Giáo Hội Việt Nam Sinh Hoạt Hội dòng Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT MÙA VỌNG VÀ GIÁNG SINH NĂM ABC

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT MÙA VỌNG

VÀ GIÁNG SINH NĂM ABC

Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, csf

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

  1. MÙA VỌNG

Ý nghĩa mùa Vọng

Mùa Vọng đến trùng với các trang hoàng hàng quán bán qùa Giáng Sinh. Tại các nước Tây Âu tục hóa, Giáng Sinh đã trở thành ngày lễ để vui chơi và mua sắm mọi thứ, giống như trong các thành phố lớn của Trung Quốc. Còn các hình ảnh Chúa Giêsu giáng sinh thì người ta đã loại bỏ khỏi các thiệp chúc mừng Giáng Sinh từ lâu rồi. Theo một cuộc thăm dò ý kiến, 75% các công nhân viên Anh quốc đã bỏ trang hoàng văn phòng làm việc của mình, vì ”sợ xúc phạm tới các tôn giáo khác”. Nghĩa là tại nhiều nước Tây Âu người ta mừng Giáng Sinh không có Chúa Giêsu Cứu Thế nữa. Chính trong bầu khí tục hóa lan tràn mạnh mẽ như thế, mùa Vọng cũng có nguy cơ mất đi ý nghĩa sâu xa của nó.

Nếu chỉ hiểu ngày lễ Giáng Sinh như một kỷ niệm sinh nhật của một vị Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, thì 4 tuần lễ của Mùa Vọng sẽ chỉ là một chuỗi ngày quét dọn trang hoàng nhà cửa, may mặc quần áo mới và nhất là mua sắm … Và thực tế đã chứng minh: người người, nhà nhà (kể cả những nhà không cùng tôn giáo) đã chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh như vậy: Sắm những dây đèn màu chớp sáng ngoạn mục, những ngôi sao rực rỡ, những cây thông kiểu cách và nhất là những hang đá Bê-lem hoành tráng. Việc làm đó là tốt, vì tâm lý chung của con ngườ cái gì cũng thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền), và chính những cái được nhìn thấy ấy sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng.

Tâm lý chung của con người thì chỉ mong chờ, trông đợi những điều tốt lành, không ai mong đợi những điều xấu xa cả. Vì thế, lịch Phụng Vụ đã quy định 4 tuần trước lễ Giáng Sinh là Mùa Vọng (tượng trưng cho 4.000 năm Cựu Ước trông đợi ngày Chúa giáng trần).  Hình thức của mùa Vọng như hiện nay đã được thiết định từ thế kỷ XIII. Mầu tím của lễ phục, cũng giống như mùa Chay, có ý nghĩa chờ đợi và một phần nào đó cũng có ý nghĩa “sám hối”, lấy hứng từ mùa Chay.

Hiện nay, trong 4 tuần mùa Vọng gọi là “Adventus Domini”- Chúa đến, thì phần đầu có đặc tính “cánh chung”, hướng tới biến cố Chúa đến ngày sau hết, khi “thời gian thành toàn”, trong khi phụng vụ của tuần cuối cùng chú ý nhiều hơn tới sự kiện lịch sử và thần học của biến cố nhập thể. Ngoài ra, tuần thứ ba cũng khác, vì có lễ phục mầu hồng và được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên”.

Mùa Vọng không phải là thời gian chuẩn bị chờ đợi Chúa đến bởi Chúa Giêsu đã nhập thể từ hơn hai ngàn năm trước. Mỗi năm, Giáng Sinh nhắc nhở thực thể Thiên Chúa hiện thể làm người giữa lòng nhân loại, riêng nói về thân phận Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, theo Phúc Âm Gioan, “Người vẫn ở trong thế gian, và Thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết người” (Ga 1, 10).

Đáng tiếc thay! Chúng ta quá bận rộn chuẩn bị những việc bên ngoài. Ngay cả việc xưng tội cũng như tĩnh tâm chúng ta cũng làm dường như cho xong một bổn phận, còn chuyện đón Ngài vào lòng, gặp gỡ và sống với Ngài, chúng ta chẳng cần quan tâm. Chính vì thế thánh Gioan đã ngậm ngùi cảm thán: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 11)

Vọng là hướng về, là chờ, là mong. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Maranatha- Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa. Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng.

Mùa Vọng vừa là thời gian chuẩn bị tâm hồn mừng đại lề Giáng sinh, kính nhớ Con Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất ban ơn cứu độ cho lòai người, vừa là thời gian để các tín hữu chúng ta trông đợi Chúa Ki-tô sẽ đến lần thứ hai trong uy quyền vinh quang để phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Vì thế, Mùa Vọng được coi là Mùa sốt sắng và hân hoan trông đợi.

Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.

Các bài đọc đều công bố Ngài liên tục viếng thăm nhân loại. Chu kỳ 3 năm phụng vụ A, B, C có chung một dàn bài: Chúa Giêsu sẽ trở lại (CN I). Ngài đến hôm nay, Ngài đang hiện diện (CN II, III). Ngài đã đến rồi (CN IV). Chúa đã đến, Ngài đang hiện diện, Ngài sẽ đến trong vinh quang. Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật. Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.

Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng đến ngày 16.12, Phụng Vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến Sinh Nhật của Ðức Giê-su.

Các Bài đọc 1 trích trong sách I-sai-a, đó là những lời tiên tri về Ðấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bê-lem một Hài Nhi thuộc chi tộc Ða-vít và sẽ được gọi là Em-ma-nu-en.

Các bài đọc 2- Chúa Nhật I-III Mùa Vọng, là các bài Thánh Thư của các Thánh Phao-lô, Gia-cô-bê, Phê-rô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Ki-tô trở lại lần thứ hai.

Bài Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Ki-tô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gio-an tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa Nhật Truyền Tin cho Ðức Mẹ và Thánh Giu-se.

Trong Mùa Vọng, Hội Thánh giới thiệu cho ta 4 khuôn mặt gương mẫu đón đợi Đấng Cứu Thế: Tiên tri Isaia (CN I), Thánh Gioan Tiền hô (CN II và III), thánh Giuse và Đức Mẹ Maria (CN IV). Cách riêng, Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo nhất, Người là Mẹ của Mùa Vọng, chính nhờ lời “Xin Vâng” của Mẹ với Thần sứ Gabriel mà Ngôi Lời Thiên Chúa mới nhập thể để cứu nhân độ thế.

“Chúa đến” thường được hiểu bằng cách: Chúa đến trong lịch sử nhân loại; Chúa đến trong ngày phán xét chung; Chúa đến trong giờ chết của mỗi người; Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể; Chúa đến qua các biến cố, qua những người nghèo,…

Thật vậy, trong mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh, Thánh Thể và các bí tích, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.

Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm A, chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca.

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG

 

  1. Các bài Tin mừng các năm ABC đều nói về việc Chúa đến lần thứ II

Các Bài đọc Cựu Ước (năm ABC) nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Ðấng Messia đến). Các bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Ðức Giêsu trở lại). Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu công bố bài diễn từ về ngày Quang Lâm vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21, 6).

Bản văn khai mở với lời mô tả “kinh thiên động địa” của Đức Giêsu về Ngày tận cùng. Toàn là những cảnh tượng hùng vĩ và đáng sợ trên trời dưới đất, khiến con người cũng “hồn xiêu phách lạc”. Các hình ảnh đó, như ta biết, đều thuộc lối văn khải huyền từng có trong Cựu Ước (x. Is 13, 10; 34, 4; Am 8, 9). Chúng thường được dùng để diễn tả “Ngày Giavê”, lúc Thiên Chúa ngự đến xét xử mọi dân tộc.

Chớ nên hiểu những hình ảnh này theo mặt chữ, mà hình dung ra một cuộc tiêu diệt toàn thể vũ trụ hiện tại do bàn tay Thiên Chúa để tạo dựng một thế giới mới lại từ đầu. Thiên Chúa chẳng phải là “Con Tạo” (Hóa Nhi = Tạo Hóa như trẻ con), ưa gì làm nấy, ý thích thất thường. Người không giống như một thằng bé đổ bao công sức xây dựng một tòa lâu đài trên bãi cát, để rồi sau đó đưa chân đạp đổ. Đã dựng nên mọi sự (mà ta thấy rất kỳ diệu tốt đẹp), Thiên Chúa chỉ có việc hoàn thành chúng, sau khi đã sửa chữa, điều chỉnh mọi phá hoại do tội lỗi loài người gây ra (“Thiên Chúa viết thẳng trên các đường cong của chúng ta”, Pascal). Cho rằng Người sẽ tiêu diệt tác phẩm của Người chẳng phải là bảo Người đã sai lầm trong kế hoạch sao?

Chính vì thế, thần học không gọi luận đề bàn đến Ngày cùng tận là “Thế mạt luận”, song là “Cánh chung luận” (sự hoàn tất cuối cùng). Trong quan niệm Do thái thời Đức Giêsu, những lối nói ta vừa thấy thuộc các tập văn chương cổ truyền được dùng để diễn tả tầm mức vũ trụ và tính quyết liệt của việc Thiên Chúa can thiệp lần sau hết và cách tích cực vào lịch sử loài người. Những “xáo trộn” trong vũ trụ và trong lòng người đó chỉ muốn diễn tả ý tưởng, theo kiểu nói của thánh Phaolô, là “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 22), sinh nở một thế giới mới. Thế giới mới đó là chính thế giới đã cũ vì tội lỗi này nhưng được đổi mới nhờ ân sủng, nhờ tác động của Thần Khí bên trong các tâm hồn, và ngày “Con Người đến với quyền năng và vinh quang” là lúc đánh dấu sự hoàn thành chung quyết, trọn vẹn. Bởi thế Đức Giêsu mới bảo các môn đệ: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.

Ngôn ngữ được Chúa Giêsu dùng ở đây là ngôn ngữ Khải huyền, một lối diễn tả đặc biệt thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Việt dịch ra là Khải huyền, có nghĩa là mạc khải, mạc khải điều huyền nhiệm. Mọi chi tiết, mọi sự cố diễn ra và được mô tả trong ngôn ngữ Khải huyền đều không nên được chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một biểu tượng, một hình bóng cho một ý tưởng nào đó. Những biến cố, những tai ương được dùng trong ngôn ngữ Khải huyền muốn nói lên cho chúng ta biết vũ trụ, thế giới chúng ta đang sống không tồn tại đời đời mãi mãi, nhưng sẽ đi đến một lúc kết thúc và cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại cũng sẽ đến lúc kết thúc, và giây phút kết thúc cuối cùng đó, là giây phút Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi cho con người, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của ngôn ngữ Khải huyền không phải là để làm cho người ta lo sợ, lo sợ tận thế, lo sợ cái chết, nhưng như là một lời kêu gọi, một lời thức tỉnh, thôi thúc người ta hãy sống tỉnh thức một cách tích cực để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Ðó là những lời của niềm hy vọng. Hy vọng một cuộc biến đổi hoàn toàn và đầy vinh quang của con người cũng như của thế giới. Một niềm hy vọng về trời mới và đất mới, nơi công bằng và hòa bình của Thiên Chúa ngự trị. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giây phút Chúa ngự đến trong vinh quang, mỗi người đồ đệ Chúa cần sống giây phút hiện tại một cách can đảm, kiên trì giữa những thử thách xảy đến, và nhất là cần sống gắn bó mạnh mẽ, kết hiệp mật thiết với Chúa để vượt thắng được những cám dỗ chối bỏ Chúa mà chạy theo những vị tiên tri giả, những chúa kitô giả, những kẻ tự phụ muốn thay thế chỗ của Chúa nơi tâm hồn con người, những kẻ mạo danh Chúa để lường gạt và hưởng lợi. Mỗi người chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để có thể khám phá ra Chúa đang ngự đến hàng ngày trong mọi biến cố lớn nhỏ, để cứu rỗi chúng ta vì Ngài yêu thương chúng ta.

  1. Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Ðấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1). Lòng khát khao, nỗi mong chờ ấy làm thành một mùa vọng kéo dài trong thời gian. Không ai dám biết thế nào là đủ, tới bao giờ mới đủ. Nhưng có thể biết là sẽ đến ngày “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực”. Và  ngày ấy: “Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: “ĐỨC CHÚA là-sự-công-chính-của-chúng-ta! (Gr 33,15-16).

Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin, hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường. Niềm hy vọng cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu tìm hạnh phúc hiện tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia đình, làng xóm, xã hội sống công bình, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi.

  1. Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy: các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa… (x. Mt 24, 4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật… “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển” (Lc 21, 25-27). Với hiện tượng thiên nhiên thì thế, còn với con người thì “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ… ” ; “… Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường… ” (2Tm 3, 1-4; 4, 3-4). Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt.

Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ “đứng thẳng” của các tín hữu. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc… thì anh em hãy ngẩng đầu lên”, vì anh em sắp được cứu chuộc.

Con Người là tước hiệu của Chúa Ki-tô đến để phán xét muôn loài trong ngày cánh chung.  Khung cảnh Người đến được mô tả như một biến cố mang chiều kích vũ trụ.  Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để “tạo dựng” một thế giới mới. Các vì sao sẽ “từ trời rơi xuống”, “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa”, là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Qua mạch văn khải huyền, trời đất và biển khơi đều biểu lộ những dấu chỉ của quyền năng Thiên Chúa.  Giống như quang cảnh dân Do-thái xưa được chứng kiến Thiên Chúa ngự đến trên núi Xi-nai trong sấm sét và lửa khói, con người thời cánh chung cũng được thấy những dấu chỉ loan báo Con Người, Đức Chúa của Tân Ước, ngự đến.  Đó là những biến động của toàn thể vũ trụ và trái đất, chứ không chỉ giới hạn trong vùng núi Xi-nai như ngày xưa. 

Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển…) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến. Nếu chúng ta dựa vào tiền bạc, dựa vào những của cải ở trần gian này thì ngày Chúa đến chúng ta sẽ lo sợ, nhưng nếu chúng ta dựa vào Chúa: hãy ngẩng đầu lên, vì ơn cứu độ đã đến gần.

 Trước những biến động ấy, “người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu”. Chỉ có Chúa Ki-tô mới là Đấng cho ta biết chính giữa những biến động ấy, Người sẽ đến với ta.  Đấng khiến cho sóng gió im lặng sẽ nói với ta:  “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6, 50).  Người chỉ cho ta một tư thế thích hợp để đối phó với hãi sợ và nao núng:  “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.  Chúa Ki-tô bảo đảm ta sắp được giải thoát khỏi bất cứ những gì làm cho ta sợ hãi hoang mang. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36).

  1. Giờ Chúa đến như kẻ trộm, bất thình lình tựa cơn đại hồng thủy chụp xuống trên chúng ta: một tai nạn xe hơi, một cơn gió thoảng qua, một viên đạn nơi chiến trường, một cơn đau tim, một cuộc giải phẫu, bị đặt chất nổ, bị điện giật, hoặc mắc bệnh ung thư… Cái chết đến với mỗi người chúng ta dưới muôn hình vạn trạng. Ở bất cứ chức vụ quan trọng nào, ở bất cứ nơi nào. Mỗi người sẽ phải chết một lần, không ai chết thay cho chúng ta được. Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn ! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.

Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: “Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày.” (1 Tx 5, 2-5).

Chúa báo trước là Chúa sẽ đến mà chúng ta không chuẩn bị đón tiếp thì đúng là bất ngờ cho chúng ta. Còn nếu chúng ta luôn chuẩn bị đón Chúa, luôn nóng lòng được gặp Chúa thì thật hạnh phúc cho chúng ta.

Vì sao có nạn Hồng thủy? Ấy cũng bởi vì “ĐỨC CHÚA thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. ĐỨC CHÚA hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. ĐỨC CHÚA phán: “Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng.” (St 6, 5-7). Tất cả “mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất.” (St 6, 12), duy chỉ có ông Nô-ê là được đẹp lòng ĐỨC CHÚA, nên Người truyền cho ông đóng một con tàu, rồi đem toàn bộ gia đình ông cùng với mọi sinh vật, mọi xác phàm, mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với ông (St 6, 13-22). Sự kiện này đã như một tín hiệu báo cho người đương thời biết nạn lụt hồng thủy sắp xảy ra, vậy mà “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, làm như sẽ không có gì xảy ra cả! Lụt hồng thủy đã xóa sạch những con người vô tâm vô tín đó.

Thái độ “không hay biết gì” ở đây không hẳn chỉ mang nghĩa là “không có khả năng nhận ra”, mà đúng hơn là “không muốn biết”. Như vậy là đã rõ, sở dĩ Đức Ki-tô nói tới ngày Con Người quang lâm sẽ diễn ra quang cảnh như ngày lụt hồng thủy, vì Người đã quá rõ loài người chỉ thích tin vào và “làm tôi tiền của vật chất”, hơn là tin vào và “làm tôi Thiên Chúa”. Cũng đã hơn một lần Người dạy: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8).

Kinh nghiệm khi Đức Giêsu đến lần thứ nhất cho thấy: mặc dù đã được các ngôn sứ tiên báo từ mấy trăm năm trước, nhưng khi Ngài đến thì chẳng mấy ai biết, vì họ không ngờ được Ngài lại đến theo cách ấy, hoàn toàn ngoài dự kiến của họ. Thực thế, đã có biết bao dấu chỉ tiên báo (từ Cựu Ước) là Con Thiên Chúa sẽ “mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”, và Người đã đến, đã sống như “Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58) để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Một sự kiện đã xảy ra hiện thực nhãn tiền, vậy mà thiên hạ vẫn làm như không hay biết gì, thậm chí còn chống đối lại. Như thế thì ngày Chúa đến lần thứ hai, chắc chắn thiên hạ vẫn nhởn nhơ “bình chân như vại” sống trong tội lỗi ngập đầu, chẳng cần biết sự gì sẽ xảy ra!

“Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5, 2; 2Pr 3, 10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v.v… Chúa ví ta như chủ nhà nọ, nếu biết vào canh nào trộm sẽ đến, chắc chắn sẽ canh thức không để nó đào ngạch khoét vách! Chúa đã đụng tới bản năng tự vệ của các thính giả để giúp họ hiểu được sự tỉnh thức tối quan trọng như thế nào đối với sự an toàn của mình. Với của cải vật chất mà đã cần phải tỉnh thức như vậy, phương chi là với chính tính mạng của ta, thì lại càng cần phải tỉnh thức hơn gấp bội! Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại. Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ ?

Ðối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả ! Thật đúng như Thánh Phao-lô nói: Khi người ta nói: “Bình an biết bao, yên ổn biết bao !” thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” ( 1Tx 5, 3 ). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm ! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào ?

Ðược tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Ðức Giêsu kết luận: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 42.44). Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ “được tiếp nhận”, kẻ nào mãi thờ ơ thì như “đàn gãy tai trâu” và sẽ “bị bỏ lại”.

Thánh Phaolô (Rm 13,11-14) nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: “Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến… Ðêm sắp tàn, ngày gần đến”. Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng: Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là “từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu“. Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện. Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống: Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Ðức Giêsu Kitô. Thức dậy bằng cách bỏ việc làm xấu xa, mờ ám, bám lấy Lời Chúa là khí giới của sự sáng để chiến đấu. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Như người đầy tớ đợi chủ về: luôn sẵn sàng để đón chủ về. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng

Nói một cách khách quan hơn, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta bắt đầu cuộc sống mà chúng ta phải sống. Ngài kêu gọi chúng ta đừng trì hoãn và hãy bắt đầu sống như là tối hôm nay Ngài sẽ đến gặp chúng ta. Ngài nhắc chúng ta hãy đề phòng cuộc sống có thể đưa đẩy làm cho chúng ta không làm những gì mình phải làm.

Chúng ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ cố gắng để làm một người chồng tốt.

Trong hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.

Vợ của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị: “Em ơi, chuyện gì vậy?”

Nước mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: “Có phải anh biết điều gì đó mà em không biết?”

“Em nói như vậy có nghĩa gì?” anh hỏi lại.

“Thì,” chị trả lời, “tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã đối xử rất tử tế với em?”

Tom đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: “Em ơi, em không chết đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống.”

Câu truyện đó diễn tả một cách sống động sứ điệp mà Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay. Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu sống. Ngài khuyến khích chúng ta đừng bỏ qua những điều mình phải làm. Ngài khuyến khích chúng ta hãy đề phòng đừng để cho cuộc sống này qua đi một cách vô ích.

Nói một cách trực tiếp hơn nữa là Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu Mùa Vọng này giống như là Tom đã bắt đầu hai tuần nghỉ của anh.

Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng này để bắt đầu sống cuộc sống mới. Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này để yêu thương tha nhân như là chúng ta phải yêu.

Nói một cách tóm tắt, bài Phúc Âm hôm nay là một sự nhắc nhở của Chúa Giêsu rằng cuộc sống của chúng ta đang từ từ trôi qua mà chúng ta đã không làm điều mà chúng ta phải làm.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Mẹ Têrêsa: “Mỗi người có một sứ mệnh để thi hành, sứ mệnh đó là yêu thương. Khi giờ chết đến, chúng ta sẽ đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bị phán xét về lòng yêu thương; không phải chúng ta đã làm bao nhiêu, nhưng chúng ta đã biết bỏ bao nhiêu tình yêu vào những công việc của mình.”

Biết một sự kiện chắc chắn sẽ xảy đến, nhưng lại không biết nó sẽ xảy ra vào lúc nào, điều này đưa người tín hữu tới một cái biết khác, là biết phải chuẩn bị sẵn sàng như thế nào. Và đó cũng chính là điểm Đức Ki-tô cảnh báo: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24, 44).

Đợi trông ở đây gắn liền với hành động, một thứ hành động trong tỉnh thức. Tỉnh thức để biết được đâu là điểm chính yếu, đâu là phụ thuộc, đâu là cái vĩnh hằng, đâu là cái nhất thời. Tỉnh thức cũng là tinh thần của người khôn ngoan biết chọn lựa cái tốt và loại trừ cái xấu. Chờ đợi theo tinh thần của những người tin là hướng về phía “Ánh Sáng” mà tiến bước trong hân hoan.

Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”. Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn.

Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giê-su đề nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài.

  1. Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ “được đem đi” (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ “bị bỏ lại”, nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý: một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là “bị đem đi” và “được để lại”). Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Người sẵn sàng chờ đợi Chúa đến sẽ được Ngài đem đi (hưởng nơi hạnh phúc). Hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, và hai người đàn bà đang xay bột. Dưới cặp mắt thông thường thì 2 người đàn ông có vẻ giống nhau, làm cùng công việc như nhau. Hai người đàn bà cũng giống nhau. Nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, họ đều khác nhau. Một trong hai người đàn ông và một trong hai người đàn bà, biết lắng nghe lời cảnh giác của Chúa, và họ được tiếp nhận vào Nước Trời, còn hai người kia bị bỏ rơi. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài “cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1, 17; Kh 20, 12-13), “sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16, 27; x. Rm 2, 6).

Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, được “đem đi” trên chiếc thuyền theo dòng nước ngày một dâng cao, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Dân chúng mải mê ăn chơi, phung phí, thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại miệt mài đóng tầu chuẩn bị cho gia đình mình giờ khắc Giavê Thiên Chúa đến.

Dân chúng thấy đó, đi qua đó, ngó, ngắm, nhìn nhưng mắt họ và tâm hồn họ lại chẳng nhậy cảm với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Sự hời hợt, chểnh mảng của dân chúng đã khiến họ chết vùi và chết hết trong trận lụt đại hồng thủy lúc đó. Giờ khắc đó, nhân loại bị nhấn chìm, còn gia đình Nôe được “đem đi” trên chiếc thuyền theo dòng nước ngày một dâng cao. Ông Nôe và gia đình được Thiên Chúa cứu thoát vì đã biết sẵn sàng chờ đón.

  1. Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào (Mc 13,33). Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”. Chính đời sống cầu nguyện giúp chúng ta dễ dàng nhận ra được những gì Chúa muốn, những gì Chúa cần. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.

“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi, lạc thú, của những đam mê thấp hèn. Cầu nguyện để luôn gắn bó và tin tưởng và Chúa. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn. Có như vậy, chúng ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.

Như vậy, tinh thần của Mùa Vọng không phải là đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng. Cũng không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ với thái độ tỉnh thức. Và, không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.   Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu của mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón đợi ngày Chúa đến. Ngài đã không khuyên cách chung chung, mà là cụ thể: “Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị”.  Bởi vì “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến” (x. Rm 13, 11-14).

   

  1. Đợi lâu quá không thấy Chúa đến, nhiều người nản lòng, nên thánh Phê-rô đã trấn an họ: đối với Chúa không có không gian và thời gian, tất cả đều ở trước mặt Chúa nên ngàn năm cũng tựa một ngày. Ngài chậm trễ vì Ngài kiên nhẫn đợi chờ. Ngài không muốn cho ai phải diệt vong. Nếu Ngài đến ngay lúc này, nhiều người sẽ không được cứu độ (x. 2Pr 3, 8-10). Như có người kia hỏi Chúa: “Một triệu đồng với Chúa đáng giá bao nhiêu?” “Chỉ một xu thôi!” Chúa đáp. “Thế một triệu năm thì sao?” “Một giây!” “Thế Chúa hãy cho con một xu,” người kia khẩn khoản. “Hãy đợi Ta một giây,” Chúa mỉm cười… Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
  1. Bất ngờ sẽ trở thành niềm vui cứu độ:

Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định. “Lúc con Người đến “, là chính giờ chết của mỗi người, là ngày tận thế. Giờ ấy phải đến, chắc chắn đến vì Chúa quả quyết, nhưng giờ ấy không ai biết trước, giờ ấy đến bất ngờ. Đời là tạm bợ nhưng lại mang đầy tính bất ngờ: không ai biết được khi nào mình chết, không ai biết được khi nào mình sẽ bị đau vv…

Tại sao Chúa lại đến đột ngột như kẻ trộm? Đột ngột nói lên sự thiếu chuẩn bị để ứng phó với những gì đang đến. Chúa không đến đột ngột. Chúa đang đến, ai cũng biết, không còn gì là đột ngột. Nhưng vì không chuẩn bị, nên việc Chúa đến thành “đột ngột”, thành khó xử cho chúng ta. Cụ thể, ai cũng biết mình sẽ chết, nhưng vì không chuẩn bị, nên cái chết đến lúc ta không ngờ, cái chết thành đột ngột. Lời khuyên “hãy sẵn sàng luôn!” hàm ý chuẩn bị chu đáo cho những gì đang đến, cụ thể là cái chết, là thời điểm chúng ta gặp Chúa.

Mùa vọng là thời gian chờ đợi trong tin yêu như con cái chờ đợi người cha thân yêu trở về, chứ không chờ đợi trong sự lo lắng buồn sầu. Người tín hữu chúng ta cần tránh tâm trạng buồn chán lười biếng, nhưng cần hăng say làm việc nhiều hơn và không ngừng cầu xin Chúa ban ơn giúp sức. Hãy làm tất cả những gì có thể làm ngay hôm nay, bắt đầu ngay từ bây giờ và ở đây

Nếu chúng ta biết “tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21,36), sẵn sàng ra đón khi Chúa đến thì việc Chúa đến bất ngờ sẽ lại trở thành niềm vui cho chúng ta. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trong cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), sẽ không “sợ đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu chuộc của Chúa. 

Chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, trong hạnh phúc thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là việc bất ngờ đáng ngại, đáng lo nữa, nhưng lại là niềm vui bất ngờ. Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn.

Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Ðó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào!

Như thế, mùa vọng là một mùa vui, một mùa yêu, khi niềm hy vọng nỗi mong đợi người mình yêu đã có tín hiệu đến hẹn. Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên. Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã đến gần” (4, 4-5). “Chúa đến gần”. Đó là lý do để thánh Phaolô mời gọi, đồng thời nhắc đi nhắc lại lời mời gọi “hãy vui luôn”. Không chỉ vui mà còn “vui luôn trong Chúa”. Vui trong Chúa mới thực sự là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đỗ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.

Vui trong Chúa là niềm vui tiêu biểu và đặc trưng của người Kitô hữu. Một niềm vui có nền tảng vững chắc là chính Chúa, là cậy dựa vào Chúa, là tín thác cho Chúa. Vì thế, đối với người Kitô hữu, vui trong Chúa là không hoàn toàn lệ thuộc hoàn cảnh bên ngoài. Những vui buồn của đời sống sẽ không làm người Kitô hữu lạc quan hay bi quan quá đỗi. Vui trong Chúa, sẽ làm cho người Kitô hữu, dù đối diện với vô vàn khó khăn, vô vàn nghịch cảnh, dù mọi nhọc nhằn có oằn nặng đôi vai, dù bị không biết bao nhiêu tai họa vùi dập, đổ xuống, vây bủa…, vẫn không dập tắt bình an, không làm chao đảo đức tin, nhưng vẫn trung thành hiến dâng lên Chúa tất cả.

Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô.” (Pl 4,1-7)

  1. Phán xét

Trong Tân Ước, “Ngày của Chúa” đồng nghĩa với cuộc xuất hiện của Con Người (Lc 17, 22tt) hoặc “Ngày của Chúa” (2Pr 3,12). Danh xưng “Con Người” rút ra từ sách ngôn sứ Danien (7,13tt) chỉ về cuộc phán xét của Thiên Chúa trên thế giới và về cuộc chiến thắng cuối cùng trên sự dữ do Ðức Giêsu Kitô mang lại.

Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25,41.46).

Ngày đó sẽ là ngày tách chiên ra khỏi dê, lọc lúa ra khỏi cỏ lùng, là ngày thưởng phạt theo lẽ công bằng. Ai đã chuẩn bị xứng đáng thì sẽ hân hoan, còn ai không sẵn sàng thì bị loại ra, số phận của mỗi người hoàn toàn khác nhau tùy vào thái độ của họ. Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát số phận con người.

Trong đoạn Tin Mừng về Ngày Phán Xét Cuối Cùng (Mt 25, 31 – 46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Ðiều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.

Chúng ta có thể trở nên mê ngủ”, mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực… đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân ( đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công… ), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa ( vu khống, gây bất công, thù oán, giết người… ). Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt ( công việc, chuyện làm ăn, sở thích… ), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa ( dâng Lễ, đọc kinh, cầu nguyện… ) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu như thế chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1, 11 – 19). Ðáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.

Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, nên Ngài nhắc nhở chúng ta hôm nay, trong giờ phút này: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.”

Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết” (Lc 12, 2), và “những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được” (1Tt 5, 25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mc 10,31; x. Mt 20, 16; Lc 13, 30).

  Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12; x. Rm 9, 30-32; 10, 20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).

  1. Chúa vẫn đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta, trong cuộc sống chúng ta, qua các biến cố, qua những người chúng ta gặp… Đức Kitô vẫn ở bên ta qua những người anh em hèn mọn: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Ngài ở trong bí tích Thánh Thể, trong lời của Ngài nơi Tin Mừng. “Người đã căng lều ở giữa dân người, nhưng dân Người không đón nhận Người” (Ga1,11). “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.” (Mt 18, 20). Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời. Rõ ràng tất cả mọi người ngay lành, công chính, luôn biết sống và hành động theo Lời Chúa dạy thì luôn có Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”, và đó chính là điều rất đáng vui mừng, hạnh phúc.

Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh này cho Chúa. Quá khứ đã qua, tương lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động trong cuộc sống và cho cuộc sống. Dù phải trăn trở, vất vả, lo âu, lao nhọc, mồ hôi, nước mắt, ta vẫn thấy Chúa đang hiện diện với mình, và bản thân đang ở trước mặt Chúa, ở trong Chúa. Tỉnh thức và cầu nguyện: đó là sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến, ngày mà Người mời gọi ta về với Người. Sống với Chúa mãnh liệt và triền miên như thế, ta không còn sợ ngày tận thế sẽ là ngày bất ngờ với ta, vì luôn luôn có Chúa, luôn luôn hiện diện trong Chúa, chẳng có gì là bất ngờ cả.

Đức Giêsu đã đến xưa kia, sẽ đến vào ngày Quang Lâm và vẫn đang đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp Người đến dưới bất cứ dạng nào. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài.

CHÚA NHẬT II VÀ III MÙA VỌNG (x. CN II TN năm A, Lễ CGS chịu Phép rửa)

Có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết.

  1. Chu kỳ 3 năm phụng vụ A, B, C có chung một dàn bài: Chúa Giêsu sẽ trở lại (CN I). Ngài đến hôm nay, Ngài đang hiện diện (CN II,III). Ngài đã đến rồi (CN IV). Chúa đã đến, Ngài đang hiện diện, Ngài sẽ đến trong vinh quang

Các bài đọc 2- Chúa Nhật I-III Mùa Vọng, là các bài Thánh Thư của các Thánh Phao-lô, Gia-cô-bê, Phê-rô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Ki-tô trở lại lần thứ hai.

Các Bài Tin Mừng Chúa nhật II, III là lời mời gọi của Gio-an tiền Hô: Dọn đường cho Chúa.

Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Gio-an Tẩy Giả, vị Ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng Ngôn sứ, nay Gio-an xuất hiện với sứ mạng dọn đường cho Ðấng Cứu Thế. Cuộc đời của Gio-an là một thiên anh hùng ca: bất khuất trước cường quyền và bao dung với tội nhân.

Trong Mùa Vọng, các bài Tin Mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy Giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền Hô” và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người. Chính vì thế phụng vụ Mùa Vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.

  1. Gioan Tẩy Giả.

Ðể chuẩn bị cho dân Do thái đón nhận Ðấng Mêsia, Thiên Chúa đã sai nhiều ngôn sứ đi trước dọn đường. Gioan Tẩy Giả được hân hạnh là ngôn sứ cuối, ông chỉ cho mọi người thấy Ðấng Mêsia đang đến. Ông mang dáng vẻ của ngôn sứ Ê-li-a ngày xưa qua việc mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện.

Chúng ta cần nhìn ngắm khuôn mặt Gioan Tẩy Giả. Ngài là con duy nhất của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, sinh sống ở làng A-in Ka-rim, gần thủ đô Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà Isave, là chị họ của Đức Maria. Ông được sinh ra một cách lạ lùng lúc cha mẹ đã cao niên (Lc 1, 7). Ngay khi còn trong lòng mẹ, ông đã được đầy Thánh Thần (Lc 1,15). Lần đầu tiên gặp Ðấng Mêsia, ông đã nhảy lên trong lòng mẹ vì hân hoan vui sướng (Lc 1, 41.44). Ngày ông chào đời là một ngày khiến mọi người ngỡ ngàng, kinh sợ trước những điều lạ lùng. Họ tự hỏi: “Ðứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” (Lc 1,66). Ngay từ đầu, sứ vụ ông đã được sứ thần Gabriel loan báo cho vị tư tế Zacaria, thân phụ ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Chúa là Thiên Chúa của họ.”  (Lc 1, 15)

Ngay từ lúc mới sinh ra, Gioan Tẩy Giả được cha mình là ông Zaccaria chào mừng như là một ngôn sứ: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người ” ( Lc 1, 76). ” …báo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu và tha cho họ hết mọi tôi khiên ” ( Lc 1, 77).

Ngôn sứ I-sa-i-a và Ma-la-ki-a đã loan báo trước đó khoảng 450 – 550 năm ( tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu Á ): Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” ( Ml 3, 1 ), Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( x. Is 40, 3 ). Như vậy, theo ngôn sứ I-sa-i-a, để đón Chúa đến, việc đầu tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng, đổ đầy các hố rãnh. “Thung lũng” là những đam mê lạc thú, giầu sang, danh vọng và quyền lực; “Núi đồi” là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn; “Khúc quanh co” là những tâm địa gian manh, không trung thực, giả hình; “Ðường lồi lõm” là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin – cậy – mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác ái – yêu thương đối với tha nhân.

Bàn tay Chúa ở với Gioan suốt thời thơ ấu. Càng lúc Gioan càng ý thức mình là ngôn sứ dọn đường cho Ðấng Mêsia, một sứ mạng quá đỗi lớn lao. Ông đã âm thầm chuẩn bị cho sứ mạng đó bằng chính cuộc sống khác thường của mình. Ông sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1, 80). Ông chọn lối sống độc thân như một lối sống thích hợp hơn để chu toàn trách vụ làm ngôn sứ. Ông cũng ăn mặc một cách khác thường: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Rõ ràng ông đã chọn lối sống khổ hạnh: “Rượu lạt, rượu nồng ông cũng đều không uống.” (Lc 1,15). Gioan sống phù hợp với lời ông sắp giảng. Ông kêu mời mọi người hoán cải, sám hối và chính đời sống của ông cũng toát lên sự siêu thoát đối với của cải, tiện nghi, để hiến mình cho sứ mạng.

Rồi cũng đến ngày ông “ra mắt” dân Ít-ra-en. Ðiểm nổi bật nơi Gioan là sự khiêm nhượng. Khiêm nhường là đứng đúng chỗ của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa. Gioan biết rõ chỗ đứng của mình. Ông biết mình chỉ là người giới thiệu Ðấng Mêsia. Tất cả đời ông chỉ là một tấm bảng mang mũi tên hướng thẳng về Ngài. Sự cao trọng của ông nằm ở chỗ ông đã là nhịp cầu để dân tộc của ông nhận ra Ðấng Mêsia. Ông không che khuất Ngài, không chiếm chỗ của Ngài. Chúng ta không nên quên rằng Gioan đã nổi tiếng trước Ðức Giêsu. Ông thu hút được bao đám đông đến với mình từ khắp nơi (Mt 3,5). Nhiều người đã nghĩ ông chính là Ðấng Mêsia (Lc 3,15), nhưng ông một mực từ chối. Ông tự định nghĩa mình trước tiên bằng lối phủ định: Tôi không phải là Ðấng Mêsia, cũng không phải là một Elia tái giáng hay một Ngôn Sứ phi thường (x. Ga 1, 20-21). Cuối cùng ông chỉ dám nhận mình là “một tiếng hô”, một lời mời gọi con người sửa đường cho Chúa đến (x. Ga 1, 23). Ông biết rõ mình là người đến trước, nhưng Ðấng đến sau mới là người “quyền thế hơn”, “trổi vượt hơn”, vì Ngài là Ðấng có trước ông (x. Ga 1, 30). Gioan đã diễn tả tính ưu việt của Ðấng Mêsia bằng lời tự thú: “Tôi không đáng cởi dép cho Người”. Cởi dép là hành vi thấp hèn đến nỗi ông chủ chẳng dám bắt một người nô lệ Do Thái phải làm cho mình. Ở đây Gioan cho thấy mình không đáng làm cái cử chỉ phục vụ ấy cho Ðấng Mêsia. Ông làm phép rửa trong nước để người ta bày tỏ lòng sám hối, chuẩn bị đón Ðấng Mêsia. Nhưng Gioan biết phép rửa của ông sẽ bị vượt qua bởi phép rửa trong Thánh Thần, phép rửa do Ðấng Mêsia thực hiện sau này, phép rửa tha tội.

Dân chúng tuôn đến với Ngài trên bờ sông Giođan nhiều khôn xiết. Dân nghèo hay người thất học có đó. Kẻ giàu sang hay người quyền quý cũng không thiếu. Người thu thuế hay binh lính vẫn có mặt. Thậm chí đến các vị đang được xem là đạo đức như người biệt phái hay các vị tinh thông lời Chúa như các luật sĩ vẫn hiện diện. Tất cả dường như nghe theo lời khuyên bảo của Gioan, cho dù ngài thỉnh thoảng nói với họ những lời chói tai, khó nghe.

Lời giảng của ông thật đơn sơ: với người thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng; với binh lính, ông đòi hỏi sự ngay thẳng. Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể. Ông loan báo cho mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một cuộc thẩm phán để thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại giới thiệu Ngài với dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian. Sau cùng, vì can đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục và bị chém đầu.

Gioan đã tự xoá mình trước Ðấng đến sau ông. Ông chẳng giữ lại điều gì cho mình, cả cái uy tín lẫy lừng trước đám đông ngưỡng mộ. Ông không ngần ngại giới thiệu Ðức Giêsu cho các môn đệ thân yêu nhất (Ga 1, 35). Ông chấp nhận mất họ, vì cây cầu chỉ để dùng qua sông. Gioan xoá mình một cách đơn sơ, và hơn nữa, ông xoá mình trong niềm vui trào dâng. Các môn đệ của ông bực bội khi thấy dân chúng đổ xô đến với Ðức Giêsu (Ga 3, 26), còn ông thì mang trong lòng niềm vui chất ngất, bởi lẽ ông đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ông tự ví mình như người bạn của chú rể, ông chẳng có quyền cưới cô dâu. Ông nói với các đồ đệ của mình: “Ðó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải lớn lên, còn thầy thì phải nhỏ lại.” (Ga 3, 29-30). Có ai nếm được niềm vui của người chẳng còn tìm mình như ông không?

  “Các người đi ra sa mạc để coi cái gì ? Cây sậy rung trước gió ư”.  Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.  “Để thấy một ngôn sứ ư? Phải! Ta bảo các người …”. Thiên hạ không đi vào sa mạc để nhìn xem một cây sậy phất phơ trước gió. Chắc hẳn Chúa Giêsu muốn đặt đối nghịch cây sậy với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1, 17-19), một con người bất khuất trước mọi sự nhờ luôn ý thức sứ mệnh thần linh của mình và nhờ được sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa nâng đỡ. Tính bất khuất ấy của Gioan là nơi đầu tiên nâng ông vượt trên thiên hạ và đặc trưng sự cao cả của ông. Vì không nhiễm bụi trần, không bị tiền bạc, công danh mua chuộc, hay thỏa hiệp, Gioan Tiền Hô mới can đảm công khai tố giác tội lỗi của vua Herôđê. Vì sứ vụ ngôn sứ, ông sẵn sàng chịu chết cho công lý và sự thật.

Người ta đã tuôn đến với ông để thú tội và xin ông làm phép rửa (Mt 3,6); do đó, người ta gọi ông là Gioan Tẩy Giả. Chính lối sống ngôn sứ của ông (mặc áo lông lạc đà, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (Mt 3,4)) đòi người ta phải xét lại cách sống của họ.

Gioan là nhịp cầu giữa Cựu Ứơc và Tân Ứơc. Đấng mà mọi ngôn sứ trước đây loan báo, thì Gioan đã thấy và đã chỉ cho biết: ông vừa đứng ở tận điểm và cao điểm thời kỳ đoan hứa, vừa đứng nơi ngưỡng của thời đại mới, thời đại Nước Trời. Ông thuộc về Cựu Ước (Lc 16,16), nhưng tay ông đã đụng đến Ðấng lập ra Tân Ứơc. Ông biết mình được sinh ra vào một thời điểm quan trọng trong lịch sử cứu độ, và được sinh ra cho một sứ mạng quan trọng. “Nước Trời đã gần”: đó là tiếng hô của ông, làm rung chuyển cả vùng Giuđê và thành Giêrusalem (Mc 1,5). Nước Trời không phải là Nước sẽ được lập ở trên trời, nhưng là Nước Thiên Chúa sẽ được lập trên mặt đất. Nước ấy nay đã đến gần bên. Ðó là một tin vui, nhưng cũng là một đòi buộc kinh khủng. Ðể đón lấy Nước Trời, cần phải có thái độ sám hối và hoán cải tận căn.

Gioan tự nhận mình là tiếng hô trong hoang địa theo lời tiên tri Isaia đã báo: Có tiếng hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn cho con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. (Is 40, 3) Như thế Ông Gioan là người tiền trạm của Chúa Kitô. Ông có hai nhiệm vụ chính là hô hào dân chúng sửa đường cho ngay thẳng bằng sám hối ăn năn để Chúa đi và làm chứng về ánh sáng, về Đấng Thiên Sai. Gioan chuẩn bị người ta lãnh ơn tha tội; còn Ðức Giêsu tuyên bố chính Ngài có quyền tha tội (x. Mc 2, 10) và ban quyền đó cho các tông đồ (x. Ga 20, 23).

  1. Nội dung những điều Gio-an Tẩy Giả loan báo đã được Tin Mừng Mát-thêu tóm lại như sau: Hãy chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến thiết lập Nước Trời. Đấng ấy sẽ là vị Thẩm Phán công minh tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” (Mt 3,12). Ðối với Gioan, Ðấng Mêsia là vị thẩm phán đầy quyền uy và đáng sợ. “Nước Trời đã gần”, “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” (Mt 3,7), “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Ngài sẽ là Đấng xét xử mọi người. Ðấng đang đến sẽ xét xử rất công minh. Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong ngày lễ Ngũ Tuần sau này. Muốn được ơn cứu độ thì ngay từ bây giờ người ta phải thực lòng sám hối ăn năn.

Đó là viễn tượng về ngày thế mạt hơn là về ngày Giáng sinh. Chủ yếu của Mùa Vọng vẫn là hướng lòng chúng ta về Ngày Con Người sẽ đến trong những ngày sau hết. Phariseu và sa đốc là những nhóm người được coi là đạo đức trong xã hội và đạo Do thái. Họ được mọi người kính trọng. Nhưng Gioan Tẩy giả lại nói với họ: “Hỡi nòi rắn độc kia ! Ai chỉ cho các anh trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?! Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối đó nhé!” (Mt 3, 7-8). …vì họ sống giả hình, giữ luật Chúa mà không có tâm…

  1. «Sửa lối cho thẳng để người đi»

Khi đến dọn đường cho Chúa đến, Gioan Tẩy Giả yêu cầu dân chúng: «Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi» (Mc 1,3). Như vậy, ông đã chỉ cho ta cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến với ta, để Ngài có thể ở ngay trong tâm thức ta, biến đổi tâm hồn ta, ban cho ta sức mạnh và tình yêu đích thực để ta thật sự yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Hiện nay, rất có thể ta chưa cảm nhận được Chúa ở với ta, chưa được Chúa biến đổi thật sự nên «con người mới» đầy thần khí, đầy tình yêu và sức mạnh. Sở dĩ như vậy là vì ta chưa thật sự chuẩn bị đúng cách để Chúa đến với ta cùng với sức mạnh và ân sủng của Ngài. Thử nghĩ xem, khi đón một nhân vật quan trọng đến nhà ta (chẳng hạn một vị tổng thống, một giám mục…), không chỉ nói chuyện với ta ở phòng khách, mà còn ăn uống nghỉ ngơi trong nhà ta, thì ta sẽ phải chuẩn bị thế nào cho phải lẽ? Nếu ta không chuẩn bị gì cả, khách đến mà nhà cửa bệ rạc, lôi thôi, bê bối, thì khách sẽ nghĩ thế nào? Làm sao họ có thể hết lòng giúp đỡ ta khi ta tỏ ra không tôn trọng, quý mến, không hết lòng với họ không? Do đó, câu nói trên của Gioan Tẩy Giả là một lời soi sáng rất cần thiết và ích lợi cho ta. Ta cần khai triển câu nói ấy.

«Sửa lối cho thẳng để người đi». Muốn đời sống tâm linh vững vàng để có thể phát triển lên cao, điều hết sức quan trọng là tâm hồn ta phải thật ngay thẳng. Tòa nhà tâm linh của ta chỉ có thể vững bền và xây lên cao vút nếu nó được xây bằng tấm lòng thẳng băng, những ý tưởng ngay chính, những tâm tình chân thật, không gian dối, quanh quéo, nhiều ẩn ý… Tâm hồn ngay thẳng là tâm hồn không gian dối. Lòng nghĩ thế nào thì bên ngoài lộ ra thế ấy, không giả bộ, giả hình, đóng kịch. Tâm hồn ngay thẳng là một tâm hồn luôn tôn trọng sự công bằng đối với mọi người, không xử bất công với tha nhân, không để người khác thiệt thòi vì mình. Luôn luôn minh bạch và sòng phẳng về tiền bạc, ơn nghĩa. Người nào đáng khen thì khen ngợi thành thật, không chấp nhận nịnh nọt, bợ đỡ. Thấy người khác hơn mình thì mừng cho họ, không ganh tị, dèm pha hay tìm cách phê bình giảm giá họ. Không chấp nhận những lợi lộc bất chính, không mong được hưởng nhiều hơn những gì mình xứng đáng. Không chấp nhận những phương tiện bất chính hay bất minh để đạt cho được mục đích của mình, v.v… Người ngay thẳng làm việc gì cũng «đường đường chính chính» mà làm. Người ta thường dùng từ ngữ «con người đàng hoàng» để chỉ những con người ngay thẳng, công chính.

Ngài kêu gọi mọi người đến chịu phép rửa tỏ lòng ăn năn sám hối, nhưng khi thấy trong đám đông có những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc thì ngài lại nổi nóng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Thánh Gio-an quá rõ họ đến xin ngài làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của Thánh Gio-an chỉ là một thứ nghi thức hay phù phép để tránh sự trừng phạt của Thiên Chúa, không hơn không kém. Cái kiểu đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Không những tự coi mình là người công chính, đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc còn tự phụ về gốc gác của họ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Tuy nhiên, sau khi nổi nóng, thánh nhân đã đi thẳng vào vấn đề: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”, và cảnh tỉnh đám “rắn độc” đó: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10). Nhưng với đám đông thì khác hẳn, khi họ hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì đây?” thì ngài trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”, với những người thu thuế thì ngài bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”, còn với binh lính thì: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 10-14).

Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó. Gioan đã nói đến hố sâu của hận thù, nói đến nuí cao của kiêu ngạo, nói đến quanh co của những nẻo đường bất chính gian dối. Mỗi người chúng ta không ít thì nhiều đều có những đồi núi kiêu ngạo, những thung lũng ích kỷ hẹp hòi, những cây cầu tự ái khoe khoang, những mấp mô ghồ ghề trong mối quan hệ với người khác như kỳ thị, gian dối, thiếu công bằng, nói hành nói xấu? Cũng có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Uốn nắn những quanh co, san phẳng gò cao hay hố thẳm và dẹp bỏ chướng ngại trong tâm hồn từng ngày để có chỗ cho Chúa đến và ở lại.

“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mc 1,4).  Lời đó Đức Giêsu sẽ lặp lại nguyên văn (Mt 4,17). Ta thấy ngay tầm quan trọng của việc sám hối trong Kitô giáo. Sám hối là để tin vào Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Riêng Ðức Giêsu, chính Người tự xưng là thầy thuốc đến chữa trị bệnh nhân tức tội nhân, để họ được lành mạnh, là được sám hối và trở về cùng Chúa.  Người nói rõ: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,15) ăn năn trở lại cùng Chúa.

Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa. Nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này. Gioan làm phép rửa bằng nước để giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tha tội cho người ta. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.

Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Thế nhưng, muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm nhường. Hoán cải là ra khỏi sự tự mãn, sự vững vàng của mình. “Ðừng tưởng mình có cha là Ap-ra-ham” (x.Mt 3,9). Ðừng tự hào vì mình đã được rửa tội, đã dự lễ mỗi ngày, đã tham gia vào các nhóm tông đồ… Sự tự hào có thể khiến ta mê ngủ trong sự vững vàng của mình và không chấp nhận hoán cải. Thái độ khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời ông nói với dân chúng. Khi được hỏi ông là ai, thì Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn: Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến. Sự khiêm nhường cũng chính là điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những người khiêm nhường mới gặp được Chúa mà thôi. Đúng thế, Kinh Thánh đã nhiều lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, thì sẽ được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác quyết: Kiêu ngạo là dấu chỉ chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ. Đúng thế, một Lucifer vì không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. Một Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân phận tôi tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế. Hơn thế nữa, muốn bỏ một vật gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đã chặt rồi, thì làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa ngự trị, cần phải rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn. Trong khi đó, kẻ kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại, tự mãn thì còn chỗ đâu mà dành cho Chúa nữa.

  1. Làm việc lành cho xứng với lòng sám hối ấy: sinh hoa trái bằng những việc lành phúc đức. Sinh hoa kết trái là sống Tin Mừng chân thật, thực hiện đúng đắn Lời Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa, chứng nhân của Đức Giêsu trong môi trường xã hội chuộng vật chất phù phiếm. Theo Gioan, sám hối phải sinh hoa trái bằng cách bố thí. “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4, 11). Sách Tiên tri Đaniel: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Đn 4, 24). Và sách công vụ Tông đồ: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11, 4). Chúa Giê-su cũng nói với những người biệt phái: “Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông” (Lc 11, 41). Bố thí để sám hối, để đền tội…
  1. Sám hối đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa. Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Tin Mừng Luca cho thấy tầm quan trọng của sám hối. Dụ ngôn nào cũng cho thấy hình ảnh một Đấng Thiên Chúa tích cực hoạt động để đưa tội nhân trở về. Khi một con chiên bị lạc thì người mục tử bỏ 99 con chiên không lạc nơi bìa rừng, để đi tìm chiên lạc đó. Tìm được rồi, người mục tử liền vác chiên lên vai mà đưa về để ăn mừng. Người đàn bà đánh rớt một đồng tiền cũng thắp đèn, lục lọi tìm cho ra tiền bị rớt và cũng tổ chức ăn mừng. Riêng người cha nhân hậu trong dụ ngôn thứ ba, còn phấn đấu để con cả sám hối, làm hoà cùng con thứ đi bụi về, để gia đình được an vui, đầm ấm. Điều được nhắc đi nhắc lại là trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối (Lc 15,7.10). Như vậy, niềm vui của thiên đàng là do sám hối thực hiện ở dưới đất.
  1. Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Tại sao lại nói là Chúa sắp đến? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người. Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta?

Người Do thái thời CGS đang mong đợi một Đấng Messia, Cứu Thế đến để giải thoát họ. Nhưng khi Chúa đến họ lại không nhận ra.

Chúa không đến ở nơi máng cỏ lộng lẫy…. Chúa đến ở trong tâm hồn mỗi người chúng ta. chúng ta có chuẩn bị để đón Ngài hay không? Chúa đến nhà Ngài mà gia nhân không đón tiếp Ngài. Chúa gõ cửa mà chúng ta không mở, vì chúng ta thờ ơ, lãnh đạm với Chúa, không chuẩn bị, khao khát đón Chúa, vì tâm hồn chúng ta đầy dẫy những hận thù, chia rẽ, gian dối, kiêu căng, ích kỷ. Chúng ta đang chuẩn bị gì để đón Chúa? Chúa đến đem niềm vui, bình an, hạnh phúc…. Thiên Chúa là EMMANUEL: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Gioan muốn làm chứng về «một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết» (Ga 1,26). Rất có thể chính Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, trong chúng ta, bên cạnh chúng ta… mà chúng ta không mấy khi ý thức được. Thật vậy, ít khi ta ý thức Ngài đang hiện diện trong chính bản thân ta. Do đó, sự hiện diện của Ngài trong ta trở nên thụ động tương tự như khi Ngài ngủ trên thuyền của các tông đồ giữa cơn phong ba bão tố (x. Mt 8,23-27). Vì thế, giữa cuộc đời bão tố, ta vẫn cảm thấy cô đơn, lo lắng, sợ hãi, tưởng như chẳng ai sẵn sàng cứu giúp ta, chẳng ai tiếp sức mạnh cho ta, khiến ta vẫn yếu đuối, khiếp nhược. Ta vẫn muốn chạy đến cầu khẩn, van xin một Thiên Chúa, một Đức Giêsu ở bên ngoài ta, ở xa ta, qua trung gian một ai đó. Vì thế, ta không nhận được sức mạnh từ một Thiên Chúa ở trong ta.

Chúng ta cần hoán cải để đón Chúa đến: Chúa đến trong mùa Giáng Sinh, Chúa đến vào ngày tận thế, Chúa đến qua Lời của Ngài và các bí tích, Chúa vẫn đến thăm ta mỗi ngày qua từng biến cố vui buồn của cuộc sống… Ngoài ra, Thiên Chúa còn hiện diện rất sống động bên cạnh ta, nơi những người đang sống quanh ta, nhưng ta không hề nghĩ đến sự hiện diện ấy. Ta vẫn không hề cảm nhận được Thiên Chúa đang ở nơi họ, để đối xử với họ như những hiện thân cụ thể của Ngài. Do đó, Thiên Chúa đối với ta dường như vẫn rất trừu tượng, vô hình, im lặng, vắng mặt, không sao cảm nhận được! Và lời chứng của ta về Thiên Chúa vẫn là lời chứng của một người chỉ biết Ngài cách lý thuyết, vì chỉ nghe người khác nói về Ngài. Nên lời chứng ấy không phải là lời chứng sống động, mạnh dạn và đầy thuyết phục về một Thiên Chúa mà đúng ra chính ta cảm nhận được cách rất cụ thể.

Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa (x. Mt 25, 40). Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là tiếp nhận, yêu thương, phục vụ Chúa đang hiện diện nơi người cha, người mẹ, anh, chị, em, nơi người láng giềng đang sống quanh ta. Thánh Gioan Tẩy Giả đề nghị những người đến với ông: “ Ai có hai áo, thì chia cho những người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.

Xin Thiên Chúa giúp ta cảm nghiệm đích thực về Ngài, về Đức Giêsu đang sống động trong bản thân và trong đời sống của ta, để lời chứng của ta trở nên giá trị hơn, đáng tin hơn.

  1. «Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng» (Ga 1,8). Khi làm chứng cho ánh sáng, ông không tự đồng hóa mình với ánh sáng, không tự nhận mình là đại diện hay biểu trưng của ánh sáng, và cũng không lợi dụng ánh sáng để tìm vinh danh hay lợi lộc cho mình. Ông chỉ biết sứ mạng của mình là làm chứng cho ánh sáng thôi. Khi làm chứng, người ta tưởng ông là Đấng Kitô. Ông thành thật nói mình không phải. Người ta nghĩ ông là một ngôn sứ, nhưng ông không tự nghĩ mình là ngôn sứ, mặc dù ông là ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu ước. Ông hoàn toàn xóa mình, không tự coi mình là quan trọng, là một nhân vật cao cả. Ông chỉ tự xưng «là tiếng người hô trong hoang địa» (Ga 1,23), một người xem ra chẳng là gì cả, chẳng mấy ai quan tâm chú ý tới. Đối với Đức Giêsu, người mà ông làm chứng cho, ông luôn chủ trương: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Người làm chứng có chịu để cho mình nhỏ đi, thì người mình làm chứng mới lớn lên được!

Chúa Giêsu đã quả quyết về sứ mệnh của chính mình: “Tôi đã sinh ra và đến trong thế gian vì mục đích này. Đó là để làm chứng cho chân lý” (Ga, 19,37). Lời Chúa trên đây đã ứng nghiệm nơi Gioan Baotixita, vị Tiền Hô được sinh ra và được sai đi để làm chứng cho chân lý. Chân lý là một vũ trụ bao la, gồm nhiều lãnh vực. Lãnh vực Ngài được sai vào để làm chứng là lãnh vực cứu độ. Chân lý căn bản là chính Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới, khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì Ngài có trước tôi” (Ga 1, 29-30). Như thế, chân lý cứu độ là chính Chúa Giêsu. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte.

Còn chúng ta, khi làm việc cho Chúa, làm tông đồ, ta muốn được mọi người tôn vinh, ta thích tự đề cao mình, tự phong cho mình một chức vụ quan trọng, tự xưng là đại diện cho một nhân vật cao cả để mọi người trọng vọng ta. Ta muốn mọi người phải gọi ta bằng danh này hiệu nọ, nếu không được thì ta buồn bực, khó chịu… Đang khi đó, có thể ta chẳng làm chứng cho Thiên Chúa, cho ánh sáng, cho chân lý hay công lý được bao nhiêu, là vì ta muốn mình lớn lên nên Ngài phải nhỏ đi. Khi tôi làm được điều chi tốt lành, đạo đức, từ thiện, tôi lại muốn rêu rao, khoe khoang, tiếp thị rộng rãi, kẻo thiên hạ không biết mà tung hô, ca ngợi! Thay vì cho Chúa lớn lên, thì tôi lại lợi dụng Thánh danh Chúa để trở thành ngôi sao, siêu sao. Trong khi, Gioan Tiền Hô lại khẳng định với mọi người như đinh đóng cột: “Ngài phải lớn lêncòn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30)

Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa cho thấy Ngài “chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch vì thiếu tình yêu” (x. Is 1, 11-17). Ấy thế mà rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay vẫn đang cầu nguyện dâng lễ theo luật nhưng lại thiếu lòng yêu mến như thế, hoặc đang làm các việc bác ái để tìm tiếng khen hay chỉ mong được thưởng công sau này (x. Mt 6,1-6). Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta cần thực hành các việc đạo đức với tâm tình nào để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến?

Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác! “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27). “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).

Trong bóng đêm cần có ánh sáng, thì ánh sáng Lời Chúa hôm nay giúp cho ta biết chọn lựa, biết nhìn lại con đường chúng ta đi. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sáng để dẫn lối cho chúng ta. Chúng ta hãy vui mừng trong niềm vui, vì được Con Thiên Chúa đến để giải thoát và cứu chuộc chúng ta.

  1. Nhưng Ðức Giêsu không phải là Ðấng Mêsia giống như lối nghĩ của Gioan. Gioan quan niệm rằng Ðấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Ðức Giêsu chưa làm gì để trừng trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài cũng chưa ra tay, Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”. Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.

Khi ở tù, Gioan vẫn nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã loan báo. Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực. Chắc chắn Gio-an cũng quan niệm như mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một vị Hoàng Đế cai trị toàn cầu. Nhưng Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (x. Is 26, 19; 29, 18-19; 35, 5-6a; 61, 1). Đó là những điều mà Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.

Đức Giêsu kín đáo cho thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót thương cúi xuống người đau khổ. Ðấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Ðức Giêsu nhắn với ông: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Ông Simeon đã tiên báo về Chúa trong đền thánh Gierusalem: Con trẻ này sẽ làm cho nhiều người vấp ngã… Gioan đã vượt qua chính mình khi nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.

Chúa Giêsu đã cho Gioan thêm một hình ảnh về Người. Đó là hình ảnh chân lý mang lại sự sống, sự sống dồi dào. Đây là một hình ảnh mà chính Đức Kitô đã đưa ra để làm chứng về mình. Hình ảnh này sẽ là một bổ túc cần thiết cho sứ mạng giới thiệu của Gioan. Gioan lúc đó sắp bước vào giai đoạn kết thúc đời mình. Khi nhận được một hình ảnh đẹp như thế về Đấng Cứu thế, Gioan được an ủi nhiều. Ngài có thể an tâm ra đi, vì Đấng Cứu thế mà Ngài giới thiệu, chính là tình yêu thương xót. Những ai gánh nặng có thể đến với Người (Mt 11,28). Những ai như những con chiên không được ai chăm sóc, có thể tin tưởng vào Người (Mt 9,37).

Sau khi môn đệ Gio-an về, Đức Giê-su đã khen ngợi Gio-an tẩy giả về ba phương diện: một là tính tình dũng cảm cương nghị chứ không hèn hạ luồn cúi như loài lau sậy phất phơ trước gió (c 7); Hai là có nếp sống đơn sơ khổ hạnh chứ không đua đòi ăn mặc gấm vóc lụa là như người trong đền vua chúa (c 8); Ba là có sứ mạng tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai (c 10).

“Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến “như kẻ trộm” đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài. Không hết lòng tin tưởng vào Ðức Giêsu là “vấp ngã”, chạy theo những đấng messia khác (messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia-lạc-thú…)  cũng là “vấp ngã”. Vì thế Ðức Giêsu đã khuyến cáo: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Vì nếu không thay đổi, Gio-an chắc sẽ khó tránh khỏi bị vấp ngã (x. Mt 11,6), như ông Phê-rô sau đó đã ngăn cản Đức Giê-su và đã bị Người nặng lời trách mắng như Tin Mừng Mát-thêu thuật lại: “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).

Gioan mời gọi hãy dọn đường, hãy sám hối để chờ đón Đấng Cứu Độ trần gian. Và, chúng ta thấy, Đấng Cứu Độ trần gian cũng đến thật. Đến nhưng không đến trong vẻ oai phong lẫm liệt như người ta chờ nghĩ. Đến trong thân phận làm người và phải nói hết sức là người nữa. Chúa Giêsu  đã đồng hàng với con người để lãnh nhận phép rửa của Gioan.

Ngài không đến như Thẩm Phán để tiêu diệt kẻ tội lỗi. Ngài đến như người tôi tớ hiền từ và khiêm hạ (x. Mt 18, 18-21). Ngài không giáng xuống cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng lại cứu tội nhân khỏi cơn thịnh nộ ấy (1Tx 1,10). Không phải vì sợ hãi mà chúng ta phải hoán cải. Chính vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương mà chúng ta không còn muốn ở lại trong tội lỗi.

Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.

Nhiều khi we cũng muốn Chúa thể hiện quyền năng như một vị vua oai phong lẫm liệt…nên chúng ta cứ than với Chúa: lạy Chúa, sao Chúa cứ để con nghèo khổ, sao Chúa……

  1. Chúa nhật Vui mừng. Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, màu của phụng vụ là màu hồng. Mầu hồng biểu tượng cho niềm vui và hy vọng. Giáo Hội gọi Chúa nhật này là Chúa nhật Vui mừng. Vui mừng vì Đấng Cứu Thế đã đến gần. Tiên tri Sophonia luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ. Chính trong niềm tin tưởng ấy mà tiên tri đã kêu gọi: hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Hãy mừng lên, hỡi Israel, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng Cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi (x. Xp 3:14-15). Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô cũng đã kêu gọi: « Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến» (Pl 4, 4-5). Và đoạn Tin mừng diễn tả: chính trong niềm hy vọng ơn Cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn khởi đến với Gioan Tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu thế sắp đến. Như vậy qua các bản văn Kinh thánh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là niềm vui mừng và hy vọng của con người. Bởi chính mình Ngài mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Ngài mới có thể ban cho nhân loại niếm vui, bình an và hạnh phúc. Đó là những lúc tâm hồn chúng ta đang thuộc trọn về Chúa, có Chúa ở cùng. Hay nói một cách khác, đó là niềm vui của những tâm hồn trong sạch. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã lên tiếng diễn tả niềm vui của những người công chính: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi”. Isaia đã tiên báo về bước chân hân hoan loan báo Tin mừng của Đấng Messia, người được xức dầu Thánh Thần: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Lời tiên tri này của vị ngôn sứ quả thực đã được ứng nghiệm, hơn 600 năm sau, tại hội đường ở Nazareth, Chúa Giêsu đã nhận những lời loan báo của ngôn sứ trên đây cho chính bản thân mình, khi nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Sách này nơi tai các ngươi” (Lc 4, 21). Chúa Giêsu được đầy tràn hoan lạc trong Thánh Thần và Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng cho mọi người. Do đó, bản thân chúng ta một khi đã có được niềm vui có Chúa ở cùng, chúng ta cũng phải cất bước lên đường chia sẻ niềm vui đó cho anh chị em mình.
    Còn Mẹ Maria sau ngày truyền tin, cho dù chưa biết tương lai cuộc đời mình sẽ ra sao, nhưng khi đến thăm bà Elisabeth, Mẹ cũng đã lớn tiếng ngợi ca: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi” (Lc 1, 46-48). Mẹ vui mừng vì Con Thiên Chúa đang ngự trong lòng Mẹ. Có Chúa ở cùng là có tất cả. Cùng với Chúa, Mẹ sẽ sẵn sàng đón nhận tất cả, vì Mẹ tin rằng: Thiên Chúa sẽ làm cho Mẹ mọi sự tốt nhất. “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28). Một lời chào thật đẹp biết bao ! Mẹ cần phải vui lên, vì Đức Chúa đến và ở cùng Mẹ, người phụ nữ đại diện cho nhân loại. Và với Mẹ chúng ta cũng cần phải vui lên, vì Thiên Chúa cũng đến với chúng ta, đến với từng tâm hồn chúng ta. Ngài đến và Ngài mang một cái tên thật dễ thương: «Em-ma-nu-en  – Thiên Chúa ở cùng chúng ta».

Như vậy, cả ngày Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi tất cả con cái của mình, hân hoan vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, Cha chúng ta trên trời, đã yêu thương chúng ta đến nỗi gởi người con duy nhất của mình xuống trần gian để cứu rỗi chúng ta. Đó thật là một tin vui lớn lao. Vậy chúng ta – những người tín hữu cần phải làm gì để xứng đáng đón nhận niềm vui này, hay nói khác đi, làm thế nào để chúng ta có được niềm vui đích thực này trong đời sống chúng ta.

“Có Đấng đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết”. Trong phần đáp ca của ngày Chúa Nhật thứ ba mùa Vọng, tiên tri I-sa-i-a cũng thốt lên: « Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả». (Is 12, 6). Nếu chúng ta nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta, chúng sẽ vui mừng biết bao.

Chính hành vi bác ái, tha thứ, chia sẻ và nhất là thái độ lạc quan, vui sống của mỗi người chúng ta là thước đo cho thấy mức độ chúng ta đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình. Và cũng chẳng đâu xa, ít phút nữa đây, từng người chúng ta lại có cơ hội để đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể vào tâm hồn mình. Có Chúa ở trong mình, chúng ta không được phép u buồn, sầu não, nhưng phải vui lên, và rồi khi trở về nhà chúng ta hãy chia sẻ niềm vui có Chúa cho anh chị em mình để từng gia đình và cả cộng đoàn chúng ta luôn tràn ngập niềm vui có Chúa ở cùng. Do đó, lời kêu gọi: hãy vui lên, hãy vui lên trong Chúa là điều rất hợp lý. Nhưng có thật là chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình? Có thật chúng ta vui mừng vì được Chúa viếng thăm? Có thật chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa, được làm người có đạo? Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất tín, bất trung của dân Ngài. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà Thiên Chúa có đặt ra những lệ luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như thế trong đời mình.  Nếu ngày hôm nay chúng ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì? Có thể ông sẽ bảo chúng ta rằng: hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn Ngài như một người cha, như một người bạn thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Ngài. Thấy được tình yêu vô bờ của Ngài, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải làm để đáp trả lại tình yêu tuyệt đối ấy.

Trước khi rời thế gian để về trời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” (Ga 15, 11). Niềm vui của Kitô hữu chúng ta đến từ sự ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta. Có Chúa ở cùng phải là ước vọng và là niềm vui lớn nhất của mỗi người kitô hữu chúng ta.

Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng” ấy sẽ trở thành trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin Mừng. Như thế, chúng ta cũng không thể loan báo hay chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Vui mừng vì Chúa đang ở giữa chúng ta: ở với bạn, với tôi, với mọi người

  1. Giống Gioan, người tín hữu Chúa Kitô là ngôn sứ của Chúa giữa trần thế, loan báo Chúa Kitô. Phúc Âm của Chúa Giêsu  phải là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta tranh đấu để bảo vệ cho con người được tôn trọng, để làm cho mỗi người thấy được “sự cứu rỗi của Thiên Chúa “, thấy được ngay từ phẩm giá của con người trong đời sống phải được tôn trọng, bởi lẽ con người được dựng nên giống như Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1, 26-27), là con Thiên Chúa (x. Mt 6, 9), có địa vị được tham dự vào bản tính Thiên Chúa (x. 2Pr 1, 4) vì đã được Chúa Giêsu cứu chuộc bằng chính máu của Người.

Gioan đã trở thành mẫu mực của việc dọn con đường cho Chúa đến: “Ông xuất hiện trong sa mạc”, hình ảnh của một con người luôn gắn kết với Thiên Chúa để tìm ra Thánh Ý. Để có thể dọn một con đường cho Chúa cần phải có ơn Chúa, bởi nếu không kết hợp với Chúa, người ta sẽ dọn một con đường cho mình, theo ý của mình, và như vậy Chúa chẳng thế nào đến được. Gioan đã có thể khẳng quyết: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi”, bởi ngài luôn tìm kiếm Thánh ý. Ngài loan báo điều Chúa muốn, chứ không phải điều mình muốn.

Ánh sáng tượng trưng những gì tích cực, như chân lý, công lý, tình thương… Ngược với ánh sáng là tối tăm. Tối tăm tượng trưng những gì tiêu cực như gian dối, bất công, hận thù…Lời mời gọi này mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, phải trở nên những người dẫn đường chỉ lối cho người khác đến gặp được Chúa. Trong gia đình, nơi xí nghiệp, tại công sở… hay bất cứ nơi đâu, chúng ta phải trở nên những người phục vụ cho sứ mạng đó.

Tâm hồn chúng ta từ bấy lâu nay như một ngôi nhà không quét dọn, đầy dẫy rác rến, bụi bậm, không xứng đáng được Chúa đến thăm. Cuộc đời chúng ta như một con đường chỗ lồi, chỗ lõm, chỗ quanh co khiến Chúa khó đến với chúng ta. Bấy lâu nay chúng ta chỉ lo đến bản thân mình, không nghĩ đến việc mời Chúa đến thăm. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG

Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử hành một tuần lễ áp, từ ngày 17 đến ngày 24, để nhắc lại tất cả những gì xẩy ra trước Biến Cố Giáng Sinh và trực tiếp liên quan đến Biến Cố Giáng Sinh. Đầu tiên là hai bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu, một cho ngày 17, về nguồn gốc loài người của Chúa Kitô theo gia phả của Người, và một cho ngày 18, về nguồn gốc Biến Cố Nhập Thể của Người. Sau đó, Phúc Âm Thánh Luca thứ tự cho thấy chi tiết hơn: Ngày 19: thiên thần báo tin Gioan Tẩy Giả ra đời. Ngày 20: truyền tin Lời Nhập Thể. Ngày 21: Mẹ Maria thăm viếng bà Isave. Ngày 22: Mẹ Maria ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chẳng những “đã thương đến phận thấp hèn tì nữ của Ngài” là Mẹ mà còn “săn sóc Yếu Duyên tôi tớ của Ngài theo lòng Ngài xót thương, như Ngài đã phán hứa với các vị tổ phụ”. Ngày 23: đặt tên cho Gioan Tẩy Giả, và ngày 24: ca vịnh Giacaria, thân phụ của hài nhi Gioan, báo trước việc “Chúa là Thiên Chúa của Yến Duyên đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài”. Theo chiều hướng ấy, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, cũng cho thấy, ở chu kỳ phụng vụ Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu, về việc thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse liên quan đến Lời Nhập Thể; ở Năm B theo Phúc Âm Thánh Luca, về biến cố Truyền Tin theo Phúc Âm Thánh Luca, (vì Phúc Âm Thánh Marcô cho chu kỳ Năm B không có một chi tiết nào về sự kiện Nhập Thể); và ở Năm C cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, về việc Mẹ Maria thăm viếng và được bà Isave nhận biết Đấng cưu mang trong lòng Người.

Năm A

Bài đọc I (Is 7,10-14):

  1. Khi ấy vương quốc Giuđa đang bị đế quốc Assyria đe dọa. Ngôn sứ Isaia khuyên vua Achaz đừng sợ, hãy trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nhưng vua Achaz hoài nghi. Ðể khuyến khích nhà vua thêm tin tưởng, Isaia cho nhà vua một dấu chỉ: “Này đây một phụ nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”. Lời tiên tri này trước tiên ứng vào hoàn cảnh của vua Achaz: Quả thực sau đó hoàng hậu vợ vua Achaz đã thụ thai và sinh cho nhà vua một thái tử. Việc sinh ra thái tử là dấu chỉ chứng minh rằng Thiên Chúa sẵn sàng phù hộ cho vua Achaz nếu ông thực lòng trông cậy nơi Ngài (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”). Về sau người ta đã hiểu rộng hơn và coi đây là lời tiên tri về Ðấng Messia sẽ đến. Người ta còn tin rằng Ðấng Messia ấy sẽ do một trinh nữ sinh ra. Vì thế bản dịch bảy mươi bằng tiếng Hy lạp đã dùng chữ “trinh nữ” thay vì chữ “phụ nữ”.
  2. Tin Mừng nói đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”

Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38). Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15). Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24). Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, ta rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.
3. Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” ( Mt 28, 10).

“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mình bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nên thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.

Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới mà vật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa…
Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, chúng ta được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, chúng ta hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an.

  1. Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta mong chờ Ðức Giêsu đến. Nhưng chúng ta mong chờ Ngài mang gì đến cho chúng ta: Tiền bạc chăng? Thành công chăng? Sức khoẻ chăng? Lời Chúa hôm nay trả lời rằng: Ngài mang đến cho chúng ta chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ðó là điều quý báu nhất và bao gồm tất cả mọi điều báu. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ. Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người mọi nơi mọi lúc như Đức Giê-su đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”  (Mt 28,20). “Ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.” Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người; và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng. Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ (Chúa ở cùng anh chị em) đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người. Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên-giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình-chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Thánh sử Mát Thêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu. “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12). “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. (Ga1,14) Đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên Chúa. Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).

  1. Bài Tin mừng theo thánh Matthêu hôm nay (năm A) lại giới thiệu cho chúng ta 1 nhân vật nổi bật khác là thánh cả Giuse. Giáo hội muốn cho chúng ta thấy vai trò đặc biệt của thánh Giuse: thánh Giuse là cha nuôi Đấng cứu thế. Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao ?) Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông, đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Các Ngôn sứ trong CƯ đã loan báo là Đấng Cứu thế sẽ sinh ra trong dòng tộc vua David. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức sinh ra trong dòng tộc ấy, gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Ðức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra, làm một con người như mọi người: có mẹ là một người nữ mang tên Maria, cha là một bác thợ mộc tên là Giuse.

Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra.

CON VUA ÐAVÍT: Ðó là danh xưng gợi cho người Do Thái nhớ lại thời vàng son của lịch sử dân Ít-ra-en, khởi đi từ vị quân vương tổ phụ Ðavít. Vị vua này xuất xứ từ ngôi làng nhỏ bé Bêlem, chừng 8 cây số về phía nam thành Giêrusalem, ngôi làng nơi Ðavít đã được xức dầu tấn phong làm vua (Rt 1,2.9; 4.11; 1S 16,4.18). Ðó cũng là ngôi làng từng được tiên báo là sinh quán của vị Cứu Tinh Mêsia sẽ đến theo các sách Tin Mừng (Mt 5,1; Mc 2,5.8.16; Lc 2,15; Ga7,42). Nhưng trong thực tế, Ðức Giêsu không có liên hệ máu mủ gì với ông Giuse con vua Ðavít, bởi lẽ Người được cưu mang bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần (C.18). Ông Giuse chỉ có nhiệm vụ đặt tên cho Ðức Giêsu để trở nên cha nuôi Người mà thôi (c.21). Chính Ðức Giêsu sau này cũng nêu vấn đề liên hệ phụ tử này ra trước nhóm người Pharisêu: “Nếu vua Ðavít gọi Ðức Kitô là Chúa Thượng, thì làm sao Ðấng Kitô lại là con vua ấy được?” (Mt 22,45), nhưng nhóm Pharisêu không trả lời được. Lý do đã được Ðức Giêsu cắt nghĩa: “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Sau này sách Tin Mừng của Luca sẽ xác định rõ Ðấng được cưu mang trong dạ Ðức Maria sẽ “được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Người chỉ là con ông Giuse theo luật. Giuse đã đón nhận ơn cứu độ hằng chờ mong. Và nhờ việc ông đón nhận, và lãnh trách nhiệm đặt tên cho Con Trẻ, nhận Con Trẻ là con của mình, Đức Kitô trở thành Con vua Đavít như lời các tiên tri đã loan báo. Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

  1. Bài Tin mừng hôm nay gọi thánh Giuse là người công chính. Chúng ta hiểu sự công chính của thánh Giuse thế nào?

Bài Tin mừng hôm nay kể lại việc thành hôn của thánh Giuse và mẹ Maria. Về việc kết hôn, theo truyền thống Việt Nam trước đây: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Thường cha mẹ hai bên đã đính hôn con cái của họ với nhau khi chúng còn rất nhỏ. Nhiều khi chỉ đến ngày cưới 2 vợ chồng mới biết mặt nhau. Đối với tập tục Do Thái cũng vậy. Mỗi cuộc hôn nhân được trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn đầu là đính hôn. Việc này thường do bố mẹ hay do một người mai mối Do Thái. Ðôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.

Giai đoạn hai là lễ hứa hôn. Giai đoạn này kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau. Khi đã có lễ hứa hôn thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng dù họ chưa thực sự sống với nhau như vợ chồng. Lễ hứa hôn này rất long trọng nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ nó được.

Giai đoạn ba là lễ kết hôn theo đúng nghĩa.

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Thánh Giuse hay tin Ðức Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn hai của truyền thống Do Thái, tức sau khi đã hứa hôn, nhưng chưa chung sống với nhau. Theo tục lệ Do Thái, hai người được coi như vợ chồng, nhưng cả hai vẫn sống với cha mẹ ruột, và cả hai không được ăn ở với nhau. Đây là điều vô cùng cấm kỵ trong luật Do Thái mà sự vi phạm có thể đưa đến hình phạt nặng nề cho cả hai. Thế nhưng, bỗng dưng nàng Maria có thai. Chàng Giuse phải nghĩ gì? Tố cáo thì không đành, mà rước về cũng không được vì ngài là người công chính. Người công chính thì phải sống theo luật. Và vì thế, ông hoang mang, đau khổ. Trong hoàn cảnh này, tối thiểu Giuse có hai sự lựa chọn: một là tố giác Maria để biện minh cho sự trong sạch của mình, và như vậy, Maria sẽ phải chịu hình phạt nặng nề, có thể là bị ném đá; thứ hai, Giuse sẽ âm thầm bỏ đi để hàng xóm láng giềng tưởng rằng chàng là người sở khanh thiếu trách nhiệm. Làm cho Maria có thai rồi bỏ trốn.

Thánh Giuse đã chọn giải pháp thứ 2. Giuse sẵn sàng chịu người đời nghĩ xấu về mình, nhưng họ sẽ nghĩ tốt về Maria, họ sẽ thương hại tội nghiệp cho Maria và điều đó có lợi cho nàng trong hoàn cảnh không chồng mà có con thơ. Sống công chính đòi hỏi phải hy sinh. Và quả thật Giuse là người công chính. Qua tình tiết éo le giữa Giuse và Maria, có thể nói tình yêu của Giuse dành cho Maria thật tuyệt vời và cao thượng. Vì nếu không yêu thì chắc Giuse đã tố cáo Maria để bảo vệ thanh danh của mình. Có lẽ Giuse cũng đau khổ khi thấy Maria mang thai mà chính mình không phải là tác giả. Có lẽ Giuse cũng thao thức nhiều đêm để suy nghĩ về cách đối xử với người yêu. Và giải pháp sau cùng của những người yêu nhau là hy sinh chính bản thân để có lợi cho người mình yêu. Giuse đã hy sinh danh dự của mình mà bỏ đi cách âm thầm để mang tiếng là thiếu trách nhiệm, nhưng có lợi cho Maria trong hoàn cảnh éo le ấy. Giuse là người công chính vì ngài không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn. Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh” (sẽ mang tiếng là làm cho mẹ Maria có thai rồi bỏ trốn). Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, “sự công chính nội tâm” trùng với “tình yêu”. Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế. Theo ngôn ngữ ngày nay, người ta có thể nói rằng Giuse là người thanh niên đáng nể, chàng đã dàn xếp sự việc thật khôn ngoan khéo léo. Mặc dù cảm thấy bị người hôn thê phản bội, chàng vẫn bình tĩnh, sáng suốt và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định một cách hợp lý.

Chính vì thế, sứ thần đến truyền tin cho ông là Mẹ được thụ thai “bởi phép Chúa Thánh Thần”. Do đó, thánh Giuse mới đón tiếp Đức Maria về nhà mình.

Đó là cách giải thích phổ thông về sự công chính của thánh Giuse. Nhưng lối giải thích này vẫn chưa sáng tỏ gì cho lắm. Bài tin mừng này còn được các nhà chú giải Kinh thánh đưa ra một lối giải thích khác xem ra dễ hiểu và sáng sủa hơn. Họ kết hợp bài Tin mừng theo thánh Matthêu này với Tin mừng theo thánh Luca. Họ cho rằng, Đức Maria đã chia sẻ với Thánh Giuse về sứ mạng cao trọng này. Và do đó, thánh Giuse đã biết trước khi hai người về chung sống rằng Đức Maria mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy lối lý giải này thích hợp với bản văn Tin mừng. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy nơi Tin mừng Luca, Đức Maria sau khi nhận lời sứ thần truyền tin, Mẹ đã không giữ niềm vui trọng đại này cho riêng mình, Mẹ đã đem tin vui đó loan báo cho người chị họ là bà Êlisabét (x. Lc 1, 39-45). Người chị họ ở xa mà còn được Mẹ loan báo, thì chẳng lẽ Mẹ lại giấu vị lang quân của mình? Mẹ là người tốt lành, thánh thiện. Mẹ biết sự thật và Mẹ không để cho hôn phu của mình phải ngờ vực.

Mặt khác, chúng ta thấy, sứ thần hiện ra với Giuse và nói với ngài rằng “đừng ngại” khi đón Đức Maria về nhà mình. Thánh Giuse ngại là bởi vì người được biết trong việc này có sự can thiệp của Thiên Chúa, mà người lại quá ư hèn mọn không xứng đáng để lãnh nhận niềm vinh dự cũng như trách nhiệm trong kế hoạch trọng đại ấy. Lý giải như thế, hiệu quả tiếp theo là chúng ta sẽ dễ dàng hiểu vì sao Kinh thánh lại gọi Thánh Giuse là “người công chính”. Công chính của Thánh Giuse ở đây chắc chắn không phải ở chuyện giữ luật Môsê đến từng chi tiết, bởi nếu như thế, hẳn người đã làm thủ tục để đưa Đức Mẹ ra toà. Công chính ở đây cũng không phải là việc Thánh Giuse không muốn làm cha “bất đắc dĩ”. Thánh Giuse Công chính là bởi vì người thấy mình không xứng đáng làm cha một đứa trẻ mà ông biết nguồn gốc xuất phát không do con người mà do thần linh. Làm chồng của một người mà ông biết là bà đã được hiến thánh cho Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ.

Thánh Giuse tỏ ra lo lắng là bởi vì người được biết trong việc này có sự can thiệp của Thiên Chúa, mà ngài lại quá ư hèn mọn không xứng đáng để lãnh nhận niềm vinh dự cũng như trách nhiệm trong kế hoạch trọng đại ấy, nên ngài muốn rút lui. Hơn nữa, là người tự trọng, nên thánh Giuse không dám nhận là của mình cái gì không thuộc về mình.

Cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ ‘mầu nhiệm’, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).

Lời Ngôn sứ Isaia nói về Đấng Emmanuel hoàn toàn được ứng nghiệm khi Thánh Giuse đón Đức Maria về nhà mình. Cũng chính từ đây, Chúa Giêsu đàng hoàng bước vào dòng họ vua David, tiếp tục làm nên những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Được như thế, nhờ có công rất lớn của Cha Thánh Giuse.

Thánh Giuse, Đấng Công chính đã đón nhận ơn Chúa thật đơn sơ, nhưng cũng thật mãnh liệt. Suốt đời chỉ tắm mình trong ơn Chúa, thánh Giuse trở nên con người của lòng bác ái, và độ lượng vô song. Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.

Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ mộc. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Thật vậy, nếu không có Thánh Giuse, không biết Ðức Maria xoay sở làm sao trong việc dưỡng dục Ðức Giêsu và hướng dẫn Thánh Gia vượt qua bao sóng gió trong cuộc đời. Trước khi trở thành nghĩa phụ của Chúa và gia trưởng gương mẫu, Thánh Giuse đã phải trải qua một thử thách rất lớn. Không những thế, Thánh Nhân còn là một người dọn đường âm thầm nhất cho Con Chúa giáng trần, đem lại niềm vui cho muôn dân. Vậy chúng ta có thể học hỏi gì nơi Thánh Giuse cho cuộc sống hôn nhân và gia đình hôm nay? Thánh Giuse quả thực là một tấm gương khiêm tốn và vâng phục. Ngài làm được tất cả vì đã tin tưởng tuyệt đối vào lời Chúa. Chính niềm tin này đã khiến Thánh Giuse xứng đáng được gọi “là người công chính.”(c.19) Niềm tin đó cũng sẽ giúp ngài tìm ra lối thoát trong mọi nghịch cảnh và chu toàn bổn phận của một gia trưởng gương mẫu. Trong gia đình, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của người cha. Hình ảnh Thánh Giuse nêu cao mẫu gương gia trưởng cho mọi gia đình. Không thể hướng dẫn gia đình và giáo dục con cái thành công, nếu không sống công chính và vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Quả thực, trong các tường thuật về Giáng sinh, bao giờ cũng có hình ảnh người mẹ, nhưng tin mừng hôm nay làm nổi bật tầm quan trọng của hình ảnh người cha. Thực tế, thánh Giuse rất quan trọng. Cảnh Giáng Sinh nhắc nhớ mọi người biết Chúa không chỉ sinh ra cho một người mẹ, nhưng còn cung ứng cho chúng ta một nguồn tài liệu phong phú để suy tư giữa một thời đại phải đối phó với những chống đối về hôn nhân và gia đình. Ðó là cách tốt nhất giúp chúng ta có kiến thức cơ bản về gia đình qua Thánh Gia. Thay vì đưa ra các nhân vật tùy thích, năm nay lại trưng bày các hình ảnh giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa quan trọng của việc giáng sinh, về hoàn cảnh Chúa Giêsu sinh ra, nhưng cũng nhắc chúng ta nhớ đến vai trò trọng yếu của Thánh Giuse. Rõ ràng trong khung cảnh gia đình, Thánh Giuse đã tìm được một vị trí và vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người đã chu toàn sứ mệnh cao cả nhờ tình yêu và lòng trung tín trong đời sống hôn nhân.

Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.  Ngài luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ngài chỗi dậy để làm điều gì đó. Ngài bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.  Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse. Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

 Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ. 

  • Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!’ Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2,13-14) .
  • Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen” (Mt 2,19-21).
  • Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét” (Mt 2, 22-23) .

 Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới. Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.

  1. Đức Giê-su sinh ra bởi mẹ đồng trinh

Chủ ý của bài Tin Mừng hôm nay không nhắm vào sự công chính của Giu-se cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giê-su nơi cung lòng đồng trinh của Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, người ta thường nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai nghĩ tới sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa! Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Ma-ri-a quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Ma-ri-a đã sống tinh thần «tự hủy», để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng của mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Ma-ri-a cũng có thể nói như Đức Giê-su: «Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi» (Ga 5,30; x. 6,38), hay như thánh Phao-lô: «Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi» (Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ «Xin vâng» khi sứ thần truyền tin cho Ngài.

Mọi người Ki-tô hữu, kể cả người sống bậc vợ chồng, nhất là những kẻ quyết tâm theo Chúa, quyết tâm nên thánh, đều có thể và cần phải sống «đồng trinh» hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, một người đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại không đồng trinh về mặt tinh thần, chắc chắn không có giá trị bằng những người tuy không đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại đồng trinh về mặt tinh thần. Vì đồng trinh thể chất chỉ là phương tiện đồng thời là một dấu chỉ hay hình thức cụ thể nhất của sự đồng trinh tinh thần vốn phải là bản chất và nội dung của đồng trinh thể chất. Quá nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh thể chất mà quên lãng hay không đề cao sự đồng trinh tinh thần là một thứ tu đức què quặt và bị lạc hướng. Sự đồng trinh tinh thần bao giờ cũng có giá trị hơn rất nhiều, cho dù đồng trinh thể chất vẫn có giá trị riêng của nó.

  1. Mỗi người we cũng có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mỗi người có ơn gọi riêng tùy theo hoàn cảnh sống của mỗi người: công nhân, sinh viên, cha/mẹ, vợ/chồng, bác sỹ, thầy cô….Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.

Noi gương thánh Giuse, chúng ta hãy sống khiêm tốn và vâng phục trong đức tin như thánh Giuse. Khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn trước mặt Chúa và mau mắn thưa lên 2 tiếng xin vâng. Nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả vì chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa. Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu.

Như Đức Maria góp máu thịt với Ngôi Lời, như Giuse giúp Chúa trở thành Con vua Đavít, chúng ta phải làm gì đưa Chúa vào thế gian, vào xã hội? Mà thế gian, xã hội trước hết là con người và đời sống của ta. Nếu Chúa ngự trị trong con người của ta hơn, khi ta xua đuổi mọi tâm tư, cảm nghĩ, khuynh hương xác thịt và thế gian đi, Chúa sẽ nhập thế nơi ta vì ta đã trở thành Kitô hữu nhiều hơn. Và nếu thái độ, hành vi của ta nơi xã hội chiếu tỏa tinh thần của Chúa, xã hội sẽ thấy Ơn Chúa hiện đến với mọi người và ta sẽ như Giuse đưa Chúa vào dòng dõi loài người.

Việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu cách nhiệm lạ đã được ngôn sứ Isaia báo trước, như chúng ta được nghe trong bài đọc Cựu Ước và bài Phúc âm của phụng vụ hôm nay xác nhận: “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Is 7:14 & Mt 1:23). Là người đầu tiên đón nhận Tin mừng Chúa nhập thể và cũng là người cưu mang Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ đồng thời đã trở thành người chứa đựng chính nguồn ơn cứu độ, nguồn hy vọng cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Và người được Thiên Chúa ở cùng trước tiên và trên hết chính là Mẹ Maria. Chỉ qua Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, nhân loại mới được đón nhận Chúa Cứu Thế.

Vì Mẹ Maria là Người đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi thụ tạo và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ chính Ngôi Lời của Chúa, Mẹ sẽ giúp tất cả chúng ta biết cách sống đẹp lòng Chúa, biết cách đón nhận Chúa vào tâm hồn mình, nhất là biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nếu chúng ta biết noi gương thánh Giuse trong Tin Mừng hôm nay tiếp nhận Mẹ về nhà mình. Thánh Louis Maria Montfort và nhiều vị đại thánh khác trong Giáo hội cho rằng sở dĩ ngày nay nhiều người chưa nhận biết và yêu mến Chúa cách xứng hợp là vì họ chưa nhận biết và yêu mến Mẹ Maria đúng như ý Chúa muốn. Như Chúa đã dùng Mẹ Maria để đến với chúng ta, Người cũng muốn chúng ta nhờ Mẹ Maria để đến với Người. Vì vậy, để dọn mình cách tốt đẹp nhất mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh cũng như để sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse mau mắn từ bỏ mọi bối rối nghi nan về sự cần thiết phải đón nhận Mẹ Maria vào cuộc sống tâm linh của mình. Rồi cùng với thánh Giuse, chúng ta hãy nỗ lực tích cực thực hiện thánh ý và chương trình tình yêu Chúa dành cho chúng ta từ đời đời bằng cách bước vào liên hệ yêu thương mật thiết với Mẹ Maria để nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ và vì Mẹ, chúng ta sẽ đón nhận và yêu mến Chúa Giêsu.

Năm B 

Bài đọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-11. 16

Sau khi vua Ðavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Ðavít: Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa. Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây “nhà” cho Ðavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.

Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Ðavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Ðavít nữa. Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người: Ðức Giêsu là dòng dõi Ðavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Ðavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Ðức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Ðức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Ðức Mẹ biết về tương lai của hài nhi: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Ðavít tổ phụ Ngài… và triều đại Ngài sẽ vô tận”. Thượng đế luôn thực hiện những gì Ngài muốn làm: xây dựng một ngôi đền vĩnh viễn bằng xương thịt giữa nhân loại. Theo kiểu nói của thánh Gioan thì: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cắm lều giữa chúng ta.” (Ga 1, 14). Ngôi đền thờ đích thực và vinh hiển này sẽ tồn tại mãi mãi, linh động và là địa chỉ chắc chắn để nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa.

Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Ðavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Ðức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Ðức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Ðức Mẹ phải sinh Ðức Giêsu trong hang đá. Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta! Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Ðavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Ðức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa. Natan nói với Ðavít: “Thiên Chúa ở cùng bệ hạ”; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria: “Thiên Chúa ở cùng cô”. Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.

Ðể chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng “cất nhà” cho Chúa. Ðó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v. v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.

Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.

Chúng ta là đền thờ mà David đã muốn xây cất. Cuộc sống của mỗi người là tác phẩm nghệ thuật duy nhất làm đẹp đẽ tường thành Thiên Chúa, trang hoàng ngôi nhà vĩnh cửu của Ngài.

Bài đọc II: Rm 16, 25-27

Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ: đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Ðức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân. Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Ðavít và thiên sứ Gabriel nói với Ðức Mẹ: triều đại của Ðức Giêsu mở rộng đến vô biên.

Tin Mừng

  1. Trong Chúa Nhật thứ II và thứ III Mùa Vọng, chúng ta đã cùng với Gioan chuẩn bị tâm hồn đón Chúa bằng việc dọn đường. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi ta cùng với Mẹ Maria chuẩn bị tâm tình và thái độ đón Chúa đến.

Việc Đức Giêsu được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Kitô giáo. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giêsu chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.

  1. Thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây:

 -Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa. Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

– Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa. Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn. Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời.

Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa Giáng Sinh.

  1. Chiêm ngắm cuộc đời Đức Mẹ, chúng ta không chỉ thấy Trái tim Đức Mẹ thốt lên hai tiếng “xin vâng” trong biến cố Truyền tin, khi chứng diện trước Sứ thần của Thiên Chúa; mà cả cuộc đời Đức Mẹ, trái tim vẫn luôn rung nhịp vâng theo thánh ý Thiên Chúa giữa bao nghịch cảnh. Mẹ vâng phục Thiên Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi biến cố, mọi phút giây. Trong biến cố hạ sinh con nơi hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vu đêm khuya gió rét, biến cố trốn sang Ai Cập, dâng con trong Đền thờ, ẩn cư tại Nazareth … ở mọi thời khắc Đức Mẹ đều thinh lặng, nhưng con tim ghi nhớ và suy niệm (x. Lc 2,19). Cả biến cố dưới chân thánh giá, Mẹ chứng diện trước cái chết của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác, trao phó con tim mình cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã thực hiện lời Chúa cách trọn vẹn và suốt cuộc đời của Mẹ, Maria đã luôn làm theo ý Chúa. Do đó, dọn đường cho Chúa đến là lắng nghe và thực thi lời Chúa trong đời sống của mình. Đây là con đường đưa nhân loại, đưa từng người vào mối liên lạc mật thiết thâm sâu với Chúa Giêsu. Lời của Chúa dẫn nhân loại đi vào một cuộc sống mới, một thế giới mới, thế giới nhuộm đầy tình thương. Lời của Chúa dẫn nhân loại tới tận Hang Đá Bêlem, để chiêm ngắm một Hài Nhi nghèo hèn, mang tên Giêsu đang nằm trong máng cỏ lừa. Lời của Chúa dẫn mỗi người, dẫn nhân loại đi tới với những người nghèo, người đau khổ, người neo đơn, những người đang vật lộn với những khó khăn của cuộc sống. Dọn đường và đón nhận Chúa là sống trọn vẹn kiếp sống làm người với lòng tin thẩm sâu. Tiếp nhận Chúa là học hỏi lời Chúa, làm cho lời Chúa thấm nhập tận đáy sâu của tâm hồn con người đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình. Mẹ Maria quả là mẫu gương chói lòa vì Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa một cách trọn hảo.

  1. Fiat là “Xin Chúa cứ làm cho tôi”, chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm “Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả”.

Tiếng “xin vâng “ của mẹ làm lay động cả đất trời, vì cho thấy, Ý định của Thiên Chúa, hay nói cách khác “Kế Hoạch” nhiệm mầu của Thiên Chúa từ trước muôn thuở đã trở nên hiện thực. Lời Thiên Chúa tuyên phạt con rắn trong vườn địa đàng, cũng là lời mà Đức Trinh Nữ Maria được ủy thác: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ, giữa giòng dõi mi và miêu duệ người nữ. Người nữ ấy sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người ”. ( St 3, 15)

“Xin vâng”: Trái với thái độ kiêu ngạo không vâng lời của E-và kết hợp với A-đam xưa trong vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a là E-và Mới thời Tân Ước đã cộng tác với A-đam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và cúi đầu thưa “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, như lời kinh truyền tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thê làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Mẹ mang Thai Nhi đi thăm gia đình Gia-ca-ri-a và làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng bà I-sa-ve (Lc 1,41). Nhất là Mẹ đã “xin vâng” khi dâng Con Yêu cho Thiên Chúa trong biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su.

Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền.” Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mọi người và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28). 

Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.

Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyên tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.

Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành đã thuật lại: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34). Bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện. Nhà Tạm là nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước, trong đó có hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Thiên Chúa đến “Cắm lều”  trong dân Israel trong suốt hành trình trong sa mạc (x. Ds 9, 17). Vào năm 598 trước Chúa Giêsu giáng sinh, Giêrusalem bị thất thủ, hòm bia mất tích, hòm bia chứng tỏ sự gần gũi Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Hòm bia Giao Ước là hình ảnh của Đức Ma-ri-a thời Tân Ước, đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, nay rợp bóng trên Mẹ: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.” (Lc 1, 35) Việc Luca chọn và dùng từ “rợp bóng” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm, cùng với máu thịt của mình, Đức Maria đã tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Mẹ và Ngài vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Đó chính là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2 (Rm16,25-27).

  1. Trong biến cố “Truyền Tin” Chúa Nhật hôm nay, Đức Maria đóng vai “thiếu nữ Xion” và “thiếu nữ Giêrusalem” của Dân thánh Chúa đã tuyển chọn… “reo vui lên hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” vì “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi” (Xp 3,14-17); (Dc 9,9). Xưa Đức Chúa Giavê ngự giữa dân người trong “Hòm Bia Thánh”, từ biến cố Truyền Tin, Đức Maria trở thành “Hòm Bia Thánh” sống động, đúng như trong Kinh Cầu: “Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy”. Đây là lý do và cũng là nền tảng của niềm vui lớn lao của toàn thể nhân loại hôm nay đang đón mừng Lễ Giáng Sinh: Lễ của Trời và Đất giao hòa, Lễ hội gặp gỡ giữa Thiên Chúa – con người: qua Đấng “Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi” (Mt 1,23).

Qua thái độ vâng phục và khiêm hạ này, Đức Maria đã chữa lành bản tính kiêu căng “muốn bằng Thiên Chúa” của Evà và chính thức trở thành “Evà Mới”: Mẹ của Sự Sống của cả dòng giống nhân loại mới. Từ đây, Tin Mừng Cứu Độ được loan truyền tới tận cùng bờ cõi trái đất. Hết mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi đón nhận ơn cứu độ.

Chỉ có người tín hữu nào cưu mang Chúa giống như Đức Maria, nghĩa là cưu mang Chúa qua Lời Chúa, đời sống được soi dẫn bởi Luật Chúa, Tin Mừng của Chúa biến thành xương thịt của chính mình, sau đó mới có thể sinh Chúa và trao ban Chúa cho người khác như Đức Maria.
 

  1. Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Mẹ không bao giờ vênh vang tự đắc về tước vị của mình, trái lại Mẹ luôn khiêm tốn nhận ra rằng: Mình chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã thưa lên cùng sứ thần Gabriel: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần Gabriel truyền. Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa. Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Ma-ri-a, và cũng có những người làm hỏng việc”, khiến Ngài không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài? Ðức Giê-su có nói: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” ( Mt 6, 33 ). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế ! Do đó, mọi Ki-tô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của Thánh Phao-lô: Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” ( 1 Cr 10, 12 ). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.

Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Ðó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Ðức Giê-su và Ðức Ma-ri-a – là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi – phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Ðây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” ( Rm 8, 30 ).

Cách thức làm cho nên công chính của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: Ðức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn” ( Dt 2, 10 ); Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ” ( 1 Tm 3, 10 ); Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” ( 1 Pr 1, 7 ). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” ( Rm 8,18 ).

Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” ( Mt 10, 22; 24, 13 ).

Thiên Chúa vẫn thuờng chọn gọi những người có tâm hồn khiêm hạ như thế để phục vụ cho những chương trình lớn lao của Ngài. Một Môsê nhìn nhận mình là một kẻ ngọng ngịu, một Đavít xác nhận mình xuất thân từ một kẻ chăn chiên vô danh tiểu tốt, một Giêrêmia thừa nhận mình chỉ là đứa trẻ không biết ăn nói, một Gioan Tẩy Giả thú nhận mình còn bất xứng hơn cả một người tôi tớ của Đấng Cứu Thế, một Phaolô công nhận mình chỉ là đứa trẻ sinh non, sinh thiếu tháng, v.v…. Đời sống của các ngài và đặc biệt của Mẹ Maria mời gọi mỗi người chúng ta luôn ý thức giới hạn của mình để biết sống khiêm tốn trong thân phận làm người và làm con cái Chúa. Trong đêm Giáng Sinh, những người được diễm phúc đón Chúa Hài Nhi là những con người nhỏ bé nghèo hèn khiêm hạ, như các mục đồng, như 3 nhà đạo sĩ…; chứ không phải như các Thượng tế, các luật sĩ và Biệt phái. Thiên Chúa vẫn thường “nâng cao những người phận nhỏ”. Vì họ tựa như chiếc bình trống rỗng sẵn sàng để cho Chúa đổ đầy. “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư” là vậy.

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3: 32-35) Muốn làm mẹ Đức Kitô thì điều kiện đầu tiên là phải cưu mang Chúa trong tâm mình. Như Đức Maria ngày xưa, sau khi mang Đức Giê-su trong lòng, Mẹ hối hà lên đường thăm viếng bà Ê-li-da-bet dể mang Chúa đến cho gia đình người chị em họ. Nghe lời chào của Mẹ Maria, Gioan đã nhày mừng trong lòng thân mẫu khi nhận ra Chúa tới viếng thăm. Chúng ta cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa – cảm nghiệm Chúa – cưu mang Chúa trong lòng, chúng ta sẽ hối hả mang Chúa đến cho anh chị em khác bằng những chia sẻ đơn sơ, phát xuất từ cảm nghiệm trong tâm hồn. Bằng những hành động cụ thể, phát xuất từ sức mạnh và tình yêu của Chúa. Nhờ đó anh chị em đón nhận được một vài tia sáng chiếu soi, khiến cho lòng họ bừng sáng lên một chút, cho tới khi họ cũng nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình – Tâm linh vào đời – Chính lúc đó, chúng ta có thể nói: Chúng ta cũng là mẹ Thiên Chúa –  bởi vì đã sinh ra Đức Kitô nơi anh em.

Năm C

Trong Bài Đọc I, tiên tri Mikha báo trước gần 700 năm trước khi Đấng Thiên Sai ra đời: Ngài sẽ sinh ra trong một thành nhỏ bé nhất của Giuđa là Bê-lem, trong một thị tộc nhỏ bé nhất là Ephratha, Bê-lem cách Giêrusalem khoảng 30 dặm về phía Nam. Lời tiên tri này rất quan trọng, vì nó sẽ được các kinh sư dùng để trả lời cho ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến hỏi: Vua người Do thái mới sinh hiện ở đâu? Bêlem là nơi sinh trưởng của vua Đavít. Không những sinh ra tại thành nhỏ nhất, Ngài con sinh ra ở nơi nghèo nhất: trong máng cỏ… Nhưng nguồn gốc của Ngài có từ muôn đời và Ngài dùng uy quyền cai trị của Thiên Chúa để mang ơn cứu rỗi cho mọi người và cứu thoát tất cả các chi tộc của Israel.

Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do Thái quả quyết Thiên Chúa hài lòng những người tuân phục và làm theo ý muốn của Ngài hơn trăm ngàn của lễ hy sinh chiên cừu. Hy lễ của Đức Kitô vượt xa các lễ vật của Cựu Ước.

(1) Lễ vật của Cựu Ước: “Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.” Trước hết, máu chiên bò đổ ra thay cho con người không phải là máu của tự nguyện, nhưng bị con người bắt và giết đi. Thứ hai, máu này không đủ để tha tội, nhất là những tội cố tình, nên phải tái diễn nhiều lần. Sau cùng, máu này không có sức thánh hoá con người hay làm cho trở nên tốt hơn.

(2) Hy lễ của Đức Kitô: ”Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” Máu của Đức Kitô đổ ra chính là máu của Con Thiên Chúa, Ngài tự nguyện hy sinh chịu chết cho con người. Máu này chỉ cần đổ ra một lần là đủ vì có sức mạnh để tha tất cả các tội của con người. Từ đó đến nay, Đức Kitô đã chấm dứt lễ tế cũ và thay bằng Thánh lễ. Điều này được chứng minh trong lịch sử là Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy hoàn toàn từ năm 70 tới giờ; người Do Thái có muốn dâng lễ tế đền tội cũng chẳng còn Đền Thờ mà dâng. Sau cùng máu này không những tha mọi tội, mà còn có sức thánh hóa và làm cho con người trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ các ơn thánh của bí tích Thánh Thể.

Tin Mừng

  1. Biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Êlisabét, người chị họ, cho chúng ta thấy những đức tính nổi bật nơi Đức Mẹ.

Thông thường, người kém địa vị hơn phải đi thăm người có địa vị cao hơn, hay người cần được ban ơn phải đi thăm người có quyền ban ơn. Mẹ đã chọn đi bước trước để chào thăm và giúp đỡ người chị họ chứ Mẹ không đợi người chị họ Êlisabét đến thăm mình; dù Mẹ biết mình đang cưu mang Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa Tối Cao. Khi một người ở địa vị cao hơn đi bước trước để thăm viếng, người đó biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu chân thật khi quan tâm đến người mình yêu. Mẹ cũng mang niềm vui và muôn ơn của Thiên Chúa đến cho bà Êlisabét qua cuộc thăm viếng này. Nếu Thiên Chúa Tối Cao đã biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu khi Ngài viếng thăm con người, chúng ta là ai mà ngồi yên trông chờ người khác đến thăm viếng chúng ta!

Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia. Khi Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Ðức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Sự hiện diện của Ðức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Ðức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn. Gia đình Bà Êlisabét là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

  1. Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.

Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái  trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Híp-ri nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Hr 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.

Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.

“Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.

Ðến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta. Ðem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Ðức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa. Gương Ðức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.

Mẹ đã không giữ riêng cho mình niềm vui trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ nhưng đã chia sẻ với người chị họ của Mẹ với tâm hồn quảng đại,vị tha nêu gương cho người Kytô hữu chúng ta. Đức tin luôn đi đôi với đức mến sẽ luôn làm cho đời sống chúng ta thêm phong phú và tràn đầy ý nghĩa. Chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Giáng sinh,chúng ta hãy nơi gương sống của Mẹ Maria, để niềm vui Gíang Sinh thực sự không chỉ cho dành cho riêng mình mà còn cho cả tha nhân.

Lòng tin thúc đẩy bước chân Mẹ thực thi bác ái. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo. Đức tin đi đôi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều đức tin càng mạnh.

  1. Ðức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.

Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá. Hạnh phúc cho những ai tin vào Thiên Chúa và thực thi đức ái trong đời sống hàng ngày. Sống đạo là sống niềm tin thể hiện qua việc làm: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”(Mt 11,19).

  1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một trích đoạn thật cảm động và đầy ngạc nhiên: một thiếu nữ còn rất trẻ đã đính hôn và đang mang thai, đã làm một cuộc hành trình dài (150 km) đến một làng hẻo lánh vùng núi tên là Ein Karem – Giuđa, quê hương của Gioan Tẩy Giả và ở lại đó trong ba tháng.

Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Ðavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Ðức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước: Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; Ðavít đã “kêu lên” rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên”: làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi. Và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng và ông được Thiên Chúa ban phúc thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ người chị họ Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc (x. 2Sm 6, 9-11).

  1. Bà Êlisabét tuyên xưng những sự thật về Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ; không một phụ nữ nào được Thiên Chúa ban ơn và chúc phúc cho hơn Đức Mẹ. Bà cũng được linh hứng của Chúa Thánh Thần để tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa; điều mà phải đợi đến Công Đồng Êphêsô vào năm 430, Giáo Hội mới chính thức công nhận danh hiệu này. Thứ hai, con trẻ Gioan đang trong dạ mẹ cũng được chúc phúc; vì Thiên Chúa đã đoái thương và viếng thăm dân Ngài. Khi Thiên Chúa đến viếng thăm, Ngài mang ơn cứu độ đến cho con người. Sau cùng, bà Êlisabét nói rõ lý do của mọi phúc lành: Vì Mẹ Maria đã tin vào những gì Thiên Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện. Đức tin làm cho con người được chúc phúc và trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, chứ không do bất cứ sự cao trọng nào hay sự xứng đáng của con người.
  1. MÙA GIÁNG SINH

 

LỄ GIÁNG SINH- LỄ ĐÊM

  1. Ngày xưa, theo truyền thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm. Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính”, nguồn sáng và nguồn sống đích thực – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biến cố Nhập thể.

Việc Đức Giêsu sinh ra ứng nghiệm những lời tiên báo trước đó về Đấng Cứu Thế: Ngài là con người chứ không phải thiên thần (x. St 3,15; Hr 2,16), là người Do Thái, con cháu Abraham, chứ không phải dân tộc khác (St 12,1-3; Ds 24,17), thuộc dòng tộc Giuđa (St 49,10), là con cháu Đavít (2Sm 7,1-17), sinh tại Bêlem (Mk 5,2) bởi một người nữ đồng trinh (Is 7,14). Sự việc hoàng đế Augúttô ra lệnh kiểm tra dân số khiến Giuse và Maria phải rời Nadarét ở miền Bắc để vào Bêlem, quê hương của Giuse (thuộc miền Nam), để khai tên tuổi xem ra là ý muốn của vị hoàng đế này. Điều này khiến gia đình vừa thành lập của Giuse và Maria phải điêu đứng khổ sở, và Đức Giêsu cũng phải chịu cực theo từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Nhưng sự việc này không nằm ngoài sự xếp đặt của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể của lịch sử, là Đấng điều khiển lịch sử. Nhờ đó, lời tiên tri nói Ngài sẽ sinh ra tại Bêlem mới ứng nghiệm. Ta nên nhận ra thánh ý và cách thế hành động của Ngài qua những biến cố lịch sử.

Qua sự việc trên, ta nhận ra rằng có những sự việc trong đời ta và trong lịch sử có vẻ hết sức phi lý dưới con mắt loài người, nhưng chúng không bao giờ vượt khỏi quyền năng và sự an bài khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa. Cũng qua sự việc này, ta thấy cách Thiên Chúa huấn luyện những người mà Ngài đặc biệt yêu thương như thế nào. Gia đình Ngài yêu thương nhất mà còn phải trải qua biết bao thử thách, đau khổ và nhục nhã như thế để được thánh hóa, để góp phần vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa, lẽ nào chúng ta muốn nên hoàn thiện, muốn góp phần vào việc của Ngài lại không phải trải qua đau khổ?

  1. Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc, sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngã phạm tội, liền bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (St 3, 23). Tuy nhiên vì “Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Chúa” (St 1:27), Ngài không để con người phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa ban một Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại (St 3:15) và danh hiệu của Ngài là “Đấng Cứu Tinh” (Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái thì “Messiah” có nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm “Vua”, làm “Tiên Tri” (Prophet), làm thầy “Tư Tế” đều được phong chức chính thức bằng việc xức dầu thánh (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ “Messiah” chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là “Christos”. Danh từ “Christos” chuyển sang tiếng La-tinh là “Christus” và sang tiếng Pháp, tiếng Anh là “Christ”, Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của Công Giáo, và các sách đạo đức) chuyển dịch là “Kitô” (hay Kytô). Theo Kitô Giáo thì “Đấng Kitô” đã Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra thì được đặt tên là “Giêsu” (Jesus) theo như lời sứ thần truyền tin cho Maria, mẹ Ngài, đã báo trước (x. Luca 1, 31; 2, 21). Danh từ “Giêsu” theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là “Đấng Thiên Chúa Cứu Độ”, sau đó hiểu là ” Đấng Cứu Độ” (Savior). Vì Chúa “Giêsu” chính là “Đấng Kitô” Thiên Chúa đã hứa, nên tên Ngài thường được gọi là “Giêsu Kitô”. Thánh Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu “Giêsu Kitô”.
  2. Chúa đã đến trần gian như một người nghèo: Ngài sinh ra trong hang bò lừa tanh hôi, không kèn, không trống, không mũ, không lọng. Chúa đến một cách âm thầm nơi hang bò lừa Bêlem khi các quán trọ đều từ chối vì đã đông khách và sợ phiền toái, liên lụy. Ngài lớn lên trong sự khó nghèo của vùng quê với những con đường đất đỏ, bụi tung bay. Ngài không ngại lê bước chân tới mọi nơi, mọi chốn trên nhiều con đường với đôi chân đất đơn hèn để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngài yêu mến những con đường dẫn lên núi để gặp dân chúng. Ngài đi qua những sa mạc nóng bỏng để gặp mọi người. Ngài đã đi qua những con đường ngoằn ngòeo dẫn tới biển để gặp các môn đệ của Ngài. Ngài đã lê bước lên núi sọ, vai vác thập hình để thực hiện ý của Cha Ngài cứu độ nhân loại. Ngài chấp nhận một cuộc sống không nhà, không cửa, không hòn đá gối đầu. Chúa chấp nhận cái chết trần trụi trên thập giá, bị treo lơ lửng giữa mây trời…Chấp nhận như một con người nghèo hèn. Chúa vẫn ước mong đi trên những nẻo đường đơn sơ dẫn đến lòng người, dẫn đến con người, dẫn đến từng người… Vâng, đêm nay là đêm đất trời giao duyên, đêm đầy hoa và đầy ánh sáng và niềm hy vọng đang tuôn tràn: “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người Con đã ra đời vì chúng ta”(Is 9,5).

Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.

Trước hết, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong thụ tạo của Người, nhất là bởi quyền năng duy trì của Người. Thiên Chúa không chỉ tạo dựng mọi sự nhưng còn duy trì thụ tạo hiện hữu. Thứ hai, Thiên Chúa hiện diện trong lời của Người trong Kinh Thánh. Có người diễn tả Kinh Thánh như một lá thư đầy thương yêu của người Cha gửi cho các con. Cũng giống như một người cha tỏ lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong một lá thư thì Thiên Chúa cũng tỏ lộ tư tưởng của Người cho chúng ta trong Kinh Thánh. Do đó, trong một ý nghĩa đích thực, Kinh Thánh giúp tâm trí của Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong một phương cách thực tế và hiển nhiên. Sau cùng, Thiên Chúa hiện diện trong Con của Người là Đức Giêsu. Với sự giáng trần của Đức Giêsu, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta vươn lên một bước lớn lao. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta không chỉ qua thụ tạo, qua lời trong Kinh Thánh nhưng còn qua con người. Sự giáng sinh của Đức Giêsu giúp Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong một phương cách mà chúng ta có thể trông thấy, có thể chạm đến và có thể nghe được. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta trong thân xác của Đức Giêsu.

Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ. Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa giàu sang vinh hiển vô cùng lại hạ sinh làm người trong một hoàn cảnh nghèo khổ, cơ cực nhất trần gian. Ngài đã giáng sinh trong một chuồng súc vật hôi hám, lấy máng ăn dơ bẩn của chúng làm nôi để nằm. Tự đặt mình trong hoàn cảnh của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy nhục nhã lắm! Ngài chấp nhận như thế chỉ vì yêu thương con người, vì muốn nâng con người lên và muốn họ được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: «Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có» (2Cr 8,9). Thật vậy, muốn tha nhân hạnh phúc mà mình lại không muốn hy sinh, không chấp nhận ít nhiều đau khổ vì họ, thì đó là một ước muốn không tưởng! Muốn nâng người khác lên mà lại cứ muốn trèo lên đầu lên cổ họ là một ước muốn phi lý! Người thật sự theo Chúa không thể hành động ngược lại với phương cách mà Ngài đã dùng. Nếu không theo cách của Ngài, ta chỉ là một kẻ theo Chúa giả hiệu mà thôi.

Các mục đồng tượng trưng cho giai cấp thấp hèn nhất, bị bỏ rơi nhất trong xã hội và tôn giáo. Điều này cho thấy trước rằng sứ mạng của Đức Giêsu là đến vì những người nghèo khổ, bị áp bức, những kẻ thấp cổ bé miệng nhất trong xã hội… Tin Mừng Ngài đem đến là thứ tin mừng giải phóng, chỉ những ai đang bị áp bức, bị giam hãm trong đau khổ, tội lỗi, mới cần được giải phóng. Vì thế, nó phải được loan báo đặc biệt ưu tiên và trước tiên cho những hạng người này. Cũng như Đức Giêsu, các ngôn sứ đích thực đều ưu tiên phục vụ, tranh đấu, lên tiếng bênh vực những người nghèo hèn, bé mọn hoặc tội lỗi. Hành động như thế thường gây bất lợi cho giới cầm quyền trong xã hội cũng như tôn giáo, vì thế các ngôn sứ thường bị họ căm ghét, mạ lị và bách hại (x. Lc 6,23).

Chỉ có các ngôn sứ giả mới ưu tiên phục vụ những kẻ giàu sang, quyền thế, nhờ vậy mà họ được giới này ca tụng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Họ chỉ muốn phục vụ cho cơ cấu hay tập thể đang đem lại địa vị, sự ưu đãi và quyền lợi cho họ. Phục vụ Thiên Chúa hay phục vụ tha nhân nhiều khi chỉ là chiêu bài họ dùng để được quần chúng ủng hộ mà thôi. Họ chỉ quan tâm phục vụ và củng cố những cơ cấu đem lại lợi ích trần tục cho họ, chứ không thật sự quan tâm phục vụ Thiên Chúa hay những người cùng khổ. Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả khác nhau ở điểm này, mặc dù bên ngoài họ không mấy khác nhau. Tuy nhiên phân biệt ngôn sứ thật và ngôn sứ giả rất dễ, chỉ cần nhìn vào việc làm hay cách hành xử của họ là nhận ra ngay. Đức Giêsu nói: «Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Những ai chỉ ưu đãi hoặc coi trọng những người giàu sang quyền thế, đồng thời coi thường hay bạc đãi những người nghèo hèn khốn khổ, chắc chắn không thể là một ngôn sứ đích thực.

  1. Chúa Kitô đã giáng sinh. Đó là niềm vui to lớn, vĩ đại nhất, như lời sứ thần nói với các mục đồng : “Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”. Quả thực, đó là tin vui mừng nhất mà thế giới có thể nhận được, đó là khởi điểm của mọi tin mừng.

Hát lên mừng Chúa một bài ca mới.

Hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!

Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!

Ngày qua ngày hãy loan báo ơn Người cứu độ,

Vì “Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta. Nhân loại vẫn còn biết bao người làm ngơ với biến cố Con Thiên Chúa làm người. Họ thờ ơ, họ lãnh đạm và họ bịt tai, nhắm mắt để dứt khóat không nhận ra Vua vũ trụ làm người. Chỉ có những con người đơn thành, tay sạch, lòng ngay, chỉ có những người nghèo khao khát ơn cứu độ, chỉ có những mục đồng mới hối hả đi tìm gặp Hài Đồng Giêsu.

Lễ Giáng Sinh là đại lễ, là ngày hội vui của tình thân ái. Thiên Chúa là Đấng đã bắc lên nhịp cầu thứ nhất, nối kết trời với đất, Thiên Chúa với con người khi Con Một xuống thế làm người. Rồi chính Ngài cũng bắc một nhịp cầu thứ hai, nối kết những ai đến với Ngài lại với nhau. Nói rõ hơn, Chúa yêu thương mọi người, Chúa muốn mọi người đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng nói lên, ca hát lên : “Em-ma-nu-en” : Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã làm người. Ngài đã đến để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với chúng ta, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và xin Chúa hãy dùng chúng ta như những cánh cửa nhỏ luôn luôn mở rộng, để Chúa có thể bước qua gặp gỡ mọi người, để mọi người có thể kết thân, quen biết Chúa, quen biết nhau, yêu mên Chúa và yêu mến nhau. Phúc cho những ai cảm nếm được niềm vui của đức tin. Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nhận được sự gần gũi thân thiết của Chúa, chúng ta biết rằng Ngài sống với chúng ta, chia sẻ những khổ cực của chúng ta và cứu độ chúng ta. Thế thì còn niềm vui nào bằng?

Muốn sống đúng ý nghĩa lễ Giáng sinh, chúng ta phải có tâm hồn nghèo, phải mở cửa lòng với những người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những người nghèo.

  1. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, cũng làm người giống y như ta

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm, và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1, 14) -Emmanuel

Lời, Ngôi Lời, Lời Chúa = Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giê-su (Ga 1, 1). Người và Lời chỉ là Một. Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu Thể, một Ngôi vị siêu việt có từ đời đời và đầy quyền năng. Lời Chúa là chính Chúa. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành.

Thiên Chúa nói với con người qua lời phán và hành động, bằng nhiều cách khác nhau, như trong việc tạo dựng, qua lời các ngôn sứ, trong Thánh Kinh, truyền thống sống động của Giáo Hội, việc rao giảng Phúc Âm; nhưng Người nói cách đặc biệt qua Đức Giesu Kito (Hr 1:1-2). Lời Chúa được chứa đựng trong một kho tàng duy nhất là Thánh Kinh và Thánh Truyền (x. Vatican 2, MK 9). Kho tàng đó được Đức Kito ủy thác cho Giáo Hội qua các Tông Đồ, nên cần được bảo tồn, lưu truyền và giải thích bởi Huấn Quyền sống động của Giáo Hội (x Vatican 2, MK 10). Trong suốt lịch sử của mình, dân Chúa luôn tìm được sức mạnh nơi Lời Chúa. Ngày nay cộng đoàn Giáo Hội cũng được ban sức mạnh nuôi dưỡng và lớn lên nhờ biết lắng nghe, học hỏi, cử hành và sống Lời Chúa (x. Vatican 2, MK 21).

“Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước. Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ. Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa. Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”. Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Chỉ nguyên việc xuống thế làm người, chia sẻ trọn vẹn kiếp người của chúng ta, Đức Kitô đã cho thấy con người có giá trị và cuộc nhân sinh đáng quý chuộng tới mức nào. Rồi trong suốt cuộc đời trần thế, Người luôn luôn đứng về phía sự sống và nhân phẩm, chống lại tất cả những gì –vật chất và phi vật chất- chà đạp và huỷ hoại con người. Nếu cuối cùng, Người có vẻ như chịu thua mãnh lực của sự ác và chết trên thập giá, thì đó là một cái chết tự nguyện, trong tự do, phẩm cách và ý thức trọn vẹn: Người chết là để biểu dương sự sống, chết vì tình yêu, chết cho kẻ mình yêu, chết cho kẻ khác được sống hạnh phúc. Qua đó, Người cho thấy đâu là một cuộc đời ý nghĩa nhất, thành tựu nhất. Chính vì thế, công đồng Va-ti-ca-nô II khẳng định “Đức Kitô là con người hoàn hảo” và “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể”

Để là một con người, Đức Giê-su đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ; trong một xã hội có vua có quan, có phép có tắc; trong một tôn giáo có phẩm có trật, là luật có lệ, y trang như mọi người. Ngài đã hoàn toàn «trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế» (Pl 2,7), cũng «sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật» (Gl 4,4) như chúng ta, cũng «phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Hr 5,8-9). Vì thế, Ngài «không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội» (Hr 4,15-16). Ngài cũng từng kinh nghiệm những yếu đuối của con người khi bị ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế, khi tôi yếu đuối, sa ngã, tội lỗi, tôi cảm thấy Ngài có thể thông cảm với tôi một cách sâu xa, và tôi biết Ngài sẵn sàng tha thứ chính vì Ngài đã từng cảm nhận được sự yếu đuối của con người như tôi.

Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức quan trọng của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã… Điều này làm tôi cảm thấy rất được an ủi khi gặp đau khổ. Tôi nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của tôi. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của tôi (x. l Pr 2,24b). Nghĩ như thế, tôi không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì tôi cảm thấy như Ngài đang cùng đau khổ với tôi, để biến những đau khổ của tôi thành một giá trị cao cả.

Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giêsu vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó.” (Mt 14,3) Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giêsu khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Mt 17,24)

Thế rồi Chúa Giêsu lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.

Lời đã làm người, và trong suốt ba mươi năm trước khi công khai loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã chỉ làm người, giống như mọi người trong mọi sự, ngoai trừ tội lỗi, và sống như mọi người. Trong khi người Do thái chờ đợi một Đấng Kitô, mà họ nghĩ rằng phải là Đấng bí mật, khác người, “chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27), thì Đức Kitô lại đến như một người bình thường, ai cũng biết cả ( x. Mc 6,3), và vì thế mà họ không tin tựởng vào Người. Mà đó cũng là thói thường của con người! Người ta thường chỉ mong mỏi, chờ đợi, tin tựởng một người có địa vị, quyền thế, có khả năng đem lại cho kẻ khác một điều gì đó: công chúng chỉ  họan nghênh một ca sĩ hát hay, chỉ vỗ tay khen thưởng một anh hề biết làm cho người ta cười; dân chúng chỉ đi xem một trận bóng đá khi có những siêu sao. Người Do thái chờ đợi một Đấng Kitô nếu không phải là Đấng siêu việt từ trời mà xuống, nếu không phải như  kiểu ông Elia trở lại trần thế, thì ít ra cũng phải là một vị quân vương, một đấng anh hùng. Nhưng đây họ chỉ thấy một “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon” (Mc 6,3). Vì thế Máccô nói: “Và họ vấp ngã vì Người”. Vấp ngã theo nghĩa là họ lấy làm chướng, không thể chấp nhận một con người tầm thường như thế mà lại có thể là Đấng Kitô.

Nhưng Đức Giêsu thì chỉ làm người như mọi người, không tìm cách sống khác ai. Chính Người đã nói về mình : “Ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ‘Ông ta bị quỉ ám’. Con người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, ban bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Lc 7, 33-34). Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn là một người thích đi hết làng này đến làng khác, thành này đến thành nọ (x. Lc 4, 43; 8,1), lang thang không có chỗ tựa đầu (x. Lc 9,58)

Chính bằng cách sống đơn sơ, giản dị, với “lòng hiền hậu và khiêm nhường” như vậy (Mt 11,29), mà Đức Giêsu mặc khải, nghĩa là vén mở cho chúng ta thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, chứ không đóng vai một ông vua, một ông thượng tế, kinh sự hay luật sĩ. Đêm Giáng sinh, mặc dù theo Luca trình thuật, thì “vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh” các mục đồng, và “có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 2,9.13), nhưng dấu chỉ để họ nhận ra Đấng Cứu Độ, hay là Đấng Kitô Đức Chúa, vẫn chỉ là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu chỉ tỏ cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan, thấy dung nhan vinh hiển của Người có một lần, và chỉ trong chốc lát (x. Mc 9,2-8; Mt 17,1-8; Lc 9,28-36).

Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngủ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu “Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người”

  1. Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ.

Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó là thân phận con người. Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết” (Ga 15, 15).

  Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Đấng mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, đấng mà các tổ phụ, các ngôn sứ đã loan báo, Đấng mà muôn dân trông đợi, nay đã Giáng sinh làm người.Ngài là Thiên Chúa làm người. Ngài tạo thành vũ trụ muôn loài muôn vật, thì hôm nay lại chọn con đường được tạo thành bởi loài người. Một Hài Nhi bé nhỏ, yếu đuối, phải sống phụ thuộc vào loài người. Tất cả đều do Ngài dựng nên. Ngài có tất cả, nhưng hôm nay Ngài chẳng có gì. Ngài đã mặc lấy thân phận yếu hèn của con người chúng ta. Ngài không chọn nơi quyền quí, giàu sang để sinh ra, nhưng lại chọn nơi thấp hèn nhất: hang của bò lừa. Ngài không chọn gia đình có thế lực để sinh ra, nhưng lại chọn Giuse và Maria làm cha mẹ, là những người nghèo khó và khiêm nhu. Ngài đã sống ẩn dật suốt 30 năm trời tại làng Nazaret, sống lao động, cầu nguyện, vâng lời cha mẹ.

Nhà huyền bí Kitô giáo Ấn Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây: Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi. Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông. Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.

  1. Ngày hôm nay, chúng ta họp mừng mầu nhiệm “Tự Hạ” của Ngôi Hai Thiên Chúa. Thật vậy, để thực hiện chương trình cứu rỗi loài người, để đánh bại ma quỉ và phục hồi phẩm giá cho con người, Con Một Thiên Chúa đã vâng lệnh Chúa Cha “từ bỏ vinh quang Thiên Chúa, mang thân cát bụi phận người”, như lời tụng ca trong thư gởi giáo đoàn Philip 2, 6-8: ”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nen giống phàm nhân sống như người trần thế.Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, chét trên cây thập tự”.

Chúa không đến cất đi đau khổ. Ngài cũng không đến giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con người và mời gọi con người chia sẻ với những con người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình. Đó là sứ điệp và lời mời gọi giáng sinh cho chúng ta. “Thiên Chúa ban tặng Người Con Một là để nhờ Người Con đó mà nhân loại được sống muôn đời”. (Ga 3,16 )

  1. “Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rối đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2, 6-7). Quán trọ là hình ảnh của thế gian. Thế gian đã không nhận ra Chúa! Còn một hình ảnh khác nữa theo bài tựa Tin mừng Gioan, Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11). Thế giới là nhà của Chúa, vì là do Chúa tạo dựng; thế giới còn là nhà của Chúa, vì tất cả loài người là anh em đồng loại của Chúa. Chúa đã làm người, Chúa là Con của Chúa Cha, Đấng tạo dựng trời đất, đã trở thành một người giữa muôn người, và ở giữa chúng ta. Tên của con người ấy là Giêsu. Ngài là Đấng Cứu thế, là Đức Kitô, là Đức Chúa, như lời thiên thần loan báo cho các mục đồng (Lc 2,11). Đấng đã tạo dựng thế giới, Lời-Sáng Tạo chính yếu, đi vào thế giới nhưng Người không được nghe, Người không được đón nhận.

Chúng ta có thời gian và không gian dành cho Chúa không? Chúa có thể đi vào trong sự sống chúng ta không? Chúa gặp được chỗ trong chúng ta không, hay là chúng ta chiếm hết không gian có được trong những tư tưởng, những hành động, những sự sống của chúng ta cho chính chúng ta chăng? Chúng ta có thời gian cho người thân cận chúng ta là kẻ đang cần một lời nói từ chúng ta, từ tôi, hay là đang cần tình yêu của tôi? Cho người đau khổ cần sự giúp đỡ? Cho người chạy trốn hay tị nạn tìm nơi ẩn náu?

“Còn những ai đón nhận Người, thì Người cho quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Những mục đồng tiêu biểu cho những con người chất phác đơn sơ, những con người nghèo nhưng lòng dạ ngay thẳng. Những con người ấy thì được loan báo, được thiên thần cho biết tin mừng trọng đại, sẽ là niềm vui của toàn dân (Lc 2, 10). Không những vậy, họ còn được chỉ dẫn chi tiết cách nhận ra Đấng Cứu thế: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lc 2, 12).

Còn chúng ta là ai ? Chúng ta có được liệt vào hạng người giống như những mục đồng chăng? Chúng ta có là những con người đơn sơ chất phác, hiền lành, hiếu khách, có lòng thương người, không coi thường ai, không khinh dễ những người nghèo, nhưng kính trọng họ và sẵn sàng phục vụ khi họ cần đến chúng ta? Nếu chúng ta giống như những mục đồng, thì chúng ta có hy vọng nhận ra Chúa. Vấn đề nhận ra Chúa là vấn đề mấu chốt của đời sống đạo, bởi vì nếu Chúa đến, mà chúng ta không nhận ra Chúa, thì chúng ta sẽ không tiếp đón Người, thậm chí còn hất hủi và có khi còn giết chết Người nữa. Vậy chúng ta hãy cầu xin để được nhận ra Chúa khi Chúa đến với chúng ta. Chúa đã đến, Chúa đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng ngay cả hôm nay, Chúa vẫn đến, Chúa vẫn sinh ra cho chúng ta, như lời thánh vịnh được trích dẫn để diễn tả mầu nhiệm «Chúa Cha sinh ra Chúa Con cho chúng ta »: Con là Con Ta, hôm nay ta đã sinh ra Con (Tv 2, 7).

Chúa Giêsu sinh ra trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta cởi mở tâm hồn đón tiếp Ngài. Vậy khi nào ta cởi mở tâm hồn để đón tiếp Ngài? Đó là khi ta mở cửa tâm hồn, mở rộng trái tim để yêu thương người khác. Khi ta yêu thương, thì tình yêu sinh ra trong lòng ta, mà Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8), Chúa Giêsu cũng là Tình yêu được sinh ra bởi Thiên Chúa Tình yêu. Tình yêu ấy được sinh ra trong thế giới và cho thế giới, tình yêu ấy cũng được sinh ra trong lòng mọi người và cho mọi người, với điều kiện là trong lòng con người có chỗ cho tình yêu. Ước gì Chúa Giêsu sinh ra trong chúng ta và cho chúng ta đêm nay. Chúng ta sắp rước Mình Máu Thánh Chúa; đó là chính Chúa Giêsu đến với ta đêm nay. Ta hãy thờ lạy Chúa và tìm cách giới thiệu Chúa cho người khác. Chúa sẽ là niềm vui cho ta, sẽ là bình an cho ta và mọi người thiện chí.

Nếu Ngài tỏ mình ra là Chúa Cao Cả, chắc không ai trong chúng ta từ khước Ngài. Nhưng thường Ngài ẩn mình, bị biến dạng và che khuất. Có lẽ chúng ta dễ nhận ra và đón nhận Chúa trong những người có quyền có của mà chúng ta lệ thuộc, nhờ cậy hay thương yêu. Song lại khó nhận ra và đón tiếp Ngài hơn trong những người bé nhỏ, nghèo khổ cùng cực, bị áp bức, bị bỏ rơi bên lề Xã Hội và Giáo Hội, những người sa cơ thất thế, những người không có quyền lực và tiếng nói, những người mắc phải các chứng bệnh thời đại nguy hiểm, những người chúng ta ác cảm, có định kiến, hay coi như  thù nghịch.

  1. Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người. Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.

Chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em. Có Chúa ở trong tâm hồn chúng ta, trong đời sống chúng ta, trong gia đình chúng ta, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.

Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta. Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa. Ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa. Ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa. Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu đuối để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo hèn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh ra làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.

Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người Chúa thương”

Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.

Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa đã dạy: Mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25). Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm nguời để con người được kính trọng. Con người cao quí vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.

Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng, hơn nữa Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Mỗi một người sinh ra trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.

Nguyện vọng con người được sống hoà bình, trong một trật tự hoà hợp với nhau và với vạn vật cũng hoàn toàn hợp với ý muốn và chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giáo lý công giáo dạy rằng Thiên Chúa muốn cho loài người sống thành một gia đình, biết nhìn nhận Người là Cha chung và sống hiệp nhất yêu thương nhau như anh em. Nhưng tội lỗi của con người chống lại Thiên Chúa đã gây nên tình trạng xáo trộn, đổ vỡ, chia rẽ trong gia đình nhân loại: bắt đầu là giữa hai tổ tông A-dong và E-và, tiếp đến là giữa hai anh em Ca-in và A-ben (cuộc huynh đệ tương tàn đầu tiên theo Kinh Thánh), rồi giữa loài người trong vụ xây tháp Ba-ben…Và những gì Thiên Chúa làm sau đó để cứu độ con người, là một loạt những sáng kiến và hành động nhằm tái lập lại trật tự hoà hợp nguyên thủy. Mà hành động quyết định và kỳ diệu nhất là việc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, nối lại nhịp cầu giữa Thiên Chúa và loài người và làm cho con người lại được trở nên con cái Thiên Chúa và anh em với nhau thực sự. Vì thế, thánh Phao-lô đã có thể viết: “Đức Ki-tô là bình an của chúng ta” (Ep 2,14), là “Đức Chúa của bình an” (2Tx 3,16): Tin mừng của Người là “Tin mừng bình an” (Ep 6,15) và Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Hoà bình Đức Ki-tô đem tới không phải là chuyện dễ dàng mà một kẻ mơ mộng, một người lười biếng hay nhu nhược cũng có thể làm được. Trái lại, nó đòi hỏi người ta phải mạnh mẽ, can đảm chiến đấu không ngừng để tiêu diệt tính ích kỷ, lòng tham lam, óc thống trị và sự hận thù. Muốn có thứ hoà bình đó, phải hy sinh quên mình và nếu cần, phải đổ máu ra vì hạnh phúc của anh em. Chính Đức Ki-tô đã dạy và đã sống như thế: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Và: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 6,14).

Hoà bình mà Chúa Cứu Thế mang tới trước hết là sự bình an sâu thẳm của một cõi lòng đã được “bình định”, được “giải hoà” với Thiên Chúa và với anh em. Như thánh Phan-xi-cô nói, không thể gieo rắc bình an, xây dựng hoà bình nếu bản thân mình không có bình an trong lòng.

Bài đọc thứ nhất trong Thánh Lễ đêm nay cho ta biết, từ xa xưa, Ngôn Sứ I-sai-a loan báo có một Hài Nhi được Thiên Chúa ban tặng cho loài người; Hài Nhi đó là Chúa Giê-su; Ngài được gọi là Vua hoà bình. Như vậy, theo lời Kinh Thánh, Chúa Giê-su là Vua đem lại hoà bình cho nhân loại. Điều quan trọng là hoà bình mà Ngài mang đến không phải là một tình trạng ngưng chiến tạm thời, nhưng là một nền hoà bình vĩnh cửu dựa trên tình yêu thương huynh đệ.

Đêm Giáng Sinh thường được gọi là đêm an bình. Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã đến để ban lại cho nhân loại sự bình an hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Nhưng tôi đã được hưởng sự bình an đó chưa? Hay là lương tâm vẫn còn bị đè nặng bởi tội lỗi, bởi những bất công, hận thù, chia rẽ… Nếu vậy, thì ích gì cho tôi, nếu Chúa đến trần gian để ở với con người, để cứu độ con người, và để ban bình an cho mọi người, nhưng riêng tôi lại không được dự phần? Khi có Chúa ở cùng, có thể là Chúa sẽ không cất đi mọi đau khổ chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống. Điều Chúa hứa là Người sẽ ban cho chúng ta được sự bình an trong tâm hồn, sẽ chúc phúc, và sẽ ở bên chúng ta để phù trì chúng ta trong mọi giây phút của cuộc đời. Khi sinh ra trong cảnh bần cùng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, và sau cùng chết khổ nhục trên thập tự giá, phải chăng là Chúa muốn nói trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, Chúa luôn ở bên để chia sẻ kiếp sống làm người với chúng ta. Điều quan hệ là chúng ta có dám tin là Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của mình không? Có dám tin là Chúa có đủ quyền năng để cứu chuộc chúng ta, và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh cùng quẫn mà chúng ta đang gặp phải hay không? Nếu có được niềm tin đó, cho dù chúng ta vẫn còn bị giam hãm bởi những bất công trong xã hội, những hận thù ghen ghét, chúng ta vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn.

Là người đã được cứu độ, Ki-tô hữu trở thành “người con của hoà bình”, nên họ có nhiệm vụ phải xây dựng hoà bình hơn ai hết: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” (Mt 5,9)

  1. Chúa làm người để người làm Chúa. Đây không phải là chuyện phạm thượng hay chuyện kiêu ngao nhưng chuyện thật của những người đã một lần hóan cải biến đổi làm đảo lộn cuộc sống để có thể nói được  “Không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đây là chuyện của những con người bị chiếm đoat, bị nắm bắt (Pl 3,12) ; chuyện của những con người có lòng tin sâu xa, của các nhà thần bí, của những con người chiêm niệm thật sự. Đặc biệt khi ta rước Mình và Máu Đức Kitô thì Mình Máu Người tan chảy và luân lưu trong máu thịt của ta. Đến nỗi ta có thể nói được là Chúa trở nên ta, ta trở nên Chúa (hai trong một).

Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa, vào con người. Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội. Con người Kitô hữu trước hết là một con người tự do, bởi vì được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng dang đồng hình với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người.

Hãy cảm tạ tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, đồng thời hãy cộng tác với Ngài trong việc biến đổi bộ mặt thế giới, để mỗi ngày một trở nên tốt đẹp hơn. Thiên Chúa làm người vì thế giời loài người vẫn còn quá nhiều người không được sống cho ra người. Vẫn còn biết bao triệu người không có nhà ở, không có việc làm, không được học hành, không được tôn trọng phẩm giá, bị bốc lột sức lao động, bị tước đoạt phẩm giá làm người.

LỄ BAN NGÀY

  1. Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khẳng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giê-su xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt như các triết thuyết. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được Lời đó có nội dung chính là gì?

Một số khảng định liên quan tới Lời – Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: “Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha” (x. Hr 1,3; Cl 1,15). Chính Đức Giê-su sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14.9)

            Lời – Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời – Giê-su từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2,12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19,34). Ma-ri-a là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giê-su trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu rõ: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1, 47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giê-su nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1,1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3,16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19,35).

            Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giê-su với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giê-su ngày xưa, có thể là các triết – thần học gia ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời – Giê-su, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giê-su đề cập tới (x. Mt 7, 15-20). Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi thì làm sao nhận ra? 

            Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.

  1. Người là ánh sáng:

Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy.

Lời Chúa hôm nay trả lời rằng: Ngài mang đến cho chúng ta chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa bằng xương bằng thịt. Ðó là điều quý báu nhất và bao gồm tất cả mọi điều báu. Chúa Hài Nhi Giêsu là một hồng phúc tuyệt vời, một quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người, cho nhân loại.Chúa Giêsu Hài Đồng chính là Tình Yêu từ trời xuống, đã phá tan màn đêm u tối, thắp sáng lung linh thế gian này bằng chính tình yêu cứu độ của Người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu dọi “ ( Is 9, 1 ).  Chỉ mình Hài Đồng Giêsu, Người là ánh sáng thật, ánh sáng chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để con người nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu thương, giầu lòng nhân ái và tha thứ.“Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống “ (Ga 8, 12).

Người là ánh sáng: Đó là ánh sáng tình yêu: Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Ánh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo. Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay.

Tại sao Thánh Lễ chính của Lễ Giáng sinh được cử hành ban đêm? Lý do căn bản nhất là: Chúa Giêsu là ánh sáng, Ngài sinh xuống trần gian như Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ðêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh, buồn sầu; Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc, mừng vui. Khi sinh xuống trần gian, Chúa Giêsu mang lấy trên mình tất cả tăm tối của loài người với bao tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu, nhưng để ban lại cho loài người ánh sáng của Thiên Chúa bao gồm mọi ân sủng, hạnh phúc và mừng vui.

Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.

Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh. Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho ánh sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa. Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách”.

Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không thể vượt qua nếu con người không đồng ý. Ma quỷ, chính là nguyên nhân tạo nên sự chia rẽ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người, giữa con người với Thiên Chúa. Bóng tối và ánh sáng không hoà chung với nhau. Có ánh sáng, bóng tối bị đẩy lui. Chúa nhập thể, mang ánh sáng vĩnh cửu cho con người. “Ánh sáng đã đến trong thế gian”. Đây, một Hài nhi bé nhỏ.

  1. Người Việt Nam chúng ta coi Ông Trời rất gần gũi với mình: vui cũng kêu trời, buồn cũng kêu trời, đau khổ cũng kêu trời, suốt ngày người ta vẫn kêu Ông Trời ,‘Trời ơi!’ Nói chung người Việt Nam coi ông Trời là người biết hết mọi sự, sẵn sàng đáp lại lời kêu xin … Người ta kêu Ông Trời để cầu xin:

      “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống…”

Nhưng con người thường cũng rất sợ Ông Trời và lo lắng để tránh bị Trời phạt tội. Các tai ương, bịnh tật…đều được coi như  do Ông Trời gây ra để phạt tội con người. Từ mối sợ hãi mơ hồ này, người ta đã ‘sáng tạo’ ra biết bao “Ông Thần” để thờ cúng: Thần Sông, Thần Núi, Thần thủy, Thần Hỏa… Các tinh tú cũng được gán cho danh hiệu ‘thần’: Thần Mặt Trời, Thần Vénus, Thần Jupiter…

Người Công giáo cũng tin ông Trời và chúng ta gọi Ông Trời là Chúa Trời, Đức Chúa Trời hay Thiên Chúa. Thiên Chúa Gíang sinh hôm nay lại ở cùng chúng ta. Ngài là Thiên Chúa  làm người. Ngài không phải là một Thiên Chúa xa lạ, nhưng rất gần gũi với chúng ta. «Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta» (Ga 1,14). Vì yêu thương, Ngài đến ở với chúng ta, chia sẻ kiếp sống nghèo hèn của chúng ta. Nhìn vào hang đá, nơi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, chúng ta thấy một tình yêu bao la cao cả và một hy sinh lớn lao vô bờ. Nhưng có một điều ít ai nghĩ đến trong mùa Giáng Sinh đó là biến cố này mặc khải về gương mặt thật của Thiên Chúa. Và Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm (Ga 1,14). Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian hữu hạn nào khác. Chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian thụ tạo- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Mầu nhiệm Giáng sinh không phải là mầu nhiệm Con Thiên Chúa  đến một chốc lát rồi ra đi, nhưng là mầu nhiện Con Thiên Chúa  mãi mãi ở giữa nhân loại chúng ta, ở cùng kiếp người chúng ta. Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật. Sự giáng sinh của Đức Giêsu giúp Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong một phương cách mà chúng ta có thể trông thấy, có thể chạm đến và có thể nghe được.

Chúa Giêsu  là Ngôi Lời hằng ở bên Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Ngài mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa  “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết “( Ga 1, 18 ). Ngài chia sẻ tất cả nhân tính của con người, để qua đó, chúng ta được tham dự, được chia sẻ thần tính của Ngài. Thiên Chúa có thể tỏ mình ra cho con người hiểu và thấy bằng cách khác. Nhưng không, Thiên Chúa “làm người”, như vậy, mắt loài người mới trông thấy được, tay loài người mới chạm tới được, trí khôn con người mới có thể hiểu, nhận biết và cảm nhận sự vui mừng và sung sướng, như thánh Gioan diễn tả : “Từ khởi đầu, điều chính tay chúng ta chạm đến, đó là sự sống, sự sống đã xuất hiện” (1Ga 1, 1-2). Sáng kiến yêu thương con người của Thiên Chúa bằng hành động Ngôi hai Nhập Thể như vậy là “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.

Sáng kiến trở nên giống con người là cách tuyệt vời nhất để tiếp cận, để gần gũi con người. Quả thật, không ai yêu thương con người cho bằng Thiên Chúa. Không ai say mê con người đến cuồng si bằng Thiên Chúa. Và cũng không ai dám hy sinh tính mạng con yêu dấu của mình cho bằng Thiên Chúa.

Mầu nhiệm nhập thể đã phục hồi nhân tính, khi nhân tính được kết hợp với thần tính. Và khi xuống thế làm người Con Thiên Chúa đã ban cho loài người chức vị làm Con Thiên Chúa. Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.

Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Ngài bằng một kiếp người, bằng sự nhỏ bé, đơn sơ, khiêm hạ, nghèo hèn trong máng cỏ. Thiên Chúa bộc lộ mình là một Thiên Chúa yếu ớt mong manh, không quyền lực, không sức mạnh trong tay, cần được che chở, cần được chăm sóc dưỡng nuôi. Ấy là một Thiên Chúa hòa đồng, ai ai cũng có thể gặp, có thể gần, ai ai cũng tìm thấy niềm vui, cũng yêu thương và được yêu thương. Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới. Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy nguyện “ở với” Chúa cũng như Ngài đã “ở với” chúng ta, để chúng ta thấm nhuần được bài học yêu thương, bài học phục vụ của Chúa. Điều quan trọng là Chúa ở với chúng ta, nhưng chúng ta có ở với Chúa không? Ngài đã bỏ trời xuống thế để ở với loài người chúng ta. Nhưng lắm khi chúng ta quên mất Ngài, không hề nhớ tới Ngài. Ngài ngự trong Nhà Tạm để chúng ta dễ đến với Ngài. Nhưng rất ít khi chúng ta đến đó để gặp Ngài. Chúng ta cũng không “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với Ðức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày.

Có Chúa ở trong tâm hồn chúng ta, trong đời sống chúng ta, trong gia đình chúng ta, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy đón nhận Chúa Giêsu như món quà lớn nhất của Chúa Cha, với tâm tình biết ơn sâu xa, vì tình thương vô bờ bến của Chúa Cha. Chúa Cha yêu thương nhân loại đến nỗi ban Con Một mình cho nhân loại, để những ai tin vào Người thì được sống đời đời.

  1. Như thế lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa  yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Thiên Chúa đã trở thành Con người, ngõ hầu chúng ta được trở nên con cái Chúa. Hôm nay khi đọc kinh Tin Kính đến câu “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế” ta hãy quì gối trước tình yêu cao cả của Chúa dành cho ta. Quì gối đề suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.

Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi…  Chúa Giêsu Thánh Thể đã quên hẳn mình là một vì Thiên Chúa có đủ mọi uy quyền, để giam mình trong một Nhà Tạm nhỏ hẹp, bé mọn kia, để mong đợi được chúng ta yêu mến, an ủi, để dễ dàng ban cho chúng ta các ơn của Ngài, những hồng ân của Ngài, để đổ tràn xuống cho chúng ta tất cả những gì là lòng thương xót tha thứ của Ngài. Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau…  Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể. Không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc… Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, được rước Chúa Giêsu vào lòng, được có Chúa trời đất tới viếng thăm ngự trị trong linh hồn, gia tăng nghị lực, mến yêu an ủi, thương xót và đổ tràn đầy các ơn thánh xuống trong tâm lòng và cuộc sống. Bởi đó, Không cảm tạ Chúa sao được, khi chúng ta được Chúa trời đất ở với chúng ta trong mỗi giây phút của cuộc sống, trong những lúc được vui mừng sung sướng cũng như trong những khi buồn chán khổ cực, trong những lúc làm việc cũng như trong những khi cầu nguyện và chơi đùa

  Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế. Hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.

Chúa Giê-su đã chào đời như một con người không nhà không cửa. Ngài đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.

Máng cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở Nhà Thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng ta.

LỄ HIỂN LINH

  1. Trong ngày Giáng Sinh, Chúa Giêsu đã “tỏ mình ra” cho các mục đồng, đại diện cho It-ra-en, dân riêng của Thiên Chúa; trong ngày lễ Hiển Linh, Người “tỏ mình ra” cho các đạo sĩ phương Ðông, đại diện cho “dân ngoại”. Thực thế, Lễ Hiển Linh là lễ Giáng Sinh dành cho dân ngoại, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí có thể nói đó là ý nghĩa cốt yếu của Kitô giáo, vì từ trước tới giai đoạn này, người Do Thái quan niệm rằng Thiên Chúa là Chúa của Israel, là dân riêng mà thôi. Chân lý được giấu kín nay mới được bộc lộ là Thiên Chúa là Chúa của muôn dân, muôn nước và Ơn Cứu độ Chúa ban là Ơn Cứu độ phổ quát nghĩa là dành cho hết mọi người, không phân biệt mầu da, chủng tộc, giai tầng xã hội….

Thánh sử Mát-thêu là người duy nhất đã viết về biến cố “Khi đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đa, thời vua Hê-ro-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người”.

Hiển linh là tiếng chuyên môn để chỉ việc một vị thần linh xuất hiện cho người phàm, tức là tỏ mình ra cho người ta nhận biết, theo cách nói bình dân. Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo: Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa. Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.

Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: “Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân”. “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60, 1-2). Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.

Ngôi sao đã đứng lại trên nơi Hài Nhi ở; Yêrusalem bừng sáng chính là con người Đức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và việc muôn dân ngày nay gia nhập Giáo Hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội thánh là Yêrusalem mới; mỗi giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu – đền thờ của Chúa – là một Yêrusalem được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa. Đó là ân sủng đã được ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc biệt của Tân ước.
Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi tín hữu đã được trao cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian, để nên Yêrusalem rực sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận ra vinh quang của mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng lên trước mắt mọi người. Nhưng đặc biệt chúng ta phải nghĩ đến Hội thánh, đến các Giáo hội và giáo đoàn. Chúng ta cầu xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của mình; trở nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy Chúa, kết hợp mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa.

  1. Đạo sĩ: Có lẽ đây là những nhà chiêm tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái và cùng chia sẻ một số niềm tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng Messia sắp đến. Họ sống ở phía bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta cho rằng họ là những vị vua số lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho các ông những tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.

Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Ðức Giê-su nói: Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” ( Mt 7, 8 ). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta” ( Gr 29, 13 ); Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta” ( Cn 8, 17 ).

  1. Các lễ vật: Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc vương giả (x. Tv 72,15 vàng; Is 60,6 vàng và hương; Tv 45,8 mộc dược). Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến dâng lễ vật cho Chúa. Hàng vương giả sẽ về triều cống, cả những vua Ả Rập, Saba, cũng đều tới dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng các dân nước sẽ mang lễ vật từ Arabia là vàng, nhũ hương, đến làm vang lên những lời chúc tụng Giavê. (x. Is 60,6).

Thánh Matthêô dường như không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ khẳng định một điều: các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là Chúa, tức là Chúa Cứu thế mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm lễ vật. Đó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập, dùng trong đền vua. Mà ở Đông phương, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp vàng thường phảng phất mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm xác các hoàng đế.

Theo các Giáo phụ, vàng, nhũ hương và mộc dược cũng còn là lời tuyên xưng về vương quyền, Thiên tính và nhân tính của Hài nhi Giêsu mà các nhà chiêm tinh muốn tôn vinh.  

-Vàng: thời xưa, vàng có tính cách quý báu và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý nói hài đồng Giêsu là Vua. Vàng tượng trưng cho vương quyền của Chúa Giêsu. Về vương quyền của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô có viết trong thư gởi tín hữu Ephêsô như sau: “Chúa Cha đã Phục Sinh Ðức Kitô từ cõi chết và đặt Ðức Kitô bên hữu Ngài trên Thiên Quốc. Ðức Kitô cai trị trên vạn vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Ðức Kitô”. (Ep 1: 20- 22)
-Nhũ hương: trầm hương chỉ dùng trong việc tế lễ, vì Ngài cũng sẽ là Tư Tế. Người xưa thường dùng nhũ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Ðức Giêsu, là Con Thiên Chúa. Trầm hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa. Khi nói về thiên tính Chúa Giêsu; thư gởi tín hữu Hippi đã diễn tả như sau: “Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa. Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật” (Hr 1, 3).
-Mộc dược: mộc dược dùng để chữa lành người bệnh và tẩm liệm thi thể người chết thời đó. Hãy nhớ lại các phụ nữ đã từng đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược tượng trưng cho nhân tính Chúa Giêsu. Mộc dược nói lên nhân tính của hài nhi và cái chết sau này của Chúa Giêsu. Bàn về nhân tính Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: “Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như một con người… Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết, chết trên Thập Giá” (Pl 2: 6-8)

Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.
Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là “dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu” của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1Pr 2, 9).

  1. Chúng ta có thể tìm gặp Chúa và dâng lên Chúa những món quà quí giá hơn cả những món quà của ba Đạo sĩ nữa. Bởi vì món quà của chúng ta không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần, mà chính là món quà của tình yêu và tinh thần bác ái với tha nhân. Hôm nay, Giáo hội mừng kính lễ Hiển linh Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua các Đạo sĩ để nhắc nhủ chúng ta rằng, tất cả chúng ta đều có những món quà để dâng tặng cho Chúa.
    Hãy chạy đến với Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể tìm gặp Đức Kitô mà không cần phải tốn phí công lao, khó nhọc vất vả lên đường tìm nơi xa xôi mà chỉ cần mở rộng tâm hồn để đón nhận Chúa bằng lòng tin, cậy, mến.

Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72, 6). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10, 10). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55, 8). Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72, 7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72, 11). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72, 12-13). Hãy đến với người nghèo khó đáng thương để giúp đỡ họ, Chúa sẽ tỏ cho ta thấy hình ảnh Ngài trong họ. Mỗi mùa Giáng sinh đến và qua đi, chúng ta biết trao cho nhau những món quà quí giá nói lên tình cảm con người với nhau, nhưng thử hỏi có một cánh thiệp, món quà nào cho người hành khất bên đường, hay cho những ai rét run vì giá lạnh và cô đơn không? Hãy nhiệt tình chào hỏi những người bạn không ưa thích với một ánh mắt trìu mến, một nụ cười cảm thông. Hãy làm hoà với những ai bạn vừa gây gỗ hay ghét cay ghét đắng. Hãy thăm hỏi những bệnh nhân liệt giường không thuốc thang. Hãy san sẻ một món quà cho những trẻ mồ côi không ai quan tâm đến. Đó là những món quà có giá trị, ý nghĩa nhất. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng với chúng ta.

  1. Hãy là Ngôi sao lạ: Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái. Thực sự, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Itraen” (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1).

Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x. Kh 2, 28). Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Âm sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.

Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói: “Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói: “Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời”. Cuộc sống của mỗi người chúng ta phải là những ánh sao lạ: sống đơn sơ, khiêm tốn, tôn trọng mọi người; yêu thương mọi người nhất là những người bé mọn, bị bỏ rơi; là ánh sao lạ khi chúng ta sống công bằng, thành thật, hy sinh,…

  1. Hãy lên đường: Nghịch lý đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương dân thì lại đến triều bái và tôn thờ Ngài. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện (Is 60 và 62): đông đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên Chúa.

Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm. Nếu những nhà chiêm tinh mau mắn nhận ra ánh sao lạ để rồi lên đường tìm đến nơi hang đá Bêlem, tôn thờ Ngôi Hai Thiên Chúa, thì ngược lại, thái độ của mấy ông Thượng tế và Kinh sư thật đáng buồn thay. Là nhà lãnh đạo tinh thần, ngày đêm nghiên cứu Kinh thánh, suy niệm và giảng dạy Kinh thánh cho dân, lẽ ra khi được các nhà chiêm tinh đến kinh thành Giêrusalem để hỏi vua Hêrôđê về ngôi sao lạ, các ông phải là những người mau mắn lên đường thờ lạy Chúa mới đúng. Đàng này chúng ta thấy, khi đuợc triệu tập để tìm ra nguyên nhân như lệnh của vua Hêrôđê, họ đã tra cứu và đã tìm đúng như những gì Giavê Thiên Chúa đã nói trong Kinh thánh. Họ đã khảo sát và đã giải thích chính xác lời của các ngôn sứ là Mikha và sách Samuel từng loan báo (x. Mk 5,1; 2Sm 5,2). Thế nhưng, họ lại không màng đến những lời trong Kinh thánh. Họ vẫn trói chặt họ vào bức tường thành Giêrusalem, vẫn giậm chân tại chỗ trong những định kiến cố hữu của họ. Chính vì thế, họ sẽ không bao giờ tìm thấy Đấng nay đã Giáng sinh như Kinh thánh đã nói về Người. Người Do thái sẽ dửng dưng hoặc thù địch với Đức Giêsu, trong khi dân ngoại đông đảo sẽ đón nhận Tin Mừng Người công bố về Nước Thiên Chúa.
Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì khi Ngài đích thân đến gặp họ, nói chuyện với họ, thì họ cũng chẳng nhận ra Ngài, mà tệ hơn nữa, còn tìm cách hãm hại Ngài. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngoại: «Phaolô và Banaba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố Lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại» (Cv 13, 46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời.  Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8, 11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).

Các đạo sĩ tin như vậy chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có sách Thánh và thuộc Thánh kinh lại không nhận ra Chúa vừa Giáng sinh. Đó là điều thánh Matthêô muốn nhấn mạnh trong bài tường thuật này, với một cảm tình chua chát trong lòng. Ngài như muốn phác họa trước câu chuyện tử nạn của Chúa ở đây. Trong khi đó, lương dân được Ơn Chúa soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây tiêu biểu cho họ. Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa kêu gọi và soi sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã mọi sự để lên đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ đen tối của Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề ngoài xem ra chẳng có gì khác thường.

Thật ra, nếu không cẩn thận, chúng ta luôn sống như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh kinh ở trong tay; chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng đạo đức nào, chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo Lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi của Tin Mừng để sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương tiện ích kỷ. Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như khi Rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những ơn đặc biệt. Những hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và muốn cứu giúp các linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình bác ái. Thái độ nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ tâm tình và nếp sống của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng ta phải công nhận con người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem được bừng sáng dưới vinh quang của Chúa.
Hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại như cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy 

Rất nhiều Ki-tô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Ðức Giê-su nói: Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” ( Mt 7, 24.26 ). Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” ( Lc 8, 21 ); Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” ( Ga 13, 17 ); Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” ( Lc 11, 28 ). Dụ ngôn người gieo giống ( Lc 8, 11 – 15 ) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất vệ đường”, đầy đá sỏi”, đầy bụi gai”, khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái. Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ” ( 1Cr 9, 27 ). Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em»  (Ga 13: 34). Mỗi Thánh lễ là một cuộc hiển linh của Chúa. Ở đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng vụ của chúng ta sẽ chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về “bằng con đường khác”, tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người được đồng kế thừa, đồng tham dự, đồng chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ của Đức YÊSU KITÔ.

Trong lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa dành rất nhiều ưu tiên cho Dân Ngài trong việc lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu cũng vậy. Ngài nói với các môn đệ: «Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,5-6), hoặc «Ta chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Ít-ra-en thôi» (Mt 15,24). Nhưng điều tai quái xảy ra là những kẻ được ưu tiên thì lại tự hào về sự ưu tiên ấy, để rồi sống ngược lại với ý của Thiên Chúa, khiến họ không xứng đáng được cứu rỗi. Dụ ngôn tiệc cưới (xem Mt 22,1-14, hay Lc 14,15-24) cho thấy rõ điều đó. Người được ưu tiên mời thì không chịu đến, khiến cho chủ tiệc phải mời tất cả những người ở ngoài đường vào dự tiệc. Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến với họ, nhưng họ không nhận ra đó là ngôn sứ của Thiên Chúa, trái lại họ nghe thấy các ngôn sứ nói chói tai, và giết đi. Phải coi chừng kẻo điều ấy lại xảy ra tương tự cho chính chúng ta, những người đã được rửa tội, mang danh là Kitô hữu, là người theo Chúa, là người đạo đức, nhưng nếu trong thực tế, đời sống chúng ta lại phản lại Tin Mừng, nghĩa là ích kỷ, kiêu căng, rất tự hào về đạo mình, khinh chê đạo khác. Liệu Đức Giêsu có thể nói với chúng ta như đã từng nói với người Do Thái xưa: «Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi» (Mt 21,43).

  1. Hêrôđê lo sợ Chúa đến là đe dọa đến ngai vàng của ông. Thời nay cũng vậy, người đời tìm mọi cách ngăn cản Đạo phát triển, vì họ sợ Đạo Chúa đe dọa đến quyền lợi của họ. Điều đó dễ hiểu, vì khi con người theo Lời Chúa để sống thật thà, thì người dối trá sẽ không ngủ yên. Khi con người theo Chúa sống bao dung, thì phe nhóm, đảng phải mất uy quyền.

Thái độ của Herode vẫn luôn ngự trị trong thế giới loài người và trong mỗi tâm hồn chúng ta. Nơi đâu cũng có những con người muốn cũng cố địa vị, muốn đóng vai chính quyền: trong gia đình, ngoài xã hội, trong giáo hội, trong giáo xứ… ai cũng sợ mất đi cái ngôi vị của mình. Mà khi đã cố thủ ngôi vị, thì không thể kính nể ai, phục vụ ai, và cũng không chấp nhận cho ai hơn mình. Một chế độ Herode luôn tranh giành uy tín, tranh giành ảnh hưởng với Giáo lý Chúa Kito, với cơ cấu Giáo hội, vẫn đang hiển hiện khắp nơi, ở trời Tây cũng như trời Ta.

Nhưng điều nghịch lý là chính những người có Đạo cũng không muốn đón nhận Chúa, vì sợ phải hy sinh, không được thỏa mãn nhu cầu bản năng thấp kém, vì theo Chúa là phải từ bỏ mình vác thập giá mà theo.

Bài viết liên quan