là chủ trong đời sống Hội Thánh.
- Dụ ngôn hôm nay có hai hàm ý quan trọng:
– Nước Trời là công trình của Thiên Chúa nhưng do công sức của rất nhiều người đóng góp xây dựng nên. Vì thế mà gia chủ ra chợ đến những 5 lần trong ngày để mướn thợ làm vườn nho.
– Những thợ được chủ mướn ngay từ sáng sớm ám chỉ những người Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa. Còn những thợ được mướn vào giờ thứ mười một tức vào lúc năm giờ chiều là những người ngoại và những người bị khinh miệt trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm, thế mà Thiên Chúa cũng kêu mời họ vào làm cho vườn nho của Người.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pha-ri-sêu, Luật Sĩ, họ ghen tương vì Chúa Giê-su đối xử khoan dung với người tội lỗi, với dân ngoại. Dụ ngôn này không có ý dạy chúng ta một cung cách hành xử trong đời thường. Ðức Giê-su chỉ muốn nhắc khéo các ông Pha-ri-sêu và Luật Sĩ đang phẫn nộ trước thái độ quan tâm ưu ái của Ðức Giê-su đối với giới thu thuế và hạng đĩ điếm, vốn bị dán nhãn chung là phường tội lỗi đáng khinh! Dụ ngôn Thợ Làm Vườn Nho đã mặc khải rất sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, một lòng yêu thương cao cả, không tính toán sòng phẳng theo kiểu người đời. Thiên Chúa muốn ban tặng Tin Mừng cho tất cả, muốn mở cho tất cả, chẳng trừ ai, được bước vào Sự Sống Ðời Ðời. Cái ngược đời của Tin Mừng, của chính Ðức Giê-su, tắt một lời, chỉ muốn khẳng định: Tình yêu vượt xa cả lẽ công bình !
Bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay còn cho chúng ta thấy Đức Giê-su muốn trình bày cho người Do Thái biết Chúa Cha là Đấng quảng đại chứ không tính toán chi li như họ. Chúa Cha có cách cư xử riêng của mình mà con người không ai có quyền ép buộc Người phải làm theo ý của họ.
Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, từ người đạo đức đến người tội lỗi, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
- Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
“Một đồng” ở đây chính là chiếc vé vào Nước Trời, kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Ðức Giê-su nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng, Ðấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người, đặc biệt đối với dân ngoại, những người được gọi vào Giáo Hội qua những giờ sau hết. Ðối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do-thái là những kẻ được gọi từ đầu.
- Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị. Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, tài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
- Ghen tị: Ghen tỵ là căn bệnh nguyên thuở của mọi thời đại. Ngay cả Tổng lãnh thiên thần Luxiphe khi xưa, cũng chỉ vì ghen tức, kiêu ngạo muốn bằng Thiên Chúa nên đã phản bội, chống đối, quay lưng lại với Ngài. Nguyên nhân dẫn đến ghen tỵ thật ra là vì quá ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân, không muốn ai hơn mình, mình phải hơn mọi người cho nên không biết có bao nhiêu câu chuyện bi thương xảy ra nhan nhản hằng ngày trên thế giới.
Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Đồng bạc vẫn còn đó chứ không mất đi, nhưng anh đã nhìn nó như một “đồng bạc thiệt thòi” thay vì là “đồng bạc may mắn”! Chỉ vì lòng ganh tị mà hạnh phúc trong anh đã biến thành bất hạnh, đau khổ! Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn, nên sự thành công của ai đó đã trở thành nổi đe dọa, ghen tức.Chính vì ganh tị mà Cain đã giết chính em trai mình là Abel, cũng chính vì ganh tị mà Saolê tìm giết Đavít… Và Thầy Chí Thánh của chúng ta đã bị các Thượng tế, ký lục và biệt phái hãm hại cũng chính vì lòng ganh tị. Lòng ganh tị phát sinh từ sự kiêu ngạo: Tự cho rằng mình đáng được hưởng đặc quyền đặc lợi hơn người khác, có tài năng kiến thức hơn người khác, xứng đáng được vị nể tôn vinh hơn người khác. Và khi có ai đó bản thân có phần thua sút tôi lại đạt được nhiều thứ hơn tôi, tôi không chịu nổi
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Vì hậu quả của tội, con người dễ sinh ra đố kỵ hơn là lòng thương xót, hay tranh đua nên thường xét nét hơn là cảm thông cho đồng loại. Vì thế, con người khó có thể vào sống trong Nước Trời cũng là vì nơi đây thật lạ lẫm so với cách nghĩ thông thường của họ.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển. Những thói hư tật xấu cũng len lỏi vào đời sống cộng đồng của các môn đệ Chúa Giêsu. Khi bà mẹ của Gioan và Giacôbê xin Chúa cho hai đứa con được ngồi bên tả hữu của Chúa thì các môn đệ khác đã cảm thấy khó chịu và ghen tức: Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan (Mc 10.41).Mọi người mong chờ ơn cứu độ và cố gắng tu thân tích đức, nhưng rồi cũng cứ nhìn qua nhìn lại và so sánh hơn thua. Cũng như những người Do-thái, họ nghĩ họ là con trưởng, chỉ dân tộc Do-thái mới được thừa hưởng ơn cứu độ. Họ khinh thường kẻ khác và phản đối tẩy chay cả những vị tông đồ được sai đến: Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông (CV 13,45). Với lời lẽ chân thành, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu ở Corintô: Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? (1Cor 3,3).
Ghen tương cãi cọ là thói xấu ở đời. Đứng núi này trông núi nọ rồi ngỏ lòng ham muốn của cải hay chức vị của người khác. Không biết hài lòng về chính mình là một nỗi khổ. Cuộc sống cứ thế phải chạy đua và tranh dành để gây ảnh hưởng, tìm uy tín. Càng tìm thì càng mất vì nó ngoài khả năng và tầm tay của mình. Có nhiều người không chiếm đoạt được theo ý mình thì đạp đổ và phá hoãng.
Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn…Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia…Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa vì Ngài ban những hồng ân quí giá cho người này người kia. Đừng ghen tỵ với họ bởi vì làm như thế là chúng ta muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúa hành động theo ý của Người, bởi vì lòng của Chúa thì bao la và lòng của con người có giới hạn.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN A
Hai người con
Ed 18,25-28: Trước công chính, sau lại bỏ thì người đó sẽ chết, còn người gian ác bỏ đường tội lỗi mà sống công chính thì thì họ sẽ được sống.
Pl 2,1-11: Thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng vâng phục Thiên Chúa Cha nên Người được tôn vinh.
TIN MỪNG: Mt 21,28-32
- Người con thứ nhất (c 28-29): Lúc đầu đã từ chối không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại nên đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Đức Giê-su mà quay về với Thiên Chúa. Vì những người này tuy mang danh là tội lỗi, nhưng khi Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su đến, thì họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Nhiều vị thánh trong Giáo Hội đã từng sống cuộc đời tội lỗi nhưng được ơn trở lại để sống thánh thiện. Thánh Augustinô là một gương trở lại hay được nói đến. Thánh nhân đã từng sống trong tội lỗi: ăn ở với phụ nữ ngoài hôn nhân; đi theo lạc thuyết… Lối sống đó đã trở nên sự ray rứt làm cho cuộc đời của ngài trở nên bất hạnh. Được lời Chúa hướng dẫn, Augustinô đã trở lại, từ bỏ tội lỗi, lạc thuyết, trở nên linh muc, giám mục, tiến sĩ bênh vực Giáo Hội.
Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. và đó cũng là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
- Người con thứ hai (c 30-32): Các thượng tế, kỳ hào, luật sĩ và biệt phái Do thái thường tự hào mình là con cái Abraham, đã từng giữ luật Mô-sê một cách cặn kẽ, thế nào cũng được phần thưởng là Nước Trời. Theo họ nghĩ, Nước Trời được dành riêng cho người Do thái, còn các dân tộc khác, những người ngoại giáo sẽ bị loại ra ngoài, nhất là những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm.
Người con thứ hai lúc đầu đã ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục. Tuy giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối không tin Gio-an Tẩy giả, là người đã đến chỉ đường công chính cho họ, tức là dạy những điều Thiên Chúa muốn (c 32). Họ kiêu căng, tự cao tự đại… nên không thể sám hối ăn năn. Bởi đó, Chúa đã nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Ðức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa. Trái lại họ còn mưu hại và giết cả hai Ngài nữa. Đức Giêsu còn dùng dụ ngôn các tá điền sát nhân (Mt 21,33-44) để ám chỉ họ.
Những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Họ vâng vâng dạ dạ với Thiên Chúa nhưng kỳ thực là để cố thủ, gắn bó với lề luật một cách giả tạo. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm. Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm”. (Mt 23, 1-3).
Người con thứ hai này có thể cũng là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Cờ bạc, rượu chè bê tha. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo.. . Biết bao lần chúng ta đã hứa mến Chúa, yêu người, nhưng vẫn cứ oán ghét, thù hận anh em; biết bao lần chúng ta đã quyết từ bỏ tính hư tật xấu của con người xác thịt tội lỗi, nhưng vẫn cứ kiêu ngạo, ích kỷ. Quyết từ bỏ, nhưng lại tái phạm.
Ý thức thân phận yếu hèn, tội lỗi và không ngừng thống hối ăn năn được xem là điều kiện tiên quyết, là chìa khoá để được vào nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không ưa thích những câu chúc tụng trống rỗng chỉ nhằm loè thiên hạ. Ơn cứu độ chỉ thực sự ban cho những ai biết mở lòng mình ra đón nhận Lời Chúa Kytô, biết phản tỉnh và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Những người thu thuế và những cô gái điếm vui vẻ hân hoan đến rơi lệ bước vào nước Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?…
- Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
- Vâng theo thánh ý Thiên Chúa
Các thượng tế và kỳ mục là những bậc thầy chỉ dẫn người ta vào Nước Trời, thế mà chính họ lại thua cả bọn đĩ điếm. Lý do: họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), «là những người mù dắt người mù» (Mt 15,14).
Tại sao? Vì họ chuyên quan trọng hóa những điều phụ thuộc, còn những điều chính yếu và quan trọng nhất thì họ không thèm để ý tới. Đức Giê-su nói về họ: «Các người bảo: Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?» (Mt 23,16-22); «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật» (Mt 23,23).
Việc làm quan trọng hơn lời nói. Chúa phán xét căn cứ vào việc làm chứ không dựa vào lời nói suông. Đức Giê-su chỉ dẫn cho những điều cốt yếu: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đa» (Mt 7,21-27).
Tóm lại, điều chính yếu nhất để nên thánh và để vào nước Thiên Chúa chính là vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức thực hành những điều Đức Giê-su dạy. Vậy, chúng ta cần phải nắm thật vững thánh ý Thiên Chúa là gì, hay Đức Giê-su dạy ta điều gì? Hãy nghiêm túc đặt lại vấn đề này một lần cho cả cuộc đời để đi cho đúng đường, và đạt được mục đích của mình là nên thánh. Nếu không, coi chừng kẻo chúng ta giữ đạo cả cuộc đời mà vẫn «sôi hỏng bỏng không», hay như «dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì», chỉ vì điều quan trọng nhất thì ta coi thường, còn điều phụ thuộc thì chúng ta lại coi là tối quan trọng. Đọc toàn bộ Tin Mừng, ta thấy điều quan trọng nhất mà Đức Giê-su muốn nhấn mạnh là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Ngay câu kế tiếp, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của nó: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13.35). Chính vì thế, vào ngày phán xét, Đức Giê-su sẽ phán xét mọi người về cách họ đối xử với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Chúng ta cần chú ý tới điều mà Đức Giê-su muốn nhấn mạnh, và những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng cũng phải nhấn mạnh giống như Đức Giê-su. Nếu điều quan trọng nhất lại không nhấn mạnh, mà lại nhấn mạnh những điều phụ thuộc, thì họ cũng chỉ giống như những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng trong đạo Do Thái mà thôi.
Qua câu «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23-24), ta thấy rõ rằng Ngài coi trọng việc thể hiện tình thương đối với đồng loại hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa nữa. Ngôn sứ I-sa-i-a còn cho thấy Thiên Chúa ghê tởm việc thờ phượng và cầu nguyện của những con người đối xử với đồng loại không ra gì: «Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu» (Is 1,14-15; nên xem hết cả đoạn Is 1,11-19). Hãy nghe Ngài kết án hết sức nặng nề những việc làm thiếu bác ái: «Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt» (Mt 5,21-22). Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài có vẻ như cay cú với thầy tư tế và lê-vi đã bỏ mặc nạn nhân bị cướp trên đường vì đã coi trọng việc thờ phượng và giữ những chi tiết trong luật Mô-sê hơn bổn phận bác ái là giới răn quan trọng nhất. Cầu nguyện là để tiếp xúc với Thiên Chúa hầu nhận được sức mạnh của Ngài mà sống yêu thương anh chị em mình.
Chúng ta thường nghe Lời Chúa, học hỏi về Lời Chúa, nhưng điều quan trọng là chúng ta có thực thi lời Chúa hay không? Dụ ngôn người gieo giống cho chúng ta thấy có 4 loại người nghe Lời Chúa, nhưng chỉ có 1 người thực thi Lời Chúa. Còn 3 loại người kia nghe rồi để đó, hoặc có thực hành nhưng vì những quyến rũ, cám dỗ của trần gian, họ đã không đủ can đảm và hy sinh để thực thi Lời Chúa, vì Lời Chúa luôn đi ngược lại với những dục vọng xấu xa của con người.
Thiên Chúa luôn yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai dù họ là người Do Thái hay người ngoại. Ngài muốn cứu độ mọi người, nhưng con người có được cứu hay không là do mỗi người có làm theo ý của Thiên Chúa hay không. Chúng ta đều là những con người tội lỗi và Chúa đang mời gọi chúng ta hoán cải, mời gọi chúng ta ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về với Chúa. Sống theo luật Chúa dạy: yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu là thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
- Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là “trước” so với “sau”, nhưng là “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin” (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: “Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông”. Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.
TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết ” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: “thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường “thưa vâng” như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời “thưa vâng” như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này. Thật là thê thảm cho những ai chỉ biết đọc kinh ngoài miệng mà không thực thi Thánh Ý Chúa.
Họ là những người đáng kính vì đạo đức và học thức. Họ là những người đáng trọng vì chức vụ và uy quyền. Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi như gái điếm và người thu thuế lại có thể qua mặt các đấng, các bậc đáng kính như vậy?
Tích cực đọc kinh, xem lễ, lãnh các bí tích thật là tốt, nhưng chưa đủ, vì đạo không chỉ đóng khung trong nhà thờ mà phải đi ra ngoài xã hội, phải thể hiện niềm tin trong cuộc sống, giữa cuộc đời, sống đạo giữa đời. Đạo không đi vào đời, đạo không có chỗ đứng, hay chỉ đứng bên lề xã hội, trở thành một kỷ niệm đẹp để chiêm ngắm, không mang tính thuyết phục, không có sức mạnh chuyển đổi, cải thiện. Như vậy đạo không còn là men, không còn là ánh sáng…
Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là “những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người” (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: “Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha” (Mt 7,21)
TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức.
“…ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” (Mt 21, 32).
- Qua bài dụ ngôn hai người con của Đức Giêsu, ta thấy vấn đề quan trọng không phải là nói cho hợp, cho đúng ý Thiên Chúa (như người con thứ hai nói mà không làm), mà là thực hành ý của Ngài (như người con thứ nhất không nói mà làm). Thế có nghĩa đối với Thiên Chúa việc làm mới là điều quan trọng chứ không phải lời nói. Thật vậy, nếu chỉ nói xuông thôi, thì điều gì chúng ta cũng có thể nói được. Còn việc làm thì không dễ gì mà thực hiện vì nó khó hơn nhiều. Chúng ta nói yêu Chúa, yêu người thì quả là quá dễ. Nhưng để chứng tỏ chúng ta mến Chúa yêu người, thì không dễ chút nào. Trái lại nhiều khi chúng ta phải “trầy da tróc vẩy” mới thực hiện được một việc bác ái, một hành động hy sinh, từ bỏ.
Ðức Giê-su là người con mẫu mực và tuyệt hảo của Cha. Ðể thể hiện là người con yêu dấu của Cha, đẹp lòng Cha mọi bề, “Ðức Giê-su đã không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế, lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (bài đọc II- Pl 2, 2-11) Chính vì thế, người con vâng lời phải có thái độ khiêm tốn, quên mình, chỉ biết triệt để phục vụ và vâng lời thực thi ý của cha cho đến hy sinh chính mạng sống của mình.
“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4:34) Bởi vậy, Chúa Cha đã âu yếm giới thiệu Ðức Giêsu với các môn đệ : “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17:5) Chính nhờ vâng phục, Người đã trở thành mẫu gương cho muôn ngàn thế hệ. Từ nay muốn chu toàn sứ mệnh Kitô hữu, “anh em hãy có những tâm tình như chính Ðức Kitô Giêsu,” (Pl 2:5) Ðấng suốt đời tâm niệm : “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Ðấng đã sai tôi.” (Ga 5:30)
CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN A
Những tá điền sát nhân
Bài đọc I: Is 5,1-7
Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại? Vậy bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.
Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân này rất ân cần chu đáo. Ngài chỉ mong nó sinh ra những trái nho ngon ngọt. Nhưng trước bao nhiêu tình thương và chăm sóc của Thiên Chúa, dân Israel vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại. Do đó, cuối cùng Thiên Chúa quyết định bỏ mặc họ cho quân thù dày xéo. Tất cả những điều được nói bằng lời lẽ dụ ngôn trên đều được thực hiện trong lịch sử Israel.
Bài đọc II: Pl 4,6-9 Những gì anh em đã học hỏi, lãnh nhận, nghe, thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an của anh em.
Mt 21,33-46
- Trước hết nên đặt mình vào cuộc hành trình lên Giêrusalem của Ðức Giêsu theo Matthêu. Với Ðức Giêsu, Galilê là nơi Người tự mạc khải (x. Mt 4,12-17); còn Giuđê là nơi Người bị từ khước và chịu tử hình. Người bước vào ranh giới Giuđê với đám đông lũ lượt theo Người (x. Mt 19,1). Lập tức Ðức Giêsu bị chất vấn về vấn đề ly dị (1-12). Khi gần tới Giêrusalem, Người lên tiếng nói khá rõ lần thứ ba về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu (20,17-19). Hành vi đầu tiên của Ðức Giêsu tại Giêrusalem là việc đuổi những người đang mua bán trong khuôn viên Ðền thờ (21, 12-17). Việc đó đưa tới cuộc điều tra hạch hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (23). Vì các thượng tế và kỳ mục trong dân không trả lời được câu hỏi của Ðức Giêsu là “Phép rửa của ông Gioan do trời hay do người ta” nên Ðức Giêsu đáp: “Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (27). Thế là Ðức Giêsu liên tiếp nói với họ qua ba dụ ngôn: Dụ ngôn hai người con (Mt 21,28-32- “những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”), dụ ngôn những tá điền sát nhân (cc. 33-46) và dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14). Dụ ngôn thứ nhất nhắm thẳng nhóm thượng tế và kỳ mục. Dụ ngôn thứ hai và thứ ba có thêm cả một số người pharisêu trong đám thính giả. Vì hiểu rõ Ðức Giêsu có ý lên án họ, nên họ tìm cách bắt Người. Ðó là điều họ không dám thực hiện trước đám đông vì đám đông kể Người là một ngôn sứ (x. Mt 22,45-46). Vậy nội dung dụ ngôn những tá điền sát nhân là gì khiến đối phương phật ý muốn sai người đi bắt Ðức Giêsu?
- Để mạc khải Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa cho loài người, Chúa Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn và nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống nông nghiệp của người Do Thái thời kỳ đầu Công Nguyên. Trong các dụ ngôn và hình ảnh được Chúa Giê-su vận dụng thì Vườn Nho là dụ ngôn và hình ảnh được Chúa dùng nhiều nhất. Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giê-su trình bày một khía cạnh khác của Vườn Nho là Nước Thiên Chúa.
Chủ vườn nho là Thiên Chúa. Vườn Nho trước hết là dân Do thái, dân riêng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “các tá điền sát nhân” để giúp những người đồng hương Do thái bừng tỉnh mà hiểu ra rằng Nước Thiên Chúa sẽ bị lấy đi không cho họ hưởng nữa, mà Thiên Chúa sẽ ban cho dân ngoại. Nguyên nhân là vì dân Do thái chẳng những đã không đáp lại sự ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa mà làm cho Vườn Nho sinh trái ngọt mà còn phạm những tội tầy trời là giết hại các ngôn sứ và giết cả con trai của Chủ Vườn Nho là Chúa Giêsu. Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do-thái: Thiên Chúa chọn Do-thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Ðể thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Các ngôn sứ thường chỉ trích, lên án lối sống bất công, tha hóa, bóc lột những người nghèo của các lãnh tụ tôn giáo Do-thái. Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do-thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Do-thái rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con” ( Rm 11, 3; x. V 19, 10.14 ).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do-thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do-thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Thiên Chúa. Và Nước Thiên Chúa do Ðức Giê-su thiết lập, qui tụ những người tin theo Ðức Giê-su, bao gồm những người mà người Do-thái gọi là dân ngoại, tức đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Thật ra lịch sử Israel không diễn tiến đơn giản như lời Isaia. Ðất Yuđa đã có lúc tan hoang thật sự. Vườn nho đã trở nên hoang địa trong lúc Lưu đày. Nhưng khi Chúa xót thương trồng lại cây nho Israel; nó chỉ tươi tốt một thời gian, rồi lại sinh ra trái dại, và trâu bò lại giày xéo nó thành hoang địa. Cho mãi đến ngày, vào thời viên mãn, từ gốc Yêssê đã mọc lên một chồi, nở thành thân cây mới; và Thánh Thần Thiên Chúa đã ngự xuống, sai Người đi rao giảng Tin Mừng, khiến một ngày kia thiên hạ được nghe nói: “Cây nho thật, chính là Ta và tất cả các ngươi là cành”. Bài ca của Isaia lúc đó mới kết thúc. Vườn nho đích thực, cây nho đan tử là chính Ðức Yêsu Kitô. Người là Israel mới, thay thế hẳn Israel cũ. Dân Chúa từ nay là Người. Giao ước từ nay mới vĩnh viễn, vì thiên tính và nhân tính ở nơi Người từ nay làm thành một, không thể phân ly. Ai muốn sinh hoa trái đích thực thánh thiện phải liên kết với Người và ở lại trong Người. Còn cành nào lìa khỏi Người sẽ khô héo và bị chặt đi quăng vào lửa. Như vậy Bài ca Vườn nho của Isaia đưa chúng ta đi rất xa, vượt khỏi giới hạn của lịch sử Israel, mở sang mầu nhiệm Ðức Kitô, vẽ ra viễn tượng về Hội Thánh. Chúng ta thấy mình ở trong đó. Vườn nho kia không còn xa lạ nữa. Ðó không phải là đối tượng để ngắm nhìn với con mắt bàng quan. Chúng ta là cành của cây nho đan tử. Chúng ta đang tươi tốt, đầy nhựa sống của thân cây hay chúng ta đang khô héo vì sống tách khỏi Chúa Yêsu Kitô là cây nho đích thực?
- Chúng ta vẫn nghĩ rằng chúng ta là chủ nhân thật sự của những gì đang có trong tay chúng ta. Thế nhưng, phụng vụ lời Chúa hôm nay lại cho chúng ta thấy rằng: chính Thiên Chúa mới là người làm chủ thật sự, còn mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, đến mùa phải nộp hoa lợi cho Ngài.
Lãnh một vườn nho đã được chuẩn bị kỹ như thế để canh tác, đúng ra những người tá điền phải làm cho nó sinh lợi thật nhiều như lòng mong ước của ông chủ. Thế nhưng, “Nó lại sinh toàn nho dại.”. Không những thế, những người được giao cho quản lý vườn nho của ông chủ, lại còn có dã tâm muốn chiếm đoạt luôn vườn nho của chủ làm của mình. Đúng là một hành vi vô ơn và độc ác. Họ đã bắt bớ, hành hạ và giết chết biết bao tôi tớ của chủ là các vị ngôn sứ được sai đến với họ. Họ đã quên đi công ơn của chủ, người đã chuẩn bị mọi sự và đã cho họ làm vườn nho của ông. Họ cũng đã phụ lòng tín nhiệm của chủ khi ông giao cho họ toàn quyền trên vườn nho mà ông đã vất vả xây dựng, vun trồng. Cũng thế, những người lãnh đạo trong dân Do Thái đáng lẽ phải nộp hoa lợi cho chủ, nghĩa là họ phải chuẩn bị một dân sẵn sàng để đón nhận Đấng Messia của Thiên Chúa là Đức Giêsu. Thế nhưng, chẳng những họ không đón nhận, mà họ còn là cớ vấp phạm, ngăn cản người ta đến với Đức Giêsu. Và giờ đây, họ đang tìm cách giết Ngài.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.
- Mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa giao cho canh tác một vườn nho. Vườn nho đó là những tập thể mà chúng ta phải chịu trách nhiệm; đó còn là gia đình, là anh chị em, là những người chúng ta gặp gỡ… Đặc biệt, vườn nho đó còn là chính bản thân chúng ta. Mỗi người chúng ta là một vườn nho của Thiên Chúa. Ngài đã dùng lời của Ngài và các bí tích để vun xới, rào giậu vườn nho này. Thiên Chúa đã làm tất cả những gì có thể làm để giúp cho đời sống của chúng ta phát triển sung mãn, như lời Ngài phán trong sách ngôn sứ Isaia: “Vậy giờ đây, hỡi dân cư Giêrusalem và người Giuđa, hãy luận xét giữa ta và vườn nho ta. Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm?”. Như ông chủ vườn nho đã sai con của ông đến với các tá điền. Thiên Chúa cũng đã sai Người Con Một yêu dấu của Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta như lời Đức Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi”
(Ga 3, 16). Chính thánh Phaolô cũng đã khai triển vấn đề này trong thư gởi tín hữu Roma: “Còn Thiên Chúa thì lại thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta thế này: là Đức Kitô đã chết vì tội ta ngay khi ta còn là tội nhân” (Rm 5, 8). Thế đó, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là đang còn trong tình trạng chống đối Thiên Chúa, thì Đức Giêsu đã chết vì chúng ta. Thật đúng với lời tâm sự của Ngài: “Còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm?”. Ngay cả Người Con Một mà còn chẳng tiếc, vậy thì còn có điều gì có thể làm cho chúng ta mà Ngài đã không làm? Vì thế, Ngài muốn mỗi người chúng ta hãy nộp hoa lợi vườn nho cho Ngài. Tất cả đều do Thiên Chúa ban. Tất cả đều thuộc quyền Thiên Chúa. Chúng ta hãy ý thức rằng, mình chỉ là người quản lý. Do đó, chúng ta hãy trả lại phần hoa lợi cho chủ.
Điều kế tiếp mà chúng ta cũng cần lưu ý, đó là nếu Thiên Chúa là chủ chúng ta là quản lý, thì tại sao chúng ta lại tiếc xót khi phải đóng góp, chia sẻ thời giờ, của cải cho công việc chung hay trong việc giúp đỡ các anh chị em mình? Nếu Thiên Chúa là chủ thời gian, thì tại sao chúng ta lại tính toán với Chúa thời giờ làm việc thờ phượng Ngài, nhất là ngày Chúa Nhật? Chúng ta cắt đầu, cắt đuôi, đi trễ về sớm … Phải chăng, chúng ta cho rằng của cải, thời giờ là của chúng ta, chúng ta dâng cho Chúa bấy nhiêu là nhiều lắm rồi?
Như đã nói, dụ ngôn hôm nay không chỉ nhắm vào những thượng tế và kỳ mục Dothái, mà còn cho mỗi người chúng ta nữa. Con cái Giáo hội ngày hôm nay hãy coi chừng trước cạm bẫy quyền lực và lợi lộc. Và, các mục tử của Giáo hội, xin nhìn lại trách nhiệm của mình để khỏi rơi vào tình trạng chiếm đoạt ân huệ của Thiên Chúa nhằm củng cố quyền lực và gia tăng lợi lộc cho cá nhân mình. Chúng ta những Kytô hữu, hãy xét mình liên lỉ để khỏi rơi vào tình trạng “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa và trao cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”. Chúng ta có thể khẳng định một cách cụ thể rằng:
những việc đạo đức được thực hiện với ý ngay lành là những trái tốt;
những hy sinh, quên mình vì người khác nhất là người nghèo là những trái tốt;
những đóng góp cho một xã hội công bằng và yêu thương là những trái tốt;
những nỗ lực bênh vực công lý và sự thật là trái tốt;
những đóng góp cho một Giáo hội sống và loan báo Tin Mừng Cứu Độ là những trái tốt.
Ngược lại nho dại là tội lỗi các loại, là lối sống ích kỷ, nhỏ nhen, lười biếng, là việc ám hại người ngay lành vô tội, làm ngược ý Thiên Chúa.
Nho dại còn có thể là cách sống dửng dưng, thụ động, nhát sợ và vô trách nhiệm trước đòi hỏi của công lý và hòa bình, của bác ái yêu thương tha thứ và hòa giải.
Rõ ràng đây là một cơ hội tốt để các nhà lãnh đạo tinh thần Do-thái giáo thức tỉnh và hối cải (“trở lại và hãy sống” – Ed 18, 32), nhưng vì họ không tin vào ngụ ý trong dụ ngôn thức tỉnh họ, nên đã từ chối và tiếp tục theo con đường mù quáng, đi tới chỗ thực hiện đúng như lời dụ ngôn tiên báo: Không chỉ tàn sát các tôi tớ của ông chủ (những ngôn sứ Thiên sai), mà còn giết luôn cả con ông chủ (Đức Giê-su Con Thiên Chúa). Con ông chủ vườn nho – “Tảng đá” bị thợ xây (là những tá điền sát nhân) loại bỏ; không ngờ “lại trở nên đá tảng góc tường” làm nền móng cho Vườn Nho Giao Ước Mới, và “Đó chính là công trình của CHÚA, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118, 23). Đâu ai có thể ngờ được con ông chủ bị giết chết lại trở thành ơn cứu rỗi cho vườn nho, viên đá tảng bị loại bỏ lại trở thành Nền Móng kiên cố xây dựng Vườn Nho Nước Chúa vĩnh hằng.
Thật là mầu nhiệm, thật là kỳ diệu, ngay cả những hành động gian ác của con người lên đến đỉnh điểm cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa – Người cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Người xoay chiều cái ác thành cái thiện (“Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt” – St 50, 20). Giáo Lý HTCG (số 312) đã lý giải rõ ràng: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đã đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đã định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đã chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo” (St 45, 8; 50,20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của mọi người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (x. Rm 5, 20).
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi mọi người đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa, là chính Đức Giêsu, đứa Con Thừa Tự của Ngài, để nhờ Ngài mà sinh hoa kết trái trong vườn nho tâm hồn mình, gia đình mình, trong Giáo xứ và trong Giáo Hội. Hãy xác tín “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài” – “viên đá bọn thợ loại ra, nhưng Thiên Chúa đã làm cho trở nên viên đá góc” chúng ta mới có đủ sức xây dựng Vườn Nho Thiên Chúa, xây dựng Giáo Hội vững bền. “Anh em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng”(1Pr 2:4-5). “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy.” (1Pr 2:7-8)
Như vậy Chúa đã vạch rõ cho chúng ta nếp sống phải có ở trong vườn nho Chúa, là Dân của Người, là Hội Thánh của Chúa Yêsu Kitô. Không những chúng ta phải kết hiệp với Chúa mà còn phải sống sự kết hiệp ấy một cách cụ thể, khi chúng ta yêu mến nhau, để Hội Thánh của Chúa là cộng đoàn huynh đệ bác ái. Vườn nho của Người sẽ tốt tươi sinh trái.
Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta ra khỏi nước Thiên Chúa nếu chúng ta không sinh trái tốt. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người, cách riêng cho các Ki-tô hữu, để mọi người biết đáp lại sự mong chờ của Thiên Chúa là sinh trái tốt trong đời sống cá nhân và cộng đoàn. Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Thiên Chúa trao cho làm sở hữu một vườn nho, là trí khôn, khả năng, tài năng, của cải, vật chất, để mỗi người đem hoa lợi, đem lợi nhuận về cho Chúa. Ngài luôn tôn trọng con người, luôn để cho mỗi người có quyền định đoạt, sắp xếp, bố trí công việc tùy theo tài trí Thiên Chúa đã ban cho mỗi người. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do, luôn để con người, mỗi người phát triển tài năng, tỏ rõ ràng sáng kiến. Do đó, Ngài không canh chừng, không kiểm soát công việc của con người. Tin Mừng viết thật rõ và cảm động :” Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa “ ( Mt 21, 33 ). Rõ ràng Thiên Chúa luôn để con người hoàn toàn tự do định liệu cuộc đời, làm lợi cho Ngài tùy sự khôn ngoan, lanh lợi của mỗi người. Mặc dù, Thiên Chúa ban tự do cho mỗi người, nhưng có những tá điền lại lợi dụng lòng tốt của Ngài, ham mê trục lợi riêng tư, không màng gì đến lời của Ngài đã chỉ vẽ trước. Chính họ đã bội tín với chủ, với Thiên Chúa, đã ngược đãi và tru diệt những đầy tớ của chủ sai tới. Họ không nghĩ, cũng chẳng suy, cái trớ trêu là ngay người con trai duy nhất của chủ được sai đến vì chủ tưởng họ sẽ nể vì con trai của chủ mà vâng lời, mà làm theo ý của chủ. Nhưng thật thảm thiết, họ đã nhẫn tâm, đánh đập và giết chết người con trai duy nhất và yêu dấu của ông chủ. Sở dĩ họ có hành động tàn ác như thế bởi vì họ chiếm toàn bộ gia tài của ông chủ. Do đó: ”…Ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông “ ( Mt 21, 41 ).
Vườn và giống nho chính là tôi được Chúa cuốc đất, nhặt đá để trồng giữa vừờn và xây vọng gác, khoét bồn đạp nho, mong tôi sinh trái tốt, nhưng tôi lại sinh nho dại là các tật xấu và đam mê. Chúa đã săn sóc, che chở tôi qúa đầy đủ mà tôi không biết ơn là sống đạo tốt lành. Do đó Ngài quyết định sẽ phá bỏ hàng rào để tôi là vườn tan hoang, thành mảnh đất hoang vu, bị giầy xéo và cỏ mọc um tùm. Tôi đã là những tá điền gian ác, chẳng kính Chúa yêu người; nhưng Chúa đang chờ đợi tôi sám hối trở về.!
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã đặt một câu hỏi rất cơ bản khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ:
“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7)
Sự sống: do Chúa trực tiếp ban
Sức khoẻ: cũng thế
trí khôn, một số khả năng: cũng thế
tiền bạc, tài sản: do Chúa ban
qua trung gian cha mẹ, thân nhân.
Bài đọc I hôm nay có một câu than rất chua xót của Chúa: “Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho của Ta mà Ta đã không làm!”
Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc chu đáo ân cần. Chúa muốn ta nhận biết tất cả là bởi Ngài – Thế mà rất thường xuyên chúng ta coi những thứ đó là của riêng của chúng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền kia muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ. Chúa cho chúng ta hưởng dùng tất cả những thứ đó, miễn là ta góp lại một phần nhỏ cho Chúa như là phần hoa lợi. Nhưng chúng ta chỉ biết xử dụng tất cả những thứ đó cho riêng mình. Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Giáo Hội, không có phần nào cho xã hội.
Ngày hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa đã sẵn sàng thực hiện bước đầu tiên, Người đã trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng với Con của Người.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn… đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Được sinh ra vào đời, mỗi người chúng ta là một gia tài vô giá Chúa trao ban cho nhân loại. Mỗi con người đều có chỗ đứng trong trái tim của Chúa. Mỗi người đều được Chúa gọi tên riêng. Ngài không gọi chung chung theo đám đông mà gọi tên từng người. Chúa tôn trọng con người, tôn trọng mỗi người và ban cho mỗi người muôn vàn ơn lộc cao quí để con người ca tụng, phục vụ Chúa và phục vụ anh em. Con người chúng ta được hay mất là do sự định đoạt hoàn toàn tự do của chúng ta trong cuộc sống hôm nay. Đời sống của chúng ta hoàn toàn do Chúa ban, chúng ta có biết dùng thời giờ, khả năng để làm lợi cho Chúa hay không? Tất cả đều tùy thuộc vào sự tự do của mỗi người chúng ta.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN A
Tiệc cưới nước trời
Bài đọc I (Is 25,6-9)
Bữa tiệc mà ngôn sứ Isaia mô tả có những nét đáng chú ý sau đây: Người thết đãi là “Chúa các đạo binh”. Khách được mời dự là tất cả các dân. Nơi dọn tiệc là “trên núi này”, tức là núi Sion. Trong bữa tiệc đó, người dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu, tủi hổ, tang chế. Ðó chính là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
Bài đọc II (Pl 4, 12-14. 19-20): Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi làm được hết. Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người.
TIN MỪNG (Mt 22, 1-14)
- Sứ vụ của Ðức Giê-su chẳng những là công bố Nước Trời mà còn là thiết lập Nước Trời nơi trần gian này. Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao Ngài miệt mài, tha thiết với Nước Trời như vậy. Trong khi giảng dạy Ngài dùng hết dụ ngôn này đến dụ ngôn khác, hết thực tại này đến thực tại khác để giúp người ta hiểu về Nước Trời.
Tiệc cưới diễn tả tính nhưng không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người. Sách Khải huyền sau này cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (x. Kh 19).
Ý nghĩa của dụ ngôn bữa tiệc: Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng. Dụ ngôn tiệc cưới có ý nghĩa phần nào giống như dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-46). Nhưng dụ ngôn này nói đến toàn dân Israel nhiều hơn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái.
– Ông Vua ám chỉ Thiên Chúa Cha: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người bằng cách mời họ gia nhập vào Nước Trời.
– Tiệc cưới ám chỉ Nước Trời: Nước Trời trước hết là tình trạng an bình, hạnh phúc ở trong những tâm hồn biết yêu thương, kế đến là một xã hội lý tưởng – vừa tại thế vừa tại thiên – trong đó mọi người đều được an vui hạnh phúc vì biết yêu thương nhau.
– Con Vua ám chỉ Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, đến trần gian để thành lập Nước Trời.
– Các quan khách được mời ám chỉ dân Do Thái: Nước Trời được dành ưu tiên cho dân Do Thái, là dân đặc biệt của Thiên Chúa.
– Đầy tớ Vua ám chỉ các ngôn sứ: Các ngôn sứ đã đến trong lịch sử để mời gọi người Do Thái gia nhập Nước Trời. Nhưng người Do Thái đa số không màng tới lời mời ấy, vì họ mải mê tìm những lợi lộc trần gian hơn là tìm sự công chính, lối sống yêu thương.
– Người ở các ngả đường được mời vào dự tiệc ám chỉ dân ngoại được mời vào Nước Thiên Chúa.
– Y phục lễ cưới: Theo phong tục văn hóa Do Thái thời ấy, trong đám cưới của nhà vua (hay của những nhà quý tộc), mỗi người vào dự tiệc đều được phát cho một chiếc áo cưới. Từ chối không mặc áo cưới này là tỏ ra khinh thường nhà Vua, nên mắc tội khi quân. Y phục lễ cưới này ám chỉ tình yêu thương chân thực, là điều kiện tất yếu phải có để được vào Nước Trời. Không có tình yêu thương chân thực, không thể vào được nước Trời. Vì Nước Trời là thế giới của tình yêu, nên chỉ những ai có tình yêu đích thực mới có thể ở đây. Những ai không có tình yêu đích thực thì bản thân họ không phù hợp với chốn này.
Trong bài Tin Mừng trên đây, Ðức Giêsu đã nói: “Nước Trời giống như một vị vua kia mở tiệc cưới cho con mình.” Ðây hẳn là một biến cố trọng đại trong cả nước. Những nhân vật vị vọng đều là khách được mời đến dự. Bầu khí thật tưng bừng, vì đây không phải chỉ là một bữa tiệc thường mà là tiệc cưới, hơn nữa lại là tiệc cưới của hoàng tử. Thế nhưng, đáng tiếc thay, khi ngày hôn lễ tới gần, một chuyện không ngờ đã xảy ra. Nhà vua sai một tốp đầy tớ đi mời những người đã được mời trước đây đến dự tiệc, nhưng họ từ chối. Không nản lòng, nhà vua lại sai một tốp đầy tớ khác, dặn dò kỹ càng về điều phải nói với khách mời: “Cỗ bàn đã dọn xong, bò bê đã được làm thịt, mọi sự đã sẵn sàng, xin mời quý vị đến dự tiệc.” Thật là một lời mời khó lòng từ chối. Ai cũng nhận ra lòng tốt của nhà vua, người chỉ muốn quan khách đến đông đủ để chung vui với mình, và hưởng những gì mình đã dọn sẵn. Nhưng một lần nữa, người ta lại không đếm xỉa đến lời mời đáng trân trọng này. Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán. Các kẻ còn lại dám táo tợn bắt lấy các đầy tớ vua mà hành hạ và giết đi. Chúng ta có thể đoán được cơn thịnh nộ của nhà vua. Ông sai quân tiêu diệt những tên sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra có vẻ ngược đời và khó hiểu. Những người được vua mời tới dự tiệc cưới của hoàng tử đều bận cả. Người thì đi buôn bán xa, kẻ khác thì nhục mạ và giết các đầy tớ của vua sai đi mời. Nói tóm lại, chả ai đếm xỉa gì đến bữa tiệc quan trọng của đức vua cả. Càng khó tin hơn nữa khi vua nổi giận sai lính đi hủy diệt thành phố của chúng. Còn hy hữu hơn nữa là vua đã cho lính đi ra mời những người đứng đầu đường xó chợ vào tham dự tiệc cưới.
Dân Do Thái là đối tượng ưu tiên được Thiên Chúa mời gọi vào Nước Trời. Ngài đã sai các ngôn sứ đến để mời gọi họ, yêu cầu họ sống tốt đẹp để gia nhập Nước Trời của Ngài. Nhưng hầu hết các ngôn sứ đến với dân Do Thái đều bị bách hại, ném đá hoặc giết chết, vì những lời cảnh cáo của các ngôn sứ không lọt tai họ. Họ chỉ thích nghe những ai nịnh nọt, ca tụng họ, phù hợp với quan niệm cố hữu của họ, chứ họ không thích những lời «thẳng mực tàu đau lòng gỗ» của các vị, hoặc những quan niệm mới mẻ, đúng đắn và phù hợp với thời đại hơn. Ngay cả Đức Giêsu cũng bị họ giết chết. Vì thế, bài Tin Mừng nói: «Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng» (Mt 22,7). Câu này đã được ứng nghiệm vào năm 70, sau khi Đức Giêsu bị dân Do Thái giết khoảng 40 năm sau. Năm đó, đế quốc Rôma đã tiêu diệt và phá bình địa đất nước Do Thái. Dân Do Thái bị mất nước và phải lưu lạc mãi đến năm 1947 mới lập quốc trở lại.
Vậy nếu hiểu dụ ngôn trên đây của Matthêu theo nghĩa tượng trưng, chúng ta sẽ bớt khó chịu và ngạc nhiên vì những chi tiết tưởng chừng vô lý.
Cách kể chuyện của Ðức Giê-su làm nổi bật thái độ của nhà vua: vua quan tâm nhất là việc các khách mời đến đông đủ để phòng tiệc của ngài không còn một chỗ nào trống. Lời mời của Thiên Chúa bị dân Ngài từ chối. Ðó là điều đã xảy ra trong giòng lịch sử dân Ít-ra-en. Những người được mời lại không đến dự. Họ coi thường niềm vui và hạnh phúc mà Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn sàng. Họ có nhiều mối bận tâm khác, bận tâm về công việc làm ăn, về những dự án và kế hoạch phải thực hiện gấp. Thậm chí lời mời yêu thương của Thiên Chúa còn trở nên một cản trở cho những gì họ toan tính và tiến hành. Chính vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chịu đối xử tàn tệ chỉ vì dám hô to lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô là vị ngôn sứ cuối cùng dọn đường cho Đấng Cứu Thế, đã kêu gào dân chúng sám hối, nhưng đại đa số vẫn dửng dưng. Thái độ của họ được diễn tả trong bài dụ ngôn là “họ không đếm xỉa gì tới, hoặc bắt các đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.
Những khách mời đã không đến dự tiệc là những người không xứng đáng với tiệc cưới của hoàng tử vì họ đã coi thường lời mời của Thiên Chúa. Còn người khách nọ vào phòng tiệc mà không có y phục lễ cưới cũng không xứng đáng với tiệc cưới của hoàng tử vì anh ta không tuân giữ điều tối thiểu đã được qui định. Cả hai loại người trên đều bị Thiên Chúa chê trách và vì thế mà họ bị trừng phạt.
- Bước vào phòng tiệc được coi là gia nhập Hội Thánh qua phép rửa. Ðể trở nên một Kitô hữu, cần phải quay lưng với quá khứ tội lỗi, từ bỏ lối sống ngày xưa và mặc lấy lối sống mới của Ðức Kitô. Ngày chịu Phép Rửa, chúng ta được trao tấm áo trắng tượng trưng cho đời sống mới mà chúng ta sắp bước vào (x. Gl 3,27). Phép Rửa biến chúng ta thành phần tử của Hội Thánh, nhưng điều đó không phải là một bảo đảm cho việc chúng ta chắc chắn được dự bàn tiệc Nước Trời mai hậu. Ðó là điều thánh Matthêu muốn nhắc nhở chúng ta trong phần cuối của dụ ngôn (câu 11-13). Khi nhà vua quan sát các khách dự tiệc, ông thấy có người không mặc y phục lễ cưới. Nhà vua ngạc nhiên khi thấy một người đi ăn cưới mà lại không ăn mặc xứng đáng. Người ấy không sao chữa tội mình được. Rốt cuộc anh ta phải chịu chung số phận với những người được mời trước kia. Dĩ nhiên y phục lễ cưới ở đây có tính cách tượng trưng. Một Kitô hữu đã chịu phép Rửa nhưng vẫn còn gắn bó với tội lỗi và thói hư tật xấu, vẫn chưa có một cuộc đổi đời thật sự, người ấy là kẻ không mang y phục lễ cưới, và bị đuổi khỏi bàn tiệc đời đời. Ðược vào dự tiệc là một ơn nhưng không, nhưng chúng ta cần phải có thái độ sẵn sàng đón nhận ơn đó. Chính đời sống đạo hạnh và công chính của chúng ta cho thấy chúng ta thực sự coi trọng bữa tiệc Chúa mời ta tham dự. Ðược làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh, những ơn đó không phải chỉ là ơn để nhận mà còn là ơn để sống. Chính khi ta dám sống đến cùng những ơn đã lãnh nhận, ta mới làm cho những ơn ấy bung ra tất cả sức mạnh của chúng và sinh hoa trái phong phú.
Được Thiên Chúa mời gọi vào bàn tiệc nước Thiên Chúa là một hồng ân, nên cách nào đó, chiếc áo mà chúng ta cần phải có chính là một đời sống phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi cơ bản mà Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện. Chiếc áo đó chính là đời sống của Đức Kytô như thánh Phaolô đã từng nhắc nhở các giáo đoàn của ngài. Qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta trở nên con người mới, nghĩa là con người được tái tạo trong Đức Kytô qua cái chết và phục sinh của Người. Chính vì thế, thánh Phalô khuyên chúng ta vì đã trở nên “con người mới”, nên chúng ta cần phải “mặc lấy Đức Kytô”, nghĩa là cần phải được biến đổi theo hình ảnh của Người (x. Gl 3, 27.28; Ep 4, 24). Trong ý nghĩa của ơn cứu độ mà thánh Phaolô khai triển, mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 3,27). Mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy các tâm tình: lân tuất, nhân hậu, khiêm nhu, nhẫn nại, hiền từ (x. Cl 3, 9-13). Noi gương Chúa Kitô mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha như thánh Phaolô khẳng định: Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24). Các thánh giáo phụ giải thích thêm một cách cụ thể chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, ít ra là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại cắt nghĩa: chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
“Tiệc cưới Con Chiên” được sách Khải Huyền mô tả (19, 7, 9) hàm chứa một ý nghĩa sâu xa : “Phúc cho những ai được mời dự tiệc cưới của Chiên Con! ” Thật hạnh phúc cho chúng ta, phúc này vượt quá những gì chúng ta có thể nếm hưởng trên trần gian, đây là yến tiệc Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Sau Chiên Thiên Chúa linh mục mời gọi : “Đây Chiên Thiên Chúa…phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (Thánh lễ). Lời này gửi đến tất cả những ai sẽ tham dự vào tiệc cưới Con Chiên. Mỗi Thánh lễ là một lời loan báo và tham dự trước vào yến tiệc Nước Trời, tiệc của Hoàng Tử, Con yếu dấu của Chúa Cha, tiệc của Đức Kitô kết ước với nhân loại. Thánh Têrêsa Avila nói : “Lạy Chúa, vị Hôn Thê của con, giờ đã đến, giờ con hằng mong đợi, giờ chúng ta gặp nhau. Ôi lạy Thiên Chúa là tình yêu duy nhất của con! Này là giờ con ao ước từ lâu, tâm hồn con vui sướng khi được kết hợp với Chúa! ” Chính Chúa thiết đãi chúng ta của ăn không bao giờ hư nát chính là bánh trường sinh, vì Ngài đã nói: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Bánh Thánh Thể của Chúa luôn dành cho mọi người. Không phân biệt màu da sắc tộc. Chúa muốn mọi người đều được quy tụ bên nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể. Chúa muốn qua bữa tiệc Thánh Thể này sẽ bảo đảm cho con người sự sống đời đời.
- “Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít.” Câu này có nghĩa là không phải những ai được gọi đều là những người được chọn. Người Kitô hữu chúng ta không nên rơi vào sự tự mãn của dân Do Thái khi xưa. Họ tự hào mình là dân được tuyển chọn. Thế nhưng họ lại từ khước Ðức Giêsu, từ khước dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa. Họ coi mình là con cái Nước Trời, nhưng họ lại bị “quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,12). Hội Thánh hôm nay cũng phải khiêm tốn và thường xuyên tự hỏi mình có mặc y phục lễ cưới không?
Mỗi người chúng ta đều là khách được mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử là Nước Trời: đó là vinh dự lớn lao của chúng ta. Chúng ta có biết trân trọng đáp lại lời mời của Thiên Chúa mà đến dự không? Bước vào phòng tiệc thì chúng ta phải tuân giữ những điều tối thiểu đã được qui định: đó là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta đã sống trong Giáo Hội một thời gian dài rồi nhưng chúng ta có sống xứng đáng với tư cách khách vào phòng tiệc không?
Tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Thiên Chúa mong chúng ta tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Người mong đón chúng ta bước vào. Khi mời gọi, Người chờ đợi chúng ta trả lời. Khi bày tỏ tình yêu cao vời, Người ước muốn chúng ta đáp trả bằng tình yêu dù tình yêu của chúng ta thật thấp hèn. Thế nhưng chúng ta cũng có toàn quyền để đón nhận hoặc chối từ, để bước tới hay quay lưng khi đứng trước lời mời gọi và tình yêu của Người.
Hồi thứ hai của dụ ngôn (c.11-14) có thể khiến người đọc kinh ngạc về sự nghiêm khắc của nhà Vua khi ông cho tống cổ một thực khách không mặc y phục lễ cưới khỏi bàn tiệc. Thế nhưng chi tiết này của dụ ngôn chỉ nhằm nói lên rằng: chỉ chấp nhận lời mời dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa vẫn chưa đủ; nhưng còn phải khuôn mình theo lối hành xử của các “công dân Nước Trời”. Nói cách khác, “theo Ðạo” thôi thì chưa đủ, còn phải “sống Ðạo”, thực hành Lời Chúa cho đến kỳ cùng. “Chiếc aó lễ cưới phải khoác” trong dụ ngôn này chính là biểu tượng cho việc sống Ðạo, cho việc thực thi tiếng Chúa mời gọi vang lên trong lương tâm mỗi người. Áo cưới là những việc lành phúc đức, là cách sống yêu thương, phục vụ. Thất bất hạnh cho ta khi ngày tận thế đứng trước mặt Chúa, Chúa lại hỏi ta: tại sao không mặc áo cưới?
- Tôi có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời (để sống theo ý riêng của tôi):
Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đình, bè bạn,
chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai…
Tôi có nhiều thứ ưu tiên khác
nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa
bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra,
vì không mang y phục lễ cưới.
Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời
vì họ đánh mất tấm áo trắng ngày Rửa tội.
Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời,
là cho thấy mình coi trọng bữa tiệc của Chúa.
Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi
mình có mặc y phục lễ cưới không?
Thiên Chúa mời chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Ngài, nhưng chúng ta luôn có lý do để từ chối lời mời đó. Bạn nghĩ gì về chỗ đứng của Chúa trong đời bạn?
Hạnh phúc Nước Trời, hay–nói cho dễ hiểu–hạnh phúc thiên đàng là thứ hạnh phúc trọn vẹn nhất, vững bền nhất, hơn tất cả mọi thứ hạnh phúc ở trần gian. Ai cũng biết thế.
Tuy nhiên, loài người chúng ta có một cái tật, là bị những cái trước mắt che khuất nên không nhìn thấy cái ở xa, giống như tật cận thị. Cái trước mắt mà chúng ta thấy hằng ngày là hạnh phúc mà trần gian mang lại qua việc làm ăn, buôn bán. Nói cách khác, trước mắt phải lo làm ăn để có một cuộc sống bảo đảm về vật chất; thiên đàng thì còn xa, sau này từ từ lo. Suy nghĩ như thế có phần đúng, vì ta phải sống thực tế với hiện tại. Nhưng cũng có phần sai khi chỉ biết hiện tại mà không hề nghĩ tới tương lai. Chúa không hề trách vì chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau thì sẽ đáng trách. “Tiên vàn chúng con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mọi sự khác Ngài sẽ lo cho chúng con”. Vì chúng ta dễ quên hạnh phúc mai sau, nên nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa sai người này người nọ đến nhắc nhở chúng ta. Chúng ta có khó chịu với những người ấy, xua đuổi họ, nhục mạ họ và ngược đãi họ không?
Vào thời Chúa Giêsu những kẻ được mời là những người Do Thái. Còn bây giờ những kẻ được mời lại là những Kitô hữu. Mọi sự đã sẵn ngay từ lúc chúng ta còn nhỏ bé: Các bí tích và những ơn lành của Chúa. Hằng tuần bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa cũng đã được dọn sẵn. Chúa vẫn kêu mời: Hãy đến vì tất cả đã sẵn. Nhưng người ta đã đưa ra những lý do: tậu bò, cưới vợ, mua đất để từ chối. Nếu chúng ta coi bí tích Thánh Thể là một quà tặng quý giá và chúng ta là những kẻ túng thiếu thì lẽ nào chúng ta lại từ chối.
- Hơn nữa chúng ta còn có vinh dự và trách nhiệm là thân nhân, đầy tớ của nhà vua đổ ra các nẻo đường để mời gọi những người khác đến dự tiệc cưới của hoàng tử. Chúng ta có ra sức tìm kiếm gặp gỡ những người -càng nhiều càng tốt- chưa biết Chúa, chưa tin Chúa, chưa nhận Chúa làm Cha, làm Vua, để tìm cách nói với họ về tấm lòng quảng đại yêu thương của Thiên Chúa, giới thiệu với họ thiện ý tốt lành và quyền năng của Người không?
Thiên Chúa muốn rằng mọi người đều được dự tiệc vì phòng tiệc thì lúc nào cũng còn chỗ. Những kẻ còn ở ngoài đường, còn ở ngoài Giáo Hội, đó là những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa, nhất là những người khổ đau và túng thiếu, chúng ta không được phép bỏ rơi họ.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN A
Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
Is 45,1.4-6: Cyrô là vua dân ngoại, nhưng lại được Thiên Chúa xức dầu để trở nên công cụ phục vụ cho Ngài trong việc giải thoát dân Chúa và làm cho danh Chúa được nhận biết khắp muôn nơi. Lời của Chúa nhắc đi nhắc lại cho Cyrô biết rằng chỉ có một Chúa chứ không còn có Chúa nào khác. Thiên Chúa đã chọn ông để làm những điều đó cho dân của Ngài ngay từ khi Cyrô còn chưa nhận biết Ngài. Nơi đây chúng ta nhận thức và tin tưởng rằng Thiên Chúa có quyền trên mọi dân tộc và trên mọi nhà lãnh đạo. Thiên Chúa có thể dùng bất cứ một dân tộc hay một nhà lãnh đạo nào để thi hành chương trình và ý định của Ngài, bất kể là dân tộc hay nhà lãnh đạo đó có nhận biết Ngài hay không.
1Tx 1,1-5b: Thánh Phaolô đã cảm tạ Thiên Chúa cho các Kitô hữu Thessalonica vì cuộc sống sinh hoa kết trái của họ đối với Tin Mừng. Đời sống của họ đã nêu cao tinh thần đức tin, đức mến và lòng trông cậy. Họ đã chứng tỏ ra được rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn họ qua Tin mừng mà Phaolô đã rao giảng cho họ. Họ đã thể hiện tinh thần Tin Mừng trong cuộc sống không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín. Họ đã bắt chước gương của Phaolô và đã trở nên gương sáng cho những giáo đoàn khác.
TIN MỪNG: Mt 22,15-21
- Nhóm Pha-ri-sêu bàn mưu để làm cho Ðức Giê-su lỡ lời mắc bẫy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Pha-ri-sêu ghét cay ghét đắng người Rô-ma đang đô hộ Ít-ra-en, còn phe Hê-rô-đê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Ðức Giê-su. Một mình đối nghịch với Ðức Giê-su trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Pha-ri-sêu không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hê-rô-đê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị.
Họ chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo «không được» thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giê-su đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch» trên. Đó là «của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».
“Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da. Sử dụng đồng tiền này là dấu chỉ mình chấp nhận luật lệ Rôma. Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: “Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da”.
Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa?
Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: “Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa.” Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm. Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa. Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta. Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng. Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người. Chuyện xưa và nay không khác nhau cho lắm. Và Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Ngài rõ ràng: “Của César trả về cho César; của Thiên Chúa trả về lại cho Thiên Chúa”. Hãy chu toàn bổn phận của mình đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chủ còn tôi là đầy tớ. Đầy tớ thì luôn làm theo điều người chủ muốn, sẵn sàng tuân phục ý của chủ. Ý chủ chính là lời, là mệnh lệnh của chủ nói ra. Vậy để tìm ra thánh ý của Thiên Chúa, tôi phải tìm đọc Lời Chúa, vì thiếu hiểu biết Lời Chúa, tôi thường làm theo ý của tôi.
“Ðồng tiền thuộc về Xê-da, nhưng anh em thuộc về Thiên Chúa? Ðồng tiền mang hình ảnh của Xê-da, nên chúng ta phải trả cho Xê-da. Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa” (G. Bornkamm). Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về Hoàng đế, nhưng chính bản thân con người thì lại thuộc về Thiên Chúa. Như thế Ðức Giêsu đã nâng vấn đề lên một bình diện khác. Không phải chỉ là chuyện nộp thuế cho Xê-da, nhưng là chuyện Thiên Chúa có quyền tối cao trên mọi người và mọi quyền hành trần thế.
- Thiên Chúa là Vua, tôi là dân của Ngài. Là dân của Ngài tôi có quyền thừa hưởng những quyền lợi của người dân, nhưng là dân tôi phải tôn trọng quyền làm vua của Vua. Vậy, tôi phải để Chúa làm Vua trên đời sống tôi, tôn trọng quyền làm Vua của Chúa trên đời sống tôi. Tóm lại, tôi cần trả về cho Thiên Chúa quyền làm Chúa trên đời sống của tôi; trả về cho Chúa sự thờ phượng mà tôi đã bỏ bê; trả về cho Chúa thời giờ cầu nguyện mà tôi đã lãng quên; trả về cho Chúa hoa lợi chính đáng mà tôi đã giữ lấy; trả về cho Chúa lời ca ngợi đã không còn trên đôi môi; trả về cho Chúa đền thờ tâm hồn đã vắng bóng Chúa.
Thực tế, mỗi người chúng ta đều có hai bổn phận trên vai: nghĩa vụ của người công dân trong một nước và nghĩa vụ của người Kitô hữu – công dân thuộc về nước trời. Người tín hữu là người được Thiên Chúa kêu mời và tuyển chọn. Họ nhận lãnh sứ điệp nước trời, thực thi đức ái, sống liêm chính vị tha và vững lòng trông đợi ngày Chúa đến.
Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta. Chúng ta cần đóng góp tích cực để xây dựng trần thế sao cho mọi người được hưởng tự do và hạnh phúc. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
- Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai “bản tịch” với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Ki-tô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua” (1Pr 2, 16). Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa : “Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?” (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp : “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho” (Ga 19, 11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: “Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa” (Rm 13,1-2). Vì thuộc về Thiên Chúa, những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Những ai trốn tránh thi hành các bổn phận công dân thì không những có tội với nhà nước, mà còn có tội với Thiên Chúa nữa. Chính vì tham dự vào quyền bính chính trị để phục vụ nhân dân với cái tâm, là ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, chia sẻ với quyền bính Ngài như Gandhi xác quyết: “Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Đế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Đế”.
Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai “bản tịch” sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Ki-tô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên hết. Ðức vâng phục Ki-tô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5, 29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do-thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Ðức Giê-su và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do-thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Đứng trước quyền bính vào tay của các nhà lãnh đạo ích kỷ độc tài, đục khoét của công, lèo lái vận mệnh của dân tộc đi vào vực thảm, Giáo Huấn Công giáo mở cho các tín hữu con đường đi mới: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về César cái gì của César, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta” (Giáo lý Công giáo số 2242).
Chính Đức Giêsu đã bất chấp luật sabát của Môsê – tức luật tôn giáo – để làm theo đòi hỏi của tình yêu đại đồng (x. Mt 12,1-8; 12,9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Phêrô đã bất chấp lệnh cấm của giới lãnh đạo tôn giáo để làm theo đòi hỏi của Thiên Chúa là rao giảng Tin Mừng (x. Cv 5,27-33). Các thánh tử đạo trên thế giới đã trung thành với Thiên Chúa bất chấp lệnh cấm đạo của chính quyền.
Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…,thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.
Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL 287.2 ;672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
- “Trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da; và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” là một câu nói lừng danh của Chúa Giêsu được rất nhiều người biết đến và cũng là một câu nói khiến nhiều người hiểu lầm. Hiểu lầm thứ nhất là chúng ta cho rằng đạo và đời khác nhau như hai thái cực nóng và lạnh, do đó nếu chúng ta theo đạo thì chúng ta không nên tham dự vào các sinh hoạt chính trị, ngay cả việc đi bầu chúng ta cũng giữ thái độ thờ ơ, lạnh nhạt vì cho rằng sinh hoạt đó không thuộc về đạo. Hiểu lầm thứ hai là về đời sống đạo và đời sống xã hội. Chúng ta cho đó là hai môi trường khác biệt nhau, do đó nhiều người Công Giáo đến nhà thờ thường xuyên nhưng ngoài xã hội thì họ lại nổi tiếng là một con buôn tham lam, một nhà kinh doanh ma đầu, gian dối, hay một chính trị gia xảo quyệt. Nói cách khác, vì cho rằng đạo chỉ có trong khung cảnh nhà thờ nên nhiều khi chúng ta chỉ sống đạo một vài tiếng đồng hồ khi ở nhà thờ.
Tất cả mọi người đều thuộc về một xã hội và được hưởng những quyền lợi cũng như những sự phục vụ của xã hội đó mang lại cho họ. Và do đó họ phải có trách nhiệm đóng góp xây dựng xã hội đó. Khi Ðức Giêsu nói, “Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê” có nghĩa là không ai được quyền trốn tránh trách nhiệm đóng góp của mình cho xã hội. Câu trả lời của Ðức Giêsu “Của Xêda hãy trả cho Xêda” là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu. Chính Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5); Ðức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
Người Việt Nam nói chung và người tín hữu Việt Nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung. Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp “tiền rổ” trong các thánh lễ…Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện. Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN A (cf. CN 31 năm B; CN 15 năm c; Lễ Chúa Kito vua năm A)
- Bài Tin Mừng hôm nay trước tiên đặt ta trước bối cảnh của cả một rừng luật nơi não trạng của người Do Thái. Với họ “Luật Môsê” bao gồm mọi luật buộc mà Gia-vê Thiên Chúa đã mạc khải cho Ít-ra-en ngang qua nhà lãnh đạo Môsê. Ðạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật; trong đó có 248 điều buộc (không làm không được) và 365 điều cấm (không được làm) (365 tương ứng với số ngày trong năm, và 248 tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái). Nhiều đến nỗi ngay cả những người Biệt Phái và thậm chí cả mấy ông tiến sĩ luật cũng còn lúng ta lúng túng, không biết đâu là chính, đâu là phụ. Do đó, câu hỏi của một thầy thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu thật là chí lý. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Ðức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Vì thế tín đồ đạo Do Thái gặp phải thắc mắc là: Luật nào đứng hàng đầu giữa cả một rừng luật mà họ được dạy để tuân theo?
Giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi:“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – nối kết lại thành một giới răn quan trọng nhất. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Và để có thể yêu mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn”, cần phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình.
Ông kinh sư nhắc lại khía cạnh tri thức của tình yêu. là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ: Khi nhận định như vậy, ông kinh sư không phủ nhận nghi lễ phụng tự tại Đền Thờ, mà cho thấy nghi lễ phụng tự bị hạ thấp giá trị so với việc thực thi lòng mến Chúa và yêu tha nhân. Câu trả lời của ông kinh sư làm Đức Giêsu hài lòng và Người bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.” Nghĩa là, ông chỉ cần sống điều ông xác tín, mến Chúa yêu người, thì ông đã đặt chân vào trong Nước Thiên Chúa rồi. “Thưa Thày, hay lắm, Thày nói rất đúng.” Kinh sư phải nhìn nhận cái nhìn tuyệt vời của Chúa về giới răn quan trọng nhất. Nếu không có thiện chí, chắc chắn ông không thể chấp nhận dễ dàng như vậy. Thiện chí đó bắt nguồn từ sự khôn ngoan khiến ông gần Nước Thiên Chúa. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân là hai điều răn rất khác nhau, vì Thiên Chúa khác hẳn con người. Nhưng hai điều răn quan trọng như nhau. Chỉ trong tình yêu, Chúa mới có thể liên kết hai sứ điệp khác nhau thành một Lời duy nhất.
- Ðức Giêsu đã thực hiện một bước đi mang tính cách quyết định trong sứ mệnh rảo giảng của Người. Ðó là khi Người cho rằng người ta không còn được coi hai giới răn « mến Chúa » và « yêu người » như hai giới răn khác biệt nhau và độc lập với nhau nữa. Không ! Ðức Giêsu đã liên kết cả hai giới răn đó lại với nhau một cách hết sức chặt chẽ, đến nỗi thiếu một trong hai, người ta sẽ không còn hiểu được giới răn còn lại. Cả hai cùng bổ túc và hoàn bị lẫn nhau ! Vậy Ðức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Ðối với Ðức Giêsu, con người không hề bị tách rời ra khỏi Thiên Chúa là nguyên thủy của nó, con người mang trên mình hình ảnh của Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã nâng luật yêu người ngang bằng với luật mến Chúa. Yêu người là yêu Chúa. Mỗi Chúa nhật, chúng ta thường đọc: “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là bản tóm lược mười điều răn ghi khắc trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu người”.
Với những dụ ngôn Chúa dùng để giáo huấn, dậy dỗ và trình bầy nước trời như dụ ngôn:”Người Samaria nhân hậu”, “người con hoang đàng” hay ”ngày phán xét cuối cùng”, Chúa Giêsu muốn trình bầy một giáo lý gồm tóm hai giới răn: ”Mến Chúa và Yêu người” thành một giới răn duy nhất. Mến Chúa sẽ gặp người và yêu người nhất định sẽ gặp Chúa. Chúa đồng hóa mình với người nghèo, người đói, người khát, người bị tù tội, người rách rưới. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Thí dụ khi hai người yêu nhau thì tâm hồn, trí óc, lòng của họ luôn hướng về nhau mà không hướng về một ai khác. Thiên Chúa cần được đứng đầu danh sách các ưu tiên. Ðiều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng.Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Ðức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí. tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân. không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Mến Chúa đòi phải yêu người. Yêu người là bằng chứng của lòng mến Chúa. Hãy yêu như Chúa dạy. Và hãy yêu như Chúa yêu. Yêu bằng tình yêu chân chính. Và làm những sự tốt lành thánh thiện do tình yêu chân chính mang lại.
Vì thế mà sau này Chúa Giêsu Kitô gọi đó là điều răn mới, điều răn riêng của Người: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.“Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta đã không thực hiện được như vậy, nhất là yêu kẻ thù như Chúa đã dạy, vì chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong đời sống đạo; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ. Yêu tha nhân đòi chúng ta “nhẫn nhục hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cor 13, 4-7). Hơn nữa, chúng ta yêu người vì Chúa, vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Lạy Chúa xin cho chúng con biết nhận ra gương mặt của Chúa nơi mọi người để chúng con yêu người như yêu Chúa.
- Trong thực hành chính điều răn thứ hai là: “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (c.31), điều răn ấy mới làm cho chỗ đứng của điều răn thứ nhất kia bị xáo trộn, do sự lệch lạc của tình yêu nơi con người. Tông đồ Gioan kể tội ghét anh em mình là tội nói dối vì ngài bảo: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì kẻ ấy là người nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Ðúng vậy, tha nhân là người tôi thấy và lại mang trên mình hình ảnh của Thiên Chúa mà tôi không yêu thương, thì làm sao tôi có thể nói được là tôi yêu mến Thiên Chúa là Ðấng tôi không thấy? “Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô”(Gl 6,2). “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Vì tha nhân cũng là anh em cùng một Cha trên trời, cùng được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa. Tác giả thư của Giacôbê qui trách nhiệm sự thiếu vắng tình yêu đối với tha nhân về một đức tin đã chết khi nói: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (2,15-17). Ðức Giêsu đã biểu lộ tình yêu đích thực đó một cách tuyệt hảo khi Người nối kết hai điều răn mến Chúa và yêu người trong cái chết cao quý hơn bất cứ lễ toàn thiêu và lễ vật hy sinh nào khác, khi Người hy sinh mạng sống mình vì yêu Cha và yêu cả nhân loại.
Ðức Kitô đã đặt nặng tình yêu tha nhân lên trên những hình thức tôn kính Thiên Chúa mang tính cách lễ nghi. Ðó là điều Người đã hơn một lần minh nhiên khẳng định: «Ta muốn lòng nhân ái hơn là của lễ» (Mt 9,12). Và trong Bài Giảng Trên Núi, Người còn nhấn mạnh: « Nếu khi ngươi mang lễ vật lên trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với ngươi, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của ngươi sau» (Mt 5,23-24). “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ“. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Ðó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2: “Để kết luận, nên nhớ rằng khi kêu gọi các Kitô hữu làm việc và xả thân phục vụ cho sự phát triển con người, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dựa trên một số quan điểm nền tảng trong truyền thống Kinh Thánh và truyền thống Giáo Hội. Người Israel xưa hết sức nhấn mạnh tới mối quan hệ không thể cắt đứt được giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người trong các xã hội thời đó dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa. Thỉnh thoảng trong các sách Ngôn Sứ chúng ta cũng nghe người ta kêu gào đòi hỏi sự công bằng, đòi hỏi việc tổ chức xã hội phải đúng đắn, bằng không sẽ không thể nào thờ phượng Chúa thật sự được (x. Is 1,10-17; Am 5,21-24). Như vậy, trong lời kêu gọi của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, chúng ta nghe thấy tiếng vang vọng của các ngôn sứ đầy tràn Thánh Thần Thiên Chúa, “Ngài là Đấng muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ” (Hs 6,6). Đức Giêsu cũng đã từng lấy những lời ấy làm thành lời của chính mình (x. Mt 9,13), rồi các thánh ở mọi thời mọi nơi cũng hành động như thế. Hãy suy nghĩ lời thánh Gioan Kim Khẩu: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc khi thấy Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói ‘Đây là mình Thầy‘ cũng chính là Đấng đã nói “Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn“… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ! ” (203). Trong lời kêu gọi của Thượng Hội Đồng về sự phát triển con người và công bằng trong các tương quan giữa con người với nhau, chúng ta được nghe một tiếng nói vừa cũ vừa mới. Cũ bởi vì nó xuất phát từ sâu thẳm của truyền thống Kitô Giáo vốn lưu ý đến sự hài hòa sâu xa theo như ý Đấng Tạo Hóa muốn; còn mới vì đó là tiếng nói đề cập đến cái tình trạng hiện tại của vô số người dân tại Châu Á.”
Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Ki-tô hữu: Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Ki-tô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Ki-tô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
– vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
– ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Ki-tô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Ki-tô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Ki-tô giáo “thuốc phiện”, đầy tính ru ngủ… Ki-tô giáo đó khác hẳn với thứ Ki-tô giáo do Đức Giê-su thiết lập, một Ki-tô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giê-su coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13); “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật” (Mt 23,23b); “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện thân của Đức Giê-su. Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải “dám”, phải “vô úy”, “không sợ”, phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức “vô úy” rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát “một cách có lý” hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Ki-tô hữu cần năng tự vấn!
- Theo hiểu biết của người Do Thái thì người đồng loại có nghĩa là người cùng phe, người ở trong chứ không phải người ở ngoài, tức là người Do Thái với nhau. Người không phải là Do Thái không được kể là người đồng loại: họ được coi là người ngoại, không phải là người thân cận và không bắt buộc phải yêu thương. Còn đối với Chúa Giêsu, Ngài đã có một cái nhìn hoàn toàn mới về người đồng loại: Ngài qui tụ, tìm kiếm, chứ không loại trừ. Đối với Chúa Giêsu tất cả đều là anh em, đều là người đồng loại vì mọi người đều có một Cha chung ở trên trời. Chúa bỏ chín mươi chín con chiên để tìm một con chiên lạc… Chúa đã đảo ngược quan niệm của người Do Thái về người ở trong và người ở ngoài khi Chúa đưa ra dụ ngôn về người Samaria nhân hậu để trả lời cho người luật sĩ đặt câu hỏi với Ngài:”Ai là người đồng loại của tôi”. Quả là một đảo lộn hoàn toàn với cái nhìn của người Do Thái.
- Thiên Chúa là tình yêu, nên thánh Gioan nói: ai không yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa. Đạo CG là đạo yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Yêu là hạnh phúc: cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Chúa mời gọi chúng ta phải có tình yêu như Chúa, Yêu như Chúa:
– Yêu hết mọi người, người tốt/xấu, nghèo, bị bỏ rơi, yêu cả kẻ thù…
– Yêu là hy sinh như Chúa… không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người…. Hy sinh thời giờ, sức lực, tiền bạc, …. yêu là cho đi….
– Yêu là tha thứ.
– Yêu vô điều kiện, vô vị lợi, không tính toán.
– Yêu mãi mãi, yêu đến cùng (Người đã YT họ đến cùng, nên trong bữa ăn tối, người cầm lấy bánh….), không yêu nhất thời.
– Yêu vì Chúa- Nhìn ra được gương mặt của Chúa nơi những người nghèo,…
Hãy nên hoàn thiện như Cha an hem trên trời… Càng YT, càng nên giống Chúa, càng hoàn thiện như Chúa vì Chúa là tình yêu. Càng YT càng thánh thiện vì nên giống Chúa là Đấng thánh.
Chúng ta dễ ghen tị, kiêu căng, coi thường người khác, coi khinh những người nghèo, thất học, nói xấu, chỉ trích….
Trong Cưu Ước, Tôbia cha đã khuyên Tôbia con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều khác như: không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nữa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Ki-tô. Đức Giê-su dạy các tín hữu chúng ta thực hành theo hướng tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Tập sống vị tha bác ái, dấn thân hy sinh và quên mình phục vụ tha nhân là lối sống của Đức Giê-su, đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong Kinh Hòa Bình mà mỗi tín hữu chúng ta cần năng đọc hằng ngày và dùng làm nguyên tắc ứng xử với tha nhân.
Tình yêu tha nhân theo ý nghĩa xác thực của nó như Ðức Giêsu đòi hỏi, chỉ có thể, nếu nó được đặt nền tảng trên sự quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là vương quốc tình yêu. Không yêu thương nhau, không thể xây dựng Nước Thiên Chúa.
- Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết, chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” – 1Cr 13, 3). Ðức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Đức tin và đức mến là 2 nhân đức quấn quít lấy nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau như lời dạy của Thánh Phao-lô: “Trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.” (Gl 5, 6) Vâng, có Mến yêu thì mới Tin và có thực sự Tin thì mới Cậy nhờ giúp đỡ. Khi chúng ta yêu Chúa thật, tình yêu đó sẽ lan tỏa trong cuộc sống và chúng ta sẽ ban phát tình yêu đó cho tha nhân để cuối cùng nhìn ra nơi tha nhân chính là hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa.
Chúng ta dễ sống giả hình… sống vì luật chứ không phải vì tình yêu: đọc kinh, tham dự thánh lễ, giữ chay….Chăm chú thực hành các việc phụng tự mà quên đi bổn phận với người anh em là một thiếu sót, hay chỉ chú tâm đến những việc bác ái mà không có tình yêu của Thiên Chúa hướng dẫn thì cũng chỉ là hình thức khoe khoang, thương hại.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN A
Giả hình
Ml 1,14b–2,2b.8-10: Ngôn sứ Malakhi rao giảng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, khi ấy Ðền thờ đã được xây dựng lại xong. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái chỉ quan tâm tổ chức các lễ nghi bề ngoài, không quan tâm hướng dẫn tinh thần dân chúng. Từ đó phát sinh nhiều tệ nạn: các lễ vật dâng tiến cho Chúa là những con vật đui mù què quặt, thậm chí là những con vật ăn cắp; dung túng cho việc li dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi. Thiên Chúa bảo ngôn sứ Malakhi nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
1Tx 2,7b-9.13: Cung cách lãnh đạo của Thánh Phaolô:
“Chúng tôi đã trở thành những kẻ bé mọn giữa anh em”.
Ðối xử với tín hữu “như người vú nuôi nâng niu con cái mình”.
Sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu, ngay cả mạng sống mình.
Cố gắng tự lực cánh sinh để không trở thành gánh nặng cho giáo đoàn.
TIN MỪNG: Mt 23,1-12
- Tư tưởng xuyên suốt trong 3 bài đọc Chúa Nhật 31 Thường Niên năm A hôm nay là: Người có trách nhiệm lãnh đạo dân phải sống gương mẫu, đừng như thời tiên tri Malakhi (Ml.1,14-2,8-10), các người lãnh đạo tôn giáo đã chỉ quan tâm đến những lễ nghi bề ngoài nhằm tư lợi, mà không màng tới tinh thần của con dân, nên đã phát sinh nhiều tật xấu, đặc biệt là nền luân lý, vì thế tiên tri đã cảnh cáo họ. Những tệ nạn ấy kéo dài tới thời Chúa Giêsu, những luật sĩ, biệt phái chỉ hám danh, kiêu căng và áp đặt dân chúng (Mt 23,1-12). Còn Thánh Phaolô đã thực thi lời răn dạy, Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người, với tinh thần phục vụ người nghèo trong yêu thương. (1Tx 2, 7-9.13)
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời cảnh cáo gay gắt chống lại lối giữ đạo của các luật sĩ và biệt phái. Ðó là hai lớp người có tầm ảnh hưởng lớn đối với các tín hữu Do thái giáo thời Ðức Giêsu. Trong bài giảng đầu tiên về Nước Thiên Chúa, Ðức Giêsu đã tuyên bố rõ với đám đông rằng: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Bây giờ, về cuối sách Tin Mừng Mátthêu, Ðức Giêsu vạch rõ những điều xấu nào nơi họ cần phải loại bỏ.
- Kinh Sư, cũng được gọi là luật sĩ: ban đầu là nhân viên có trách nhiệm ghi chép những tài liệu tôn giáo nhằm việc sử dụng riêng tư hoặc nơi công cộng (2V 22,8; Gr 32,12). Sau thời lưu đầy Babilon cũng như trong thời Tân Ước, kinh sư là người chuyên môn nghiên cứu và dạy Kinh Thánh (Nk 8,1; x. Er 7,10).
Là những chuyên gia nghiên cứu Luật đạo, các Kinh Sư lo áp dụng Luật Môsê với những quyết định có tính pháp lý, nên họ cũng chịu trách nhiệm về những tập tục cha ông để lại. Về họ, Ðức Giêsu không ngại trưng lời ngôn sứ Isaia để nói: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 7,7).
Tuy vậy, Kinh Sư thể hiện chức năng quan trọng trong việc cẩn thận duy trì và truyền lại cho thế hệ kế tiếp bản văn Cựu Ước và áp dụng Kinh Thánh vào đời sống người tín hữu Do thái. Các Kinh Sư giảng dạy luật đạo và đào tạo những người thừa kế để nội dung của lời giảng dạy được truyền lại qua bài bản cho thế hệ kế tiếp.
Một bản ngụy tác của Sách Giảng Viên xuất hiện giữa thời Cựu Ước và Tân Ước, đã dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi người Kinh Sư lý tưởng khi nói: “Người Kinh Sư được đầy tinh thần hiểu biết theo ý muốn của Thiên Chúa cao cả, nên sẽ nói những lời khôn ngoan và tạ ơn Chúa trong cầu nguyện. Người sẽ dẫn đưa lời chỉ bảo và kiến thức của mình theo chính lộ, đồng thời suy niệm những điều bí nhiệm mình đang đeo đuổi. Người sẽ vạch cho thấy điều Người chỉ bảo qua giảng dạy, nên sẽ được vinh quang nhờ Luật của Thiên Chúa Giao Ước! Sẽ có nhiều kẻ ca ngợi sự hiểu biết của Người và lời ca ngợi ấy không bị xóa đi. Người sẽ được tưởng niệm mãi chứ không bị quên, và danh thơm Người sẽ còn mãi qua các thế hệ. Các dân nước sẽ công bố đức khôn ngoan của Người – và cộng đoàn sẽ cao rao lời ca tụng Người (Gv ngụy tác 39,6-11).
Những đám đông khi nghe Ðức Giêsu giảng bài Tin Mừng đầu tiên về Nước Thiên Chúa, họ nhận ra ngay “Người giảng như một Ðấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,29). Một Kinh Sư có thể là thành viên hay không là thành viên của phe phái Pharisêu.
- Hình ảnh người Pharisêu thời Ðức Giêsu: Pharisêu có nghĩa là những người tách biệt theo nghĩa chữ Hipri. Ðó là những người giáo dân Do thái giáo cam kết về hai điều này: một là tuân giữ cách khắt khe các qui định Do thái giáo liên quan tới những đòi hỏi về trong sạch theo phụng tự; hai là chu toàn cách tỉ mỉ những bổn phận trong đạo, như nộp thuế thập phân cho Ðền Thờ, thực hiện những cuộc thanh lọc đúng như đòi hỏi của nghi lễ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh người Pharisêu đối địch với Ðức Giêsu, nhưng cũng nên nhớ rằng một số người Pharisêu sau này gia nhập Kitô giáo, mà nổi bật hơn cả là Phaolô, vị tông đồ của dân ngoại. Vào thời Ðức Giêsu, con số người Pharisêu được ước tính khoảng 6,000, theo sử gia Giuse (Josephus) gốc Do thái. Con số ấy không đông nhưng ảnh hưởng của họ vẫn lớn như thấy nơi các hội đường Do thái giáo. Ở đây người ta đọc kinh nguyện và tổ chức phụng vụ theo nề nếp của người Pharisêu, mặc dầu quyền bá chủ trên các hội đường này thuộc phe Xađốc là phe quyền lực về chính trị.
Ảnh hưởng của người Pharisêu phát sinh do hai lý do. Một là giới bình dân rất kính trọng họ bởi lẽ họ cam kết giữ đạo cách nghiêm nhặt. Hai là có một số người Pharisêu tham dự thượng hội đồng tối cao Do thái giáo, như chính Ðức Giêsu nhìn nhận khi nói “Các kinh sư và người pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy” (Mt 23,12).
Về giáo lý, người Pharisêu tỏ ra chính thống khi họ tin có thế giới siêu nhiên trong đó có các thiên thần của Thiên Chúa, có sự sống bất tử với kẻ lành sống lại sẽ được Thiên Chúa ban thưởng. Họ tin vào lời chứng của Kinh Thánh cho biết Thiên Chúa sẽ phái một vị được xức dầu tấn phong (Mêxia) tới để hồi phục lại tự do cho con cái Ítraen.
Họ tin Kinh Thánh Cựu Ước là Lời của Thiên Chúa nói với loài người; nhưng đồng thời họ còn tin rằng nhà lãnh đạo Môsê đã truyền khẩu lại cho dân Thiên Chúa một bộ luật ngang hàng với Kinh Thánh và bộ luật ấy được lưu giữ nơi truyền thống Pharisêu. Ðó là lý do tại sao người Pharisêu đã đến chất vấn Ðức Giêsu khi nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15,2). Ðiều trái ngược là trong khi dân chúng hết mức kính trọng người Pharisêu về lối sống nghiêm nhặt, thì người Pharisêu lại ra mặt khinh rẻ dân chúng. Họ dám nói về đám dân tin theo Ðức Giêsu rằng “còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!” (Ga 7,49).
Tin Mừng Máccô cho thấy Ðức Giêsu vạch trần điều sai lầm cơ bản nơi người Pharisêu khi nói: “Các ông lấy truyền thống mà các ông đã truyền lại cho nhau để hủy bỏ Lời Thiên Chúa” (Mc 7,13). Ðức Giêsu đau đớn nói lên rằng: “Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luât là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các ngươi lọc con muỗi nhưng lại nuốt con lạc đà!” (Mt 23,23-24)
Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
- Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án của Chúa đối với thái độ vụ hình thức. Trước hết là việc giữ luật bên ngoài thật tỉ mỉ, mà không có lòng đạo đức thật, không thi hành công bằng và tình yêu thương. Luật sĩ và Pha-ri-sêu thay vì dùng kiến thức và địa vị của họ trong xã hội để phục vụ cộng đồng, họ lại thường ‘lên mặt ta đây’, thích phô trương, chú trọng những việc chi li hình thức mà “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa”, “thích ngồi ghế đầu trong Hội đường, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng”, “thích chất lên vai kẻ khác những gánh nặng nề nhưng chính mình thì không đụng ngón tay vào” (x. Lc 11,37-46). Sau khi ‘kể tội’, Chúa Giê-su ‘tổng kết’ bản cáo trạng Luật sĩ và Pha-ri-sêu bằng ‘tội danh’ “giấu chìa khoá” vì hai lý do: – lời giảng dạy của họ giết chết tinh thần YÊU THƯƠNG là cốt lõi của lề luật, biến luật trở thành gánh nặng; – lối sống giả hình của họ là cớ vấp phạm cho nhiều người.
Chúa Giêsu không kết án các Luật sĩ và Biệt phái vì sự tuân giữ luật Môsê một cách tỉ mỉ; nhưng Ngài kết án vì thái độ không trung thực: họ tuân giữ những điều hết sức nhỏ để tỏ ra mình sốt sắng đạo đức, nhưng họ lại lỗi phạm những điều lớn về đức công bằng và tình yêu thương, họ làm như thế chẳng khác nào lọc lừa con muỗi ra ngoài, nhưng lại nuốt con lạc đà nguy hiểm hơn.
Thái độ vụ hình thức thứ hai của các Luật sĩ và Biệt phái còn được thể hiện trong sự tuân giữ những nghi thức bên ngoài, mà không chăm lo tinh tuyền bên trong: họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, mà bên trong tâm hồn thì đầy cướp bóc, tham lam. Việc tuân giữ nghi thức thanh tẩy bên ngoài, việc đến nhà thờ đọc kinh ngoài môi miệng mà thôi chưa đủ, cần phải để cho ơn Chúa biến đổi tận bên trong tâm hồn ngõ hầu trở nên con người mới. Sự hoán cải nội tâm quan trọng hơn và phải đi trước những thực hành đạo đức bên ngoài để tránh thái độ giả hình, vụ hình thức đáng bị Chúa khiển trách. Điều này thánh Phao-lô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy tình thương, hay đem lại lợi ích cho rất nhiều người khác, nhưng vì không được thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta. Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những lợi ích trần thế, nghĩa là «đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,5b). Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, tự bản chất đều là những việc đạo đức, nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự hào và khinh khi người khác, thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế, muốn nên thánh, ta cần phải thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những điều thiện, những việc đạo đức.
- Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Trong bối cảnh cá nhân chủ nghĩa của thế giới hôm nay, “bản chất luật sĩ và Pha-ri-sêu” càng dễ có cơ hội bùng phát nơi các giáo xứ, cộng đoàn tu trì, nơi những người được coi là “công giáo” nhất. Liệu bạn có mắc tội “giấu chìa khoá”, trở thành vật ‘cản mũi kỳ đà’ chắn ngang cửa vào Nước Trời không?
Thành tích là điều tốt đẹp khi nó đánh giá đúng với khả năng thực sự. Nhưng nó biến thành ‘căn bệnh’ – quen gọi là bệnh thành tích – khi nó chỉ là một hình nộm trong ruột rỗng tuếch được phủ lên một lớp vỏ thành tích mà người ta kiếm được bằng những phương thế gian dối. Căn bệnh thành tích này đã có từ lâu nhưng nay đã lan tràn vào hết mọi lĩnh vực: nào là mua điểm, mua bằng, chạy trường, nào là gian lận, báo cáo thống kê bằng những ‘con số đẹp’… Kiểu đạo đức giả của luật sĩ và biệt phái cũng là một thứ bệnh thành tích mà Chúa Giê-su lên án một cách nặng nề. Trước mắt Thiên Chúa, “không có gì che giấu mà không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.” Sống với người thật, việc thật trước mặt Thiên Chúa cũng như anh em mới là giá trị thật.
- Anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Ðức Kitô: Ðạo của Chúa Giê-su là đạo yêu thương. Mọi người đều là anh em trong tinh thần bình đẳng. Cùng chung một Cha, cùng được yêu thương bằng một tình thương vô bờ bến thể hiện qua cái chết và sống lại của Chúa Giê-su. Người Môn Ðệ Chúa Giê-su do vậy không có chức vị nào khác ngoài chức vị làm con. Mọi phẩm trật trong Hội thánh đều là để phục vụ. Người làm đầu phải trở nên kẻ hầu hạ anh em, theo gương Chúa Giê-su đã rửa chân cho các môn đệ. Người phục vụ lẫn kẻ được phục vụ đều phải khiêm tốn như nhau. Lý do đơn giản là vì chính Chúa Giê-su đã thực hành trước, rồi mới dạy cho các Môn Ðệ sau. Cái chết treo trên cây thập giá là bằng chứng cho tinh thần yêu thương, phục vụ trong khiêm nhu và phó thác của Người. Ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống thí sẽ được nâng lên.
Ðức cố Giáo Hoàng Gio-an 23 kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gio-an, đừng tự xem mình là quan trọng!” Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Ðừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng!
Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy ai phá đổ tôn ti trật tự trong xã hội, để không còn biết ai là kẻ trên người dưới. Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Chính các Tông Đồ cũng gọi các tín hữu là con của mình (x. 1Cr 4,15.17; Gl 4,19; 2 Tm 1,2 ; 1Ga 2,1.12,14.18), có ý nói mọi Kitô hữu đã nhìn nhận các ngài là cha sinh ra họ làm con Thiên Chúa. Vì thế ông Phaolô nói với các tín hữu thuộc giáo đoàn Côrintho: “Bởi trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4,15). Chắc chắn Đức Giêsu không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu. Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên trời. Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu. Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28). Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
- Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người. Phải làm sao để người ta thấy chính Đức Kitô đang lãnh đạo gia đình, tập thể, cộng đoàn… chứ không phải ta lãnh đạo. Cần ý thức rằng bản thân ta và ý của ta không là gì cả, mà Đức Kitô và thánh ý của Ngài mới là quan trọng. Hãy coi chừng, nếu không có ý thức phản tỉnh cao, thì khi điều hành cộng đoàn, rất nhiều trường hợp ta đặt bản thân ta cao hơn cả Thiên Chúa, và coi ý riêng của ta quan trọng hơn thánh ý Ngài.
Riêng với người Kitô hữu, chìa khoá để hiểu bài Tin Mừng hôm nay chính là bản thân Ðức Giêsu. Từ máng cỏ, nơi Người sinh ra, cho tới cây thập tự, nơi Người chết đi, lời giảng dạy của Ðức Giêsu được tóm gọn bằng gương lành Người nêu cho các môn đệ: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi thì êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29). Ðức Giêsu mới là vị lãnh đạo và là Thầy vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống. “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Duy mình Chúa Cha tuyệt đối; không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa. (GLGHCG, sô 239).
Vậy mọi loại người trên trái đất, đặc biệt là người Công Giáo, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, được sinh ra bởi một Cha chung trên trời, và chỉ có một Thầy, một Vị Lãnh Đạo duy nhất là Đức Giêsu Kitô.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mô tả chân dung của giới chức sắc đạo Do Thái thời Ngài. Ngài nhấn mạnh đến khuynh hướng vị kỷ, ham danh, tự tôn tự đại, chuộng hình thức bề ngoài nhưng rỗng tuếch bề trong của họ. Để rồi Ngài yêu cầu các môn đệ, những người theo Ngài, phải có một thái độ ngược lại: tự xóa mình, quên mình, coi mình không là gì cả, để dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Như thế, bài Tin Mừng này mô tả hai phong cách: phong cách của những người lãnh đạo trong Do Thái giáo thời Ngài, và phong cách mà người lãnh đạo trong tôn giáo mới của Ngài phải có. Ngài mong những người lãnh đạo trong tôn giáo mới của Ngài đừng đi vào vết xe cũ đã đổ của những người đi trước. Sự khác biệt căn bản giữa hai phong cách ấy, một đằng là khuynh hướng vị kỷ của giới lãnh đạo cũ, và đằng kia là khuynh hướng vị tha mà giới lãnh đạo tôn giáo mới phải có.
Đức Giê-su muốn chúng ta, những kẻ theo Ngài, là những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức của ta phải được xây dựng trên nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng ta đừng ham được mọi người gọi mình là «ráp-bi», là «cha», là «thầy», là «người lãnh đạo»… nghĩa là đừng ham được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng khao khát quyền lực, địa vị… Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì đáng tự hào, đáng cậy công… Vì xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá trị do tự ta làm ra cả. Tất cả những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: «Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?» (1Cr 4,7). Thánh Phao-lô khuyên: «Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa» (1Cr 1,31; x. 2Cr 10,17).
Một người đạo đức thật sự sẽ không «làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy» (Mt 23,5), «cốt để người ta khen» (Mt 6,2) như những người Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo lời khuyên của Đức Giê-su: «Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm» (Mt 6,3); «khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo» (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta không làm vì ta, để vinh danh ta, mà làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn nếu làm vì ta, để được khen, được nể phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu, cũng trở nên vô giá trị trước Thiên Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng thế nào. Vậy chính tinh thần tự hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới làm cho hành động của ta có giá trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Lối sống của Pharisêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Lạy Chúa, giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy chúng con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy chúng con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy chúng con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy chúng con biết coi mọi người như anh em của mình.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN A
Năm cô dại và năm cô khôn
Kn 6, 12-16: “Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.” Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm.
1Tx 4, 13-18: “Nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu. Khi tiếng kèn của tổng lãnh thiên thần vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, chúng ta sẽ cùng với họ nghênh đón Chúa, và chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi.”
Mt 25, 1-13
Phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.
- Dụ ngôn mười trinh nữ thật dễ hiểu: đi đón chú rể, mười trinh nữ đều mang theo đèn (vì theo phong tục người Do-thái xưa, đám cưới được tổ chức vào ban tối). Có năm cô không chỉ mang theo đèn mà còn mang theo cả dầu dự trữ nữa, vì các cô này biết phòng xa cho trường hợp chú rể không đến đúng giờ hẹn. Còn năm cô khác chỉ mang theo đèn mà không mang theo dầu dự trữ. Sự việc xẩy ra đúng như năm trinh nữ khôn ngoan biết phòng xa. Họ được vào phòng tiệc cùng cô dâu chú rể. Còn năm cô không mang theo dầu dự trữ đã hụt mất cơ may, vì khi họ đi mua dầu ở quán hàng trở về, thì phòng tiệc đã đóng và chú rể không tiếp nhận họ. Năm cô trước được gọi là khôn; còn năm cô sau bị coi là dại.
Vậy theo Phúc Âm, người khôn là người không chỉ sống với hiện tại mà còn biết nghĩ tới tương lai, luôn tỉnh thức và biết dự phòng. Còn người dại là người chỉ biết nghĩ tới những điều xẩy ra trước mắt, không biết nhìn xa trông rộng, không biết dự phòng cho ngày mai. Giáo Huấn của Ðức Giê-su là chúng ta hãy trở thành người khôn: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Cái chết có thể đến rất bất ngờ, nhiều khi không một dấu hiệu báo trước. Hãy tự hỏi giả như giờ sau ta chết, thì số phận vĩnh cửu của ta sẽ ra sao? Ta đã chuẩn bị tình huống ấy chưa? Nếu vì quá lo toan những chuyện nhỏ nhặt, chóng qua của cuộc đời tạm gửi này nên ta chưa chuẩn bị khiến ta bị lỡ mất cơ hội lớn nhất, duy nhất, vô cùng quan trọng và cần thiết ấy, thì sao? Ta dại hay khôn?
Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Đức khôn ngoan được minh họa qua hình ảnh năm cô trinh nữ khôn ngoan. Điểm khác biệt giữa khôn ngoan và khờ dại trong dụ ngôn là khôn ngoan biết tỉnh thức, biết chuẩn bị, biết sẵn sàng, biết tiên liệu mang đèn còn “mang thêm dầu” để cho đèn luôn được cháy sáng, vì không biết giờ nào chàng rể đến giữa đêm khuya. Còn năm cô khờ dại thì vô ăn vô lo, chờ cho nước đến chân mới nhảy thì đã muộn!
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
- Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả. Ngày phán xét không ai có thể giúp đỡ ai. Mỗi người phải lo cho số phận của mình…. Bình dầu chúng ta cần mang theo là bình dầu thức tỉnh, chuẩn bị, là bình dầu tin yêu, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa, dầu yêu thương, một thứ dầu không thể cho ai vay mượn được, vì nó ở trong tâm của mỗi người. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta.
Nếu ngày hôm nay kể lại dụ ngôn ấy, có thể Chúa Giêsu kể rằng, các cô trinh nữ phù dâu chạy xe đến nhà cô dâu, mà có những cô cẩn thận, đều nhớ châm xăng đầy bình, và cũng có những cô đãng trí, vội vã quên cả đổ xăng. Đến khi nửa đêm, chợt chàng rể đến rước dâu, các cô còn xăng liền phóng xe đi theo, có các cô hết xăng, đành tủi phận ở lại.
- Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa. Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
- Nhìn vào cách sống của nhiều người chung quanh và của chính bản thân mình, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi thấy nhiều người (trong đó có chúng ta) sống như chỉ có ngày hôm nay, chỉ có cuộc đời trần thế và chỉ có đời sống vật chất này mà thôi! Người ta (trong đó có chúng ta) chạy theo và thu tích của cải, giầu sang, vui thú, danh vọng, quyền chức… mà coi thường và lãng quên những gía trị thiêng liêng và vĩnh hằng của một cuộc sống thanh đạm, siêu thoát, từ bỏ, bác ái. Nhiều người trong chúng ta thừa biết là vào giờ lâm chung chúng ta chẳng mang theo được của cải, vàng bạc, châu báu hay chức tước, địa vị, vinh hoa, phú quí trần gian. Chúng ta chỉ có thể mang theo những hành động hy sinh, hãm mình, từ bỏ nhằm phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân, nhất là những người nghèo khó, túng thiếu, bị thiệt thòi và bị loại trừ trong xã hội (x. Mt 25).
Thế mà chúng ta vẫn sống ngược lại với lời cảnh báo của Phúc Âm! Thế là sống khôn hay sống dại? Xin trả lời: Thế là sống khôn theo người đời và sống dại theo Phúc Âm! Sống khôn theo Phúc Âm thì khác xa với sống khôn theo người đời, thậm chí đối nghịch với sống khôn theo người đời. Sống khôn theo Phúc Âm là cho đi, là dâng hiến trong khi sống khôn theo người đời là bo bo giữ chặt cho mình. Sống khôn theo Phúc Âm là dành ưu tiên cho các gía trị không bao giờ hư mất: công lý, yêu thương, hiền hòa, khiêm nhường, trong sạch; còn sống khôn theo người đời là chạy theo và thèm khát các gía trị chóng qua: giầu sang, lạc thú, quyền lực.
Nói chung, trong bất cứ ngành nghề hay công việc nào, không biết lo xa, tính trước thì rất khó thành công. Người khôn ngoan không bao giờ bỏ lỡ những cơ hội tốt, nhất là những cơ hội lớn và hiếm có trong đời. Muốn thế, họ phải luôn luôn chuẩn bị để khi thời cơ đến là chụp bắt ngay. Những việc nhỏ đem lại lợi ích hữu hạn mà còn phải chuẩn bị, huống gì những việc lớn lao. Việc lớn lao nhất của hiện hữu con người là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, lẽ nào người khôn lại thờ ơ không chuẩn bị cho nó. Đợi đến lúc chết mới chuẩn bị thì làm sao mà kịp?!
Nhiều khi ta rất tinh khôn trong những chuyện chóng qua ở đời này, nhưng lại hành xử thật ngu muội trong chuyện đại sự nhất, chuyện lâu dài nhất của đời ta. Theo Thánh kinh, trước hết, người khôn là người không chỉ nghe mà còn sống lời Chúa, còn người dại là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành như lời của Đức Giêsu: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Đức Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21) Chúng ta chỉ có cái đèn, nghĩa là có tên gọi kitô hữu, còn thực tế trong cuộc sống, chúng ta chưa một lần cố gắng sống đúng với tên gọi kitô hữu. Chúng ta chưa một lần, cố gắng lắng nghe và sống đúng với lời Chúa dạy. Chúng ta dùng đủ mọi lý do để biện minh cho mình: Nào là cuộc sống của tôi còn quá khó khăn, nào là hoàn cảnh không cho phép, thậm chí có những người còn tuyên bố: “Tôi chưa có ý định nên thánh. Cuộc sống còn dài. Vội gì mà phải lo đến việc linh hồn”. Chúng ta nêu ra thật nhiều lý do, nhưng sâu xa nhất, có lẽ chỉ vì chúng ta lười biếng, chúng ta ngại cố gắng, chúng ta chưa ý thức đủ tầm quan trọng của việc nghe và sống lời Chúa. Chúng ta cần nhớ rằng: Mọi sự trì hoãn đều có thể đưa tới sự lỡ làng. Sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta còn có thể bắt đầu lại, còn có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong chuyến xe cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại nữa, và khi ấy hậu quả thật là bi thảm. Vì nếu chỉ có một tên gọi kitô hữu, nghĩa là một cái đèn không dầu, một cái xe không có nhiên liệu, chúng ta có thể nghe lời Chúa nói: “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”.
Sống khôn theo Phúc âm quả là khó, nhưng không phải là không thể. Muốn sống khôn theo Phúc âm, chúng ta cần tới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần là chính sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy Ðức Khôn Ngoan (là chính Thánh Thần) luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như thế nào. Chỉ cần chúng ta chạy tới Người, kêu cầu Người là chúng ta được Người trợ giúp. Chúa Thánh Thần còn là Ðấng ban bẩy ơn cho những ai kêu cầu Ngài. Trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần nhất là Ơn Thông Hiểu và Ơn Khôn Ngoan để chúng ta biết lượng giá các sự việc, biết chọn lựa và biết sống theo Phúc Âm! “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep, 15-16).
- ĐÈN ĐỨC TIN CẦN DẦU ĐỨC MẾN
Nếu đức tin được ví như đèn, thì đức mến được ví như dầu. Đèn đức tin phải có dầu đức mến. Thiếu dầu đức mến, ngọn đèn đức tin sẽ tắt, như lời của thánh Giacôbê đã quả quyết: “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ”. Việc làm ở đây là gì nếu không phải là hoa trái của đức mến.
Nếu một người chỉ mang danh Kitô-hữu, mà không sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì chẳng ích lợi gì cho họ. Họ chẳng được gì, họ cũng chẳng được vào dự tiệc cưới.
Người khôn ngoan là người kính sợ Thiên Chúa. Kính sợ Thiên Chúa làm cho người ta trở thành người khôn. Vì một khi kính sợ Thiên Chúa, người ta không làm gì trái giới răn của Ngài; hơn nữa, người ta còn làm theo điều Thiên Chúa muốn và dạy dỗ, đó là yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, Ngài là nguồn mọi khôn ngoan. Người sống theo lời Ngài dạy bảo là người khôn. Người sống theo lời dạy của Thiên Chúa, không chỉ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc qua việc hưởng thụ, nhưng còn tìm được niềm vui và hạnh phúc nơi chính niềm vui và hạnh phúc của người khác nữa. Những người này tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ con người; và với những người này không ai tước mất hạnh phúc của họ được. Đây là những người phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, vì họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và Ngài sẽ làm tất cả những gì tốt lành cho họ. Họ hạnh phúc khi phục vụ con người, và hạnh phúc trong niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì «người ta được trở nên công chính nhờ đức tin» (Rm 3, 22); «Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính» (4, 3). Chúng ta, những Ki-tô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Gia-cô-bê thì đó là «đức tin có việc làm» và «đức tin không việc làm». Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là «đức tin đắt giá» và «đức tin rẻ tiền».
«Đức tin đắt giá» là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là «đắt giá» là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn «đức tin rẻ tiền» là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: «Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,14.17). «Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng» (2,20).
Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: «tình yêu đắt giá» và «tình yêu rẻ tiền», nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Gia-cô-bê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: «Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?» (Gc 2,15-16).
Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a). Vậy cái «vé» cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là «đèn có dầu» để chúng ta – những «cô phù dâu» – thắp sáng lên khi đón «chàng rể» – là Đức Ki-tô – vào «tiệc cưới Nước Trời».
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN A
Dụ ngôn các nén bạc
Cn 31,10-13.19-20.30-31: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.” Phần kết thúc bài ca cho biết nguyên nhân của việc đảm đang này là nhờ có lòng kính sợ Chúa.
1Tx 5,1-6: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: «Bình an biết bao, yên ổn biết bao!», thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được. chúng ta đừng ngủ mê, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”. Tín hữu là con cái của ánh sáng, cho nên đừng mê ngủ, mà phải luôn tỉnh thức.
TIN MỪNG: Mt 25,14-30
- Sau khi Chúa Giêsu đã nói về sự tỉnh thức qua bốn dụ ngôn: đại hồng thủy (Mt 24, 37, 42 ), kẻ trộm đến ban đêm (Mt 24, 43-44), người đầy tớ trung tín (Mt 24, 45-51), mười người trinh nữ (Mt 25, 1-13), chúa nhật 33 thường niên năm A hôm nay, Chúa Giêsu đề cập tới trách nhiệm của các môn đệ: một trách nhiệm rất nặng nề và lớn lao…
Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài đã trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng. Điều cần thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta?
- «Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn» (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.
Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà sử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”. Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Ba người đầy tớ trong dụ ngôn này không hề so đo phân bì với nhau vì tại sao kẻ thì được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ. Tôi cũng đừng so đo với người khác về những khả năng Chúa ban cho tôi, kiêu căng đối với kẻ ít khả năng và đố kỵ đối với kẻ nhiều khả năng hơn mình. Tôi chỉ nên nghĩ tới Chúa thôi: Chúa mong chờ gì nơi tôi khi trao cho tôi những khả năng đó?
Thái độ đúng đắn của con người là đón nhận những ân huệ từ Thiên Chúa với lòng biết ơn chân thành, không so đo vì xem ra người khác được nhiều ơn lành hơn mình, không kiêu căng khi cảm thấy mình được hưởng nhiều phúc lộc hơn tha nhân. Lòng biết ơn chân thành hàm ý một quyết tâm gìn giữ và làm tăng triển ơn huệ mà chúng ta đã lãnh nhận từ chính Chúa.
Có nhiều lúc chúng ta thường nghĩ rằng Chúa chẳng ban gì cho ta cả. Nghĩ như thế thật là sai lầm. Bởi lẽ chính sự sống, chính sự hiện hữu của chúng ta đã là một hồng ân tuyệt hảo rồi. Hơn nữa, còn biết bao nhiêu điều chúng ta lãnh nhận hàng ngày trong đời sống mà chúng ta cứ tưởng đó là chuyện tự nhiên phải đến. Không có điều gì xảy đến trong cuộc đời chúng ta lại không nằm trong kế hoạch yêu thương quan phòng của Cha nhân từ. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là mỗi người đều có trách nhiệm đối với những ân huệ đã nhận được. Chúng ta phải sử dụng ân huệ ấy đúng ý Thiên Chúa, phải dùng những ân huệ ấy để sinh lợi ích cho Ngài, cho tha nhân bên cạnh chúng ta. Chúng ta ai nấy đều phải trả lẽ trước mặt Ngài về những ích lợi mình làm ra được từ những ân huệ ấy.
Như vậy, những ân huệ Ngài ban, ta có nhiệm vụ quản lý chúng hơn là làm chủ chúng. Nghĩa là ta không nên sử dụng chúng theo ý riêng ta, mà theo ý của Ngài. Do đó, đừng vội mừng vì được Ngài ban cho nhiều, và cũng đừng vội buồn vì được Ngài ban cho ít. Được ban nhiều thì đòi hỏi cũng nhiều, được ban ít thì đòi hỏi cũng ít. Thế mới công bằng! Dù nhiều hay ít, ai cũng phải sử dụng những ân huệ Ngài ban để tạo ích lợi cho Ngài, cho Giáo Hội Ngài, cho tha nhân.
Vì thế, người có nhiều khả năng, nhiều điều kiện để làm điều thiện, thì càng phải ý thức trách nhiệm của mình. Thông thường, càng nhiều khả năng, nhiều tài, nhiều của, càng có địa vị cao, chức vụ lớn, càng trí thức, càng giỏi giang, càng được suy tôn, thì ta càng cảm thấy sung sướng và hãnh diện trước mặt người đời, nhất là trước những người kém cỏi hơn mình. Nhưng khi đọc dụ ngôn này, ta càng cảm thấy run sợ trước trách nhiệm của ta. Trong quá khứ, có biết bao trường hợp ta phải ra tay, phải hành động, phải can thiệp, phải cứu giúp, phải lên tiếng bênh vực, phải nói lên sự thật, phải minh oan, phải khuyên can… mà ta đã không làm gì cả, đang khi ta có thể làm những điều ấy tốt hơn và hữu hiệu hơn ai hết. Tệ hơn nữa, ta không hề cảm thấy mình có lỗi gì cả, vẫn cứ tự hào mình vô tội, mình đạo đức, và chẳng thấy cần hối hận điều gì. Chỉ vì ta thấy mình không hề làm điều gì gian ác! Dụ ngôn này cho thấy quan niệm như thế là sai lầm!
Điều ngăn trở khiến ta không muốn là điều thiện, điều cần thiết hoặc ích lợi cho tha nhân, cho xã hội, đó chính là ta thiếu tình yêu. Tình yêu chính là yếu tố thiết yếu nhất của đạo đức, của sự thánh thiện. Chính tình yêu làm ta nên giống Thiên Chúa hơn bất kỳ điều gì khác, vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm cốt yếu của đạo đức hay thánh thiện là ở một điều gì khác: kẻ thì bảo hệ tại việc giữ luật lệ cho hoàn hảo, người cho rằng hệ tại việc cầu nguyện cho nhiều, kẻ khác cho rằng hệ tại việc thực hành chăm chỉ các nghi thức tôn giáo, kẻ khác nữa cho rằng hệ tại làm điều tốt này việc tốt kia… Thật ra, tất cả những chuyện ấy đều tốt, nhưng chúng chỉ là phương tiện để giúp ta hình thành hay củng cố tình yêu trong lòng ta. Nếu chúng không nhắm hay không đạt được mục đích ấy thì chúng đều trở thành vô ích. Thánh Phaolô xác định điều ấy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3)
- Điều chúng ta cần lưu tâm là người được một nén tuy không hề làm điều gì ác, không làm mất mát hay thiệt hại gì cho ông chủ, thế mà bị ông chủ phạt, bị «quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 25,30). Anh ta bị phạt vì đã được chủ giao cho một yến bạc, nhưng không làm lợi ra được thành một yến khác vì đã cất kỹ nó vào một chỗ. Suy nghĩ về dụ ngôn này này khiến chúng ta phải thay đổi ít nhiều quan niệm về đạo đức. Chúng ta thường tưởng rằng hễ mình không làm điều gì ác thì mình là người vô tội, công chính. Nhưng không phải thế. Theo tinh thần của dụ ngôn, một khi đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa mà ta lại không dùng ân huệ đó để tạo lợi ích cho Thiên Chúa và tha nhân, thì ta trở thành kẻ có tội, cho dù ta không hề làm một điều gì thất đức cả. Đó là ý nghĩa của cụm từ «những điều thiếu sót» trong kinh Cáo Mình: «Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót». Ít ai quan tâm tới tội phạm do thiếu sót. Nhưng rất có thể trong cuộc đời ta, những tội lớn nhất, nhiều nhất của ta và vì đó mà ta bị luận phạt nhiều nhất lại là thứ tội này. Dù là tội gì, thì căn bản của tội vẫn là do thiếu tình yêu.
Cũng vậy, trong bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng, những kẻ bị kết án không phải chỉ là những người đã từng làm điều ác, mà còn là biết bao người không hề làm một điều gì ác. Lý do khiến họ bị kết án chính là: «Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng» (Mt 25,42-43). Chữ «Ta» trong câu này chính là Đức Giêsu được hiện thân thành tha nhân của ta, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn. Như vậy, theo Đức Giêsu, người không làm điều gì ác chưa phải là người đạo đức, tốt lành, giống như biết bao Kitô hữu đang quan niệm. Thật vậy, nhiều Kitô hữu, kể cả trí thức, người dạy giáo lý, hễ cảm thấy mình không làm điều ác thì liền nghĩ mình vô tội, thậm chí còn tự hào mình đạo đức nữa.
Thiên Chúa đã ban cho ta mỗi người một số khả năng là để ta làm điều thiện, nhất là để làm theo những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Nếu khả năng Thiên Chúa ban cho ta mà ta không chịu dùng để làm những điều ích lợi, thì ta sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Do đó, nhiều khi ta tưởng mình vô tội, tưởng mình đạo đức khi thấy mình chưa hề nhúng tay làm điều gì ác. Nhưng rất có thể Thiên Chúa vẫn kết án ta là tội lỗi, chỉ vì ta đã không làm những gì mình phải làm. Tuy nhiên, hai người cùng ít làm điều thiện y như nhau, người nào có nhiều khả năng hơn thì tội người ấy lớn hơn.
Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Ðức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần.
- Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi: Ai tin vào Đức Giê-su và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phần rỗi tha nhân, thì sẽ được Người ban Thần Chân Lý để soi sáng giúp họ hiểu biết sự thật và mỗi ngày một nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Đức Giê-su, thể hiện qua việc không làm lợi nén bạc được giao, thì sẽ bị mất mọi ân huệ khác nữa, nhất là không được hạnh phúc đời đời trong Nước Trời. Họ sẽ bị Chúa lấy lại những hồng ân không được sử dụng kia, để trao vào tay những người biết làm phát sinh hoa lợi.
- Kết thúc năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn lại một năm qua với biết bao hồng ân- cách này hay cách khác, Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta cách nhưng không. Tạ ơn Chúa về muôn vàn hồng ân, nhưng đồng thời đây cũng là dịp giúp chúng ta phản tỉnh, nhìn lại cách chúng ta đã sử dụng những hồng ân Chúa ban như thế nào. Hãy nhớ chúng ta chỉ là những viên quản lý ân huệ của Thiên Chúa và điều Thiên Chúa cần nơi người quản lý không gì khác hơn là sự trung tín. Vì thế, nếu chúng ta không sử dụng ơn Chúa cách xứng đáng, chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về những gì mình đã phí phạm hay xem thường những tặng phẩm đến từ lòng nhân ái của Thiên Chúa.
Nói cách khác : vấn đề chính không phải đã lãnh nhận nhiều ít, nhưng là đã tận dụng được những ơn lành Chúa ban thế nào? Cũng giống như trong một cuốn phim, diễn viên tài năng không nhất thiết là người đóng vai ông vua, hay vai chính trong phim, nhưng là người có khả năng nhập vai đúng theo tính cách của nhân vật mà mình thể hiện hay không, dù đó chỉ là một vai phụ xuất hiện trên sàn diễn vài ba phút.
Đem chôn nén bạc được giao là thiếu trách nhiệm đối với bản thân đã đành, còn thiếu bổn phận trách nhiệm đối với tha nhân. Người phụ nữ được nói đến qua bài đọc I trong Chúa nhật 33, mùa thương niên, năm A, không phải là một người phụ nữ nổi tiếng, nhưng bà lại được xem như một gương mẫu. Tại sao? Vì bà là một ngươi phụ nữ chu toàn bổn phận, một người tận tụy, quan tâm, khôn ngoan và nhân đức. Bà có một thứ gì đó qúi hơn tài sản và sắc đẹp. Bà có một trái tim biết yêu thương. Bà đã đem những tài năng của mình ra để phục vụ gia đình, phục vụ hàng xóm và người nghèo khổ.
Người tôi tớ không độc lập với chủ của mình, nhưng ở trong tương quan phục vụ với chủ. Người tôi tớ không làm theo ý riêng, mà ý muốn của chủ. Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa vì do Người tạo dựng. Mỗi người tùy theo khả năng được ban cho mà phụng sự Thiên Chúa hết tâm hồn.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN A (x. CN 30 năm A; 31 năm B; CN 15 năm c)
CHÚA KITO VUA
- Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian, Ðức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Thiên Chúa của chúng ta là Tình yêu. Đạo chúng ta là đạo tình thương và ngày phán xét Chúa sẽ xét xử chúng ta về luật yêu thương.
Câu chuyện: một đạo sĩ hỏi các đệ tử rằng khi nào thì biết đêm đã tàn và ngày đã đến? Trả lời: khi nhìn và phân biệt được đâu là con chuột, con chó, con mèo,… Người khác trả lời: khi nhìn thấy dãy núi ở phía xa. Người khác: khi thấy mặt trời mọc ở phía đông… Vị đạo sĩ đều lắc đầu. Sau cùng vị đạo sĩ nói: khi chúng ta nhìn thấy gương mặt của mình trong gương mặt của người khác (khi chúng ta nhận ra gương mặt của mình nơi gương mặt của người khác). Nếu không nhận ra gương mặt mình nơi gương mặt người khác thì dù giữa ban ngày, chúng ta vẫn còn ở trong bóng tối. Vì khi chúng ta không nhận ra người khác là anh em, không coi người khác như chính mình, thì vẫn còn giận hờn, ghen ghét, thù hằn, giết chóc… Và như vậy, chúng ta vẫn sống trong bóng tối dù đang ở giữa ban ngày
Bài TM hôm nay nói về việc Chúa Phán xét: Vào ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ tập họp tất cả mọi người về một nơi, Ngài sẽ chia tất cả ra làm 2, một bên là chiên, một bên là dê…. Ngài không quan tâm đến việc có đạo hay không có đạo, vì nếu có đạo mạo không giữ giới răn mến Chúa, yêu người thì cũng như không. Thánh Giacobe cũng nói: đức tin không việc làm là đức tin chết. Thánh Gioan: Thiên Chúa là tình yêu, ai không yêu thương thì không thuộc về Thiên Chúa. Người không có đạo mà họ sống yêu thương thì họ thuộc về Thiên Chúa, họ là con Thiên Chúa.
Ngài đồng hóa chính mình với người khác, nhất là với người nghèo, người bị bỏ rơi,… cho người khác ăn, uống… là cho chính Chúa. Không cho người khác ăn, uống… là không cho Chúa.
Như vậy, đối với đạo chúng ta, câu hỏi đặt ra là: khi nào thì biết đêm đã tàn và ngày đã đến? Khi chúng ta nhận ra gương mặt của Chúa nơi gương mặt của người khác, nhất là nơi gương mặt những người nghèo, người bệnh, …. Cũng vậy, chúng ta vẫn còn ở trong bóng đêm khi chúng ta không nhận ra gương mặt của Chúa nơi gương mặt người khác người khác.
Cứ nghiêm túc xem xét cách Người phán xét vào ngày chung thẩm, ta ắt thấy trong số những người bị kết án, chắc chắn có những người thường xuyên đi lễ, trung thành giữ những nghi thức hay tập tục tôn giáo, thậm chí làm được rất nhiều việc tốt đẹp lớn lao. Nhưng những việc tốt đẹp ấy ích lợi gì cho họ khi Người chỉ xét có một điều: “Mỗi lần các ngươi làm / không làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm/không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40.45).
Chính Thánh Phao-lô cũng xác nhận rằng những việc làm tốt đẹp ấy chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa nếu không phát xuất từ tình yêu: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 3).
Ðiều ấy càng trở nên rõ ràng với câu nói của Ðức Giê-su: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao ?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” (Mt 7, 22 – 23). Họ bị kết án dù đã làm đủ mọi điều tốt đẹp, trừ một điều tốt đẹp nhất và nền tảng nhất, là tình thương, là cư xử với tha nhân bằng tình người đích thực. Thiên Chúa là Vua tình yêu, nên Ngài sẽ phán xét chúng ta về tình yêu.
- Yêu người là yêu Chúa: Giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi:“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – nối kết lại thành một giới răn quan trọng nhất. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Và để có thể yêu mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn”, cần phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình.
Mến Chúa sẽ gặp người và yêu người nhất định sẽ gặp Chúa. Chúa đồng hóa mình với người nghèo, người đói, người khát, người bị tù tội, người rách rưới. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội.
Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng.Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Ðức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí. tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân. không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Mến Chúa đòi phải yêu người. Yêu người là bằng chứng của lòng mến Chúa. Hãy yêu như Chúa dạy. Và hãy yêu như Chúa yêu. Yêu bằng tình yêu chân chính. Và làm những sự tốt lành thánh thiện do tình yêu chân chính mang lại.
Trong bài Tin Mừng, những kẻ bị kết án không phải chỉ là những người đã từng làm điều ác, mà còn là biết bao người không hề làm một điều gì ác. Lý do khiến họ bị kết án chính là: «Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng» (Mt 25,42-43). Chữ «Ta» trong câu này chính là Đức Giêsu được hiện thân thành tha nhân của ta, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn. Như vậy, theo Đức Giêsu, người không làm điều gì ác chưa phải là người đạo đức, tốt lành, giống như biết bao Kitô hữu đang quan niệm. Thật vậy, nhiều Kitô hữu, kể cả trí thức, người dạy giáo lý, hễ cảm thấy mình không làm điều ác thì liền nghĩ mình vô tội, thậm chí còn tự hào mình đạo đức nữa.
Kinh Cáo Mình: «Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót». Ít ai quan tâm tới tội phạm do thiếu sót. Nhưng rất có thể trong cuộc đời ta, những tội lớn nhất, nhiều nhất của ta và vì đó mà ta bị luận phạt nhiều nhất lại là thứ tội này. Dù là tội gì, thì căn bản của tội vẫn là do thiếu tình yêu. Thiên Chúa đã ban cho ta mỗi người một số khả năng là để ta làm điều thiện, nhất là để làm theo những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Nếu khả năng Thiên Chúa ban cho ta mà ta không chịu dùng để làm những điều ích lợi, thì ta sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Do đó, nhiều khi ta tưởng mình vô tội, tưởng mình đạo đức khi thấy mình chưa hề nhúng tay làm điều gì ác. Nhưng rất có thể Thiên Chúa vẫn kết án ta là tội lỗi, chỉ vì ta đã không làm những gì mình phải làm.
- Ðức Giêsu đã thực hiện một bước đi mang tính cách quyết định trong sứ mệnh rảo giảng của Người. Ðó là khi Người cho rằng người ta không còn được coi hai giới răn « mến Chúa » và « yêu người » như hai giới răn khác biệt nhau và độc lập với nhau nữa. Không ! Ðức Giêsu đã liên kết cả hai giới răn đó lại với nhau một cách hết sức chặt chẽ, đến nỗi thiếu một trong hai, người ta sẽ không còn hiểu được giới răn còn lại. Cả hai cùng bổ túc và hoàn bị lẫn nhau ! Vậy Ðức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Ðối với Ðức Giêsu, con người không hề bị tách rời ra khỏi Thiên Chúa là nguyên thủy của nó, con người mang trên mình hình ảnh của Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã nâng luật yêu người ngang bằng với luật mến Chúa. Yêu người là yêu Chúa. Mỗi Chúa nhật, chúng ta thường đọc: “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là bản tóm lược mười điều răn ghi khắc trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu người”.
“Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì kẻ ấy là người nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Ðúng vậy, tha nhân là người tôi thấy và lại mang trên mình hình ảnh của Thiên Chúa mà tôi không yêu thương, thì làm sao tôi có thể nói được là tôi yêu mến Thiên Chúa là Ðấng tôi không thấy? “Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Vì tha nhân cũng là anh em cùng một Cha trên trời, cùng được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa. Tác giả thư của Giacôbê qui trách nhiệm sự thiếu vắng tình yêu đối với tha nhân về một đức tin đã chết khi nói: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (2,15-17). Ðức Giêsu đã biểu lộ tình yêu đích thực đó một cách tuyệt hảo khi Người nối kết hai điều răn mến Chúa và yêu người trong cái chết cao quý hơn bất cứ lễ toàn thiêu và lễ vật hy sinh nào khác, khi Người hy sinh mạng sống mình vì yêu Cha và yêu cả nhân loại.
Ðức Kitô đã đặt nặng tình yêu tha nhân lên trên những hình thức tôn kính Thiên Chúa mang tính cách lễ nghi. Ðó là điều Người đã hơn một lần minh nhiên khẳng định: «Ta muốn lòng nhân ái hơn là của lễ» (Mt 9,12). Và trong Bài Giảng Trên Núi, Người còn nhấn mạnh: « Nếu khi ngươi mang lễ vật lên trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với ngươi, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của ngươi sau» (Mt 5,23-24). “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ“. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Ðó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2: “Để kết luận, nên nhớ rằng khi kêu gọi các Kitô hữu làm việc và xả thân phục vụ cho sự phát triển con người, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dựa trên một số quan điểm nền tảng trong truyền thống Kinh Thánh và truyền thống Giáo Hội. Người Israel xưa hết sức nhấn mạnh tới mối quan hệ không thể cắt đứt được giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người trong các xã hội thời đó dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa. Thỉnh thoảng trong các sách Ngôn Sứ chúng ta cũng nghe người ta kêu gào đòi hỏi sự công bằng, đòi hỏi việc tổ chức xã hội phải đúng đắn, bằng không sẽ không thể nào thờ phượng Chúa thật sự được (x. Is 1,10-17; Am 5,21-24). Như vậy, trong lời kêu gọi của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, chúng ta nghe thấy tiếng vang vọng của các ngôn sứ đầy tràn Thánh Thần Thiên Chúa, “Ngài là Đấng muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ” (Hs 6,6). Đức Giêsu cũng đã từng lấy những lời ấy làm thành lời của chính mình (x. Mt 9,13), rồi các thánh ở mọi thời mọi nơi cũng hành động như thế. Hãy suy nghĩ lời thánh Gioan Kim Khẩu: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc khi thấy Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói ‘Đây là mình Thầy‘ cũng chính là Đấng đã nói “Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn“… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ! ” (203). Trong lời kêu gọi của Thượng Hội Đồng về sự phát triển con người và công bằng trong các tương quan giữa con người với nhau, chúng ta được nghe một tiếng nói vừa cũ vừa mới. Cũ bởi vì nó xuất phát từ sâu thẳm của truyền thống Kitô Giáo vốn lưu ý đến sự hài hòa sâu xa theo như ý Đấng Tạo Hóa muốn; còn mới vì đó là tiếng nói đề cập đến cái tình trạng hiện tại của vô số người dân tại Châu Á.”
- Thiên Chúa là tình yêu, nên thánh Gioan nói: ai không yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa. Đạo CG là đạo yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Yêu là hạnh phúc: cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Chúa mời gọi chúng ta phải có tình yêu như Chúa, Yêu như Chúa:
– Yêu hết mọi người, người tốt/xấu, nghèo, bị bỏ rơi, yêu cả kẻ thù…
– Yêu là hy sinh như Chúa… không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người…. Hy sinh thời giờ, sức lực, tiền bạc, …. yêu là cho đi….
– Yêu là tha thứ.
– Yêu vô điều kiện, vô vị lợi, không tính toán.
– Yêu mãi mãi, yêu đến cùng (Người đã YT họ đến cùng, nên trong bữa ăn tối, người cầm lấy bánh….), không yêu nhất thời.
– Yêu vì Chúa- Nhìn ra được gương mặt của Chúa nơi những người nghèo,…
Hãy nên hoàn thiện như Cha an hem trên trời… Càng YT, càng nên giống Chúa, càng hoàn thiện như Chúa vì Chúa là tình yêu. Càng YT càng thánh thiện vì nên giống Chúa là Đấng thánh.
Chúng ta dễ ghen tị, kiêu căng, coi thường người khác, coi khinh những người nghèo, thất học, nói xấu, chỉ trích….
Trong Cưu Ước, Tôbia cha đã khuyên Tôbia con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều khác như: không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nữa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Ki-tô. Đức Giê-su dạy các tín hữu chúng ta thực hành theo hướng tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Tập sống vị tha bác ái, dấn thân hy sinh và quên mình phục vụ tha nhân là lối sống của Đức Giê-su, đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong Kinh Hòa Bình mà mỗi tín hữu chúng ta cần năng đọc hằng ngày và dùng làm nguyên tắc ứng xử với tha nhân.
Tình yêu tha nhân theo ý nghĩa xác thực của nó như Ðức Giêsu đòi hỏi, chỉ có thể, nếu nó được đặt nền tảng trên sự quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là vương quốc tình yêu. Không yêu thương nhau, không thể xây dựng Nước Thiên Chúa.