Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật

Tổng hợp các bài suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật năm C

Xin giới thiệu “Tổng hợp các bài suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật năm C” do linh mục JB Trần Hữu Hạnh, CSF – Giám đốc Học viện Thánh Gia tổng hợp từ nhiều nguồn.

Click vào link bên dưới để tải file:

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CÁC CHÚA NHẬT THƯỜNG NIÊN NĂM C

TỔNG HỢP CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT MÙA CHAY NĂM C

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

  1. Chúa Giêsu đã chịu phép rửa như một kẻ tội lỗi, Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, hoà mình với những người tội lỗi, để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha. Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1,29) Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người. Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành”. (1 Pr 2, 24). Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Hôm nay, tầng trời mở ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.

Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người. Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: “Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?” A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì “người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn.” Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy. Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: “Ngươi đã làm gì?” Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì “con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn”. (St 3, 9-13) Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa… Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra? Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình, khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm…

  1. Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi: Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới. “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất (Thiên Chúa dùng đất mà dựng nên con người. Từ đó, loài người mang tên Đất (St 2, 7; 4, 25; 5, 1-3). Theo tiếng Do thái, Adam nghĩa là đất). Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy. Do đó, chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
  2. Việc Chúa chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về BT Rửa tội mà chúng ta lãnh nhận. Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Tại các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.

Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng lòng trí vào những sự trên trời và tìm kiếm những sự trên trời.” (chúng ta đang hướng lòng trí vào đâu? Vào tiền bạc? Danh vọng? Lạc thú?… chúng ta đang tìm kiếm cái gì, tìm kiếm ai?….)

Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài, sống đời sống mới, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô và trở thành những người con của Thiên Chúa. Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời. Khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN C

Tiệc cưới Cana

Bài đọc I (Is 62,1-5): Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc. Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Ít-ra- en, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới vời dân mình, Thiên Chúa là chú rể (x. Ed 16,1-4; Hs 2,16-25; Is 62,1-5). Đoạn văn (Is 54, 4 – 8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hô-sê, đó là Giu-đa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Thiên Chúa yêu thương dân Người.

Isaia nói rằng Thiên Chúa sẽ đổi tên dân người. Họ được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày Babylon, nhưng vẫn trong tình trạng tồi tệ. Họ bị gọi là “Đồ bị ruồng bỏ” và đất của họ bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn”. Thiên Chúa sẽ cho họ một cái tên mới, “Ái khanh lòng ta hỡi” xứ sở họ nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng.” Dân không thể giúp đỡ nhưng lắng nghe niềm hy vọng và lời hứa cho tương lai của họ, vì khi Chúa đổi một cái tên thì Ngài cũng làm cho họ tương ứng với cái tên mới đó. Thiên Chúa, được gọi là “Đấng Tác Thành ngươi”, thì sẽ hoàn thành việc canh tân. Dân sẽ nên một với Thiên Chúa như cô dâu nên một với chàng rể. Sự kết hợp mới mẻ này sẽ là nguyên do cho một đất nước tầm thường, những người là đối tượng cho sự khinh bỉ, mắng nhiếc, để được hoan hỉ. Quý vị có hiểu tại sao bài đọc Isaia hôm nay được chọn để hoàn tất bài Tin mừng hôm nay không? Đó là việc Chúa khởi sự một cuộc sống mới cho một dân bị bỏ rơi, thiết lập một mối tương quan yêu thương vĩnh cửu với họ.

Con người là một tuyệt phẩm của Thiên Chúa sáng tạo. Nhưng con người đã dùng tự do đánh mất vẻ đẹp nguyên tuyền thưở ấy, thưở E-đen, nơi Thiên Chúa thích đùa vui với con người. Những tưởng Thiên Chúa bỏ đi công trình của Ngài, nhưng không, Ngài không “ruồng bỏ”, nhưng Ngài “tái lập một giao ước mới vững bền”, vì lòng thương của Ngài ngàn thu…

Tiên tri Isaia khẳng định một niềm hy vọng cho con người tội lỗi:

“Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ bị ruồng bỏ!”

Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn.”

Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng.”

Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái,

và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.

Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ,

Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về.

Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”. (Is 62, 1- 5)

“Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới người về”. Con người được Chúa đem lòng sủng ái và thiết lập hôn ước”. Ôi còn hạnh phúc nào hơn! Thân phận bụi tro trong xác hay chết của con người, được Thiên Chúa dủ lòng xót thương, được Ngài đoái mắt tới, và biến đổi thành “hiền thê” của Ngài – “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.

Chúng ta chỉ được lãnh nhận bí tích rửa tội có một lần, mà hiệu quả cả đời. Suy tư nầy, nhắc nhớ mỗi người chúng ta rằng, chúng ta đã được Thiên Chúa sủng ái, và đã cưới chúng ta về, qua bí tích rửa tội, nhờ máu thánh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta trở nên con yêu dấu của Cha, trong một nghĩa nào đó, chúng ta trở nên hiền thê chung thủy của Thiên Chúa. Ôi! Vinh dự lắm thay! Xin hãy luôn nhớ đến cuộc hôn nhân kỳ diệu của chính mình: Thiên Chúa đã cưới tôi! Tôi là hiền thê của Ngài. Tôi phải chung thủy với Ngài. Vì “sự gì Thiên Chúa dã liên kết, loài người không được phân ly”.

 

Thư Thánh Phaolô lại nhắc đến một cuộc hôn phối kỳ diệu thứ hai: Hôn Phối của Chúa Kitô và Hội Thánh, trong Chúa Thánh Thần. Nếu mỗi người cùng được Thiên Chúa kết hôn qua bí tích rửa tội, thì cùng là anh em trong một nhiệm thể Chúa Kitô. Vì chính Đức Giêsu cũng bằng lòng nhận phép rửa như một tội nhân trong nhân loại. Chúa Giêsu như “tân lang” của Thiên Chúa Cha gửi đến để cùng với “tân giai nhân” vĩnh thệ một hôn ước mới, và hôn ước ấy được ký bằng chính Máu thánh của Ngài. Tân giai nhân, người đã kết hiệp với Chúa Giêsu, cũng trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi sự và nhất là đồng tế lễ đời mình với lễ tế thập giá của người mình yêu mến trên thập giá của mình mỗi ngày. Việc tế lễ ấy, mỗi người một cách theo như phân định của Thánh Thần theo ơn gọi của Thiên Chúa Cha. Vì thế “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (Bài đọc II). Vâng “chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”. Chính Chúa là căn tính duy nhất, là mối dây duy nhất mở đường cho lòng thủy chung của một hôn ước thánh thiện giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Người, giữa mỗi thành phần, mỗi nhiệm thể, trong cùng một nhiêm thể.

Bài Tin Mừng (Ga 2, 1- 11) đề cập đến cuộc hôn nhân kỳ diệu thứ ba: cuộc hôn nhân của nam nữ. Chúa Giêsu hiện diện trong bữa tiệc cưới tại Cana. Sự hiện diện của Chúa làm cho hôn nhân tự nhiên nâng lên hàng bí tích. Vì hôn nhân công giáo không được phép dừng lại ở cấp độ tự nhiên, nhưng phải được Chúa chúc phúc, Chúa ban ân sủng thì hôn nhân tự nhiên ấy mới duy nhất, bền vững- theo nghĩa đơn hôn và vĩnh hôn của giáo lý dạy. Ân sủng Chúa ban là việc Chúa biến nước lã thành rượu ngon, Chúa biến những ngày nhạt nhẻo thành nồng ấm, Chúa biến những âu lo thành nỗi vui mừng, Chúa biến những chán chường thất vọng thành hoan lạc hy vọng… Có Chúa trong đời sống hôn nhân công giáo, có thể nói là có bình an và hạnh phúc. Vì thế, hãy giữ Chúa Giêsu luôn tham dự tiệc cưới của mình, bữa tiệc cả đời người. Lời hứa của Isaia được hoàn thành nhờ Đức Giêsu, Đấng tham dự một tiệc cưới miền quê và cho họ một lý do ăn mừng với những chum đầy rượu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.

* Tường thuật về tiệc cưới Cana còn là “dấu chỉ đầu tiên”, qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?

  1. Phép lạ Ca-na diễn ra trong một bữa tiệc: Bữa tiệc là hình ảnh đựơc dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mê-si-a đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giê-su nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người vì mình là chú rể, là tân lang (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34). Còn thánh Gioan coi Hội Thánh là Giêrusalem mới như là tân nương trang điểm chờ đón Ðức Kitô như là tân lang (Kh 21:2,9). Chúa Giê-su coi giáo huấn của Ngài là thứ rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ (Mc 2,22). Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Ðức Giêsu biến rượu thành Máu Ngài. Mỗi lần dự Thánh Lễ là một lần dự tiệc. Bữa tiệc hôm nay chuẩn bị cho Bữa Tiệc Thiên Quốc. Theo thánh Gioan phép lạ hoá nước thành rượu bao hàm ý nghĩa thần học, nghĩa là tiên báo bí tích Thánh thể. Cũng như Chúa dùng quyền năng biến nước thành rượu, Chúa cũng dùng quyền năng biến đổi bánh rượu thành Mình Máu thánh Chúa. Phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana nhằm bày tỏ vinh quang Thần linh của Người; đồng thời nhằm củng cố, làm nảy sinh lòng tin nơi các môn đệ, khiến các ông tin vững vàng vào Thầy, trở nên những con người mới- những con người tin vào quyền năng Thần Linh của Thiên Chúa.
  2. Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một giao ước mới: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ, quá bám víu vào hình thức bề ngoài. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của con người. Việc nước hóa thành rượu tượng trưng cho việc Luật cũ chuyển qua Luật mới, Giao ước mới đậm đà như rượu thay thế cho Giao ước cũ đã nên nhạt phèo. Các chương tiếp theo trong Gioan sẽ lần lượt cho thấy các kiểu thay cũ đổi mới như thế: việc sinh lại bởi ơn trên tiếp sau việc sinh ra từ lòng mẹ (Ga 3), việc thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật thay thế việc thờ phượng ở Giêrusalem hay Garizim (Ga 4), Bánh Hằng Sống thay thế cho manna thời Xuất hành (Ga 6), Mục tử nhân lành thay thế các mục tử giả hiệu (Ga 10), Sự Sống Thật tiếp sau sự sống tự nhiên (Ga 11), máu chiên thay cho máu châu báu Chúa… Vương quốc mới, Đấng cứu độ chung quyết đã xuất hiện. Hết rồi những nghi thức bất toàn, những tập quán cũ kỹ, những lề luật trói buộc. Đức Kitô đã mang đến hân hoan, tự do, an bình.
  1. Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria: “Giờ con chưa đến”) có thể hiểu là giờ Chúa Giêsu chịu chết, được phục sinh và tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Nhưng vì Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép cho 6 chum nước trở thành rượu ngon (khoảng 700 lít). Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu. Trong 11 chương đầu, thánh Gioan thường dùng lối nói: “Giờ chưa đến” (2,4; 7,30; 8,20), nhưng “nó đang đến” (4,21.23; 5,25-28). Từ chương 12 trở đi, ta gặp lối nói: “Giờ đã đến” (12,23; 13,1; 17,1) nghĩa là giờ mang lại ơn cứu độ trên thánh giá (Ga 12:27), giờ được tôn vinh (Ga 12:23).
  1. Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, Mẹ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp. Tiếng bà dùng ở đây để chỉ Mẹ Maria không hề có nghĩa bất kính, mà chỉ là một kiểu xưng hô theo tập tục của của người Hy Lạp.Tước hiệu “bà” chẳng phải là dấu xa cách lạnh lùng, song là một cách gọi nhằm nêu bật vai trò của Đức Maria, Eva mới. Rồi đây tiếng “bà” sẽ được dùng lại với Mẹ một lần nữa trong cảnh cuối cùng dưới chân thập giá (“Thưa bà, này là con bà”), xuất hiện đúng vào “giờ” của Người, sẵn sàng đón nhận lời cuối cùng của Con, sẵn sàng “làm theo những gì Người bảo” trong giây phút quyết định đối với tương lai của mình, tương lai làm mẹ Giáo Hội.

Tình yêu của Chúa

Trong các thứ tình yêu, tình yêu vợ chồng là nồng nàn tha thiết nhất. Bởi đó, sách Sáng thế đã viết: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.

Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền. Thế nhưng, trong thực tế, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế. Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.

Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.

Sống trong tình yêu của Chúa

Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Ở Cana, khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin? Nhưng muốn có rượu ngon phải tuân thủ một điều kiện tiên quyết: “Người bảo gì thì cứ làm theo”. Đó là lời Đức Mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na. Đó cũng là lời Đức Mẹ nói với nhân loại ở mọi nơi, mọi thời. Đó là điều kiện không thể thiếu để lời chuyển cầu của Đức Mẹ đạt kết quả. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn trong gia đình. Chúa chính là Người sẽ giúp làm cho nước lã nhạt nhẽo hóa thành rượu ngon.

Ơn gọi sống đời hôn nhân và gia đình là một ơn gọi hết sức cao quí. Chính vì thế, phép lạ mở đầu cuộc đời công khai của Chua Giêsu, là phép lạ dành cho tiệc cưới Cana. Cả Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ của Ngài cùng tham dự tiệc cưới này. Điều đó nói lên rằng Thiên Chúa – qua con người Đức Giêsu – đã đánh giá bậc sống hôn nhân gia đình rất cao quí, đáng được ủng hộ và chúc phúc. theo suy nghĩ của Giáo Hội, thì Đức Giêsu đã lập bí tích hôn nhân trong tiệc cưới Cana này. Thật hạnh phúc cho những gia đình công giáo quây quần bên nhau trước bàn thờ mỗi tối, cùng đọc kinh, lần chuỗi. Chắc chắn các gia đình ấy đang sống hạnh phúc vì luôn có Chúa Giêsu tham dự vào đời sống hôn nhân của họ, nhờ sự can thiệp của Mẹ Maria.

Hãy đến với Mẹ

Mẹ Maria có mặt trong tiệc cưới không phải sự ngẫu nhiên mà là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngày nay, Mẹ đang có mặt trong cuộc sống gia đình chúng ta. Mẹ cùng chia sẻ nỗi lo với mỗi người chúng ta. Mẹ biết những khó khăn mà gia đình chúng ta đang gặp phải. Me hiểu gia đình chúng ta đang thiếu những gì và cần gì. Mẹ đón nhận cái khổ của các gia đình như là cái khổ của mình. Chính vì thế khi cuộc sống gia đình gặp sóng gió chúng ta hãy tìm đến với Mẹ Mariạ. Mẹ sẵng sàng làm những gì có thể để giúp gia đình chúng ta như năm xưa Mẹ đã báo cho Chúa biết việc hết rượu. Nhờ lời Mẹ cầu bầu, Chúa sẽ lại làm phép lạ để cho rượu yêu thương trong hũ của gia đình chúng ta được đầy tràn. Nhưng chúng ta hãy lắng nghe lời Mẹ Maria chỉ dạy. Mẹ không dạy chúng ta điều gì khác ngoài Lời Chúa và được đúc kết từ chính cuộc sống của Mẹ.

+ Lời cầu xin của Mẹ rất có hiệu lực. Chẳng có ai kêu cầu Mẹ mà Mẹ không nhận lời.

+ Bắt chước Mẹ: Dù lời xin của Mẹ bị Chúa chối từ (việc đó can chi gì đến…. giờ tôi chưa đến), nhưng Mẹ vẫn tin tưởng vào Chúa, nên nói với những người giúp việc: Người bảo gì, cứ làm theo.

+ Bắt chước Mẹ: quan tâm đến những người đang gặp khó khăn để cầu nguyện, chia sẻ, giúp đỡ…. như Mẹ đã quan tâm đến đôi tân hôn hôm nay. Đức Maria luôn và vẫn mãi là một người Mẹ rất tinh tế, rất nhậy cảm trước nhu cầu của người khác. Trong trường hợp của gia chủ cũng như của đôi tân hôn, chính Mẹ là người nhận ra nổi lo lắng và tình thế khó xử của họ- điều này có thể khiến cho gia đình của cô dâu chú rễ mất mặt- nên Mẹ đã nhờ Chúa Giêsu là người con Mẹ hằng tin tưởng yêu thương can thiệp nhằm giúp cho ngày vui của đôi tân hôn được trọn vẹn.

+ Xing vâng như Mẹ: Nghe theo Lời Mẹ: Người bảo gì, cứ làm theo. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời báo cho Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ dẫn dắt người ta đến gặp gỡ Lời Chúa, Mẹ khích lệ người ta chăm lo thực hành Lời Chúa, làm theo Lời Chúa, “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy. Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: “Giờ con chưa đến” sao? Vậy mà “Giờ con đã đến” vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: “Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con” là vậy. Có Mẹ đồng hành, chúng ta sống thực thi Lời Chúa ngày mỗi trọn vẹn hơn.

Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ. Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương. Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN C

Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo

Bài đọc I (Nkm 8,1-10) Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa. Ét-ra an ủi dân: “Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.

Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. “Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em.”

Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài được thụ thai bởi phép CTT. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm nay Ngài được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê để đi rao giảng. Trong suốt đời công khai giảng đạo của Người, Chúa Giêsu xác định mọi phép lạ Người thực hiện đều nhờ quyền năng Thánh Thần mà Người gọi là “ngón tay Thiên Chúa”; và sự hoạt động của Thánh Thần nơi Người là dấu chỉ của sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại (Lc 11:20). Để cho thấy sự cao trọng của Thánh Thần, Chúa Giêsu còn tuyên bố: “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha” (Lc 12:10). Khi nói chuyện với người đàn bà Samari bên giếng nước, Chúa Giêsu còn xác định việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực, bổn phận cao quý nhất của con người, không hệ ở nơi chốn nhưng phải là việc thờ phượng “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:24). Cũng vậy, khi giảng dạy về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng chính Chúa Thánh Thần là nguyên lý đem lại sự sống thần linh và mọi lời của Người đều chứa đựng Thần Khí: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6:63). Như chính Chúa Giêsu đã giảng dạy và hành động nhờ quyền năng của Thánh Thần, các môn đệ của Người cũng sẽ được Thánh Thần trợ giúp khi phải đối đáp với người đời (Lc 12:11). Chúa Giêsu đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại của Người bằng Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh mà Thánh Kinh nói đều do Thánh Thần hướng dẫn. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là “Đấng được xức dầu”. Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.

Các Tông Đồ là những người được tuyển chọn nhờ Thánh Thần (Cv 1:2) để làm nền tảng của Hội Thánh, sau khi sống lại Chúa Giêsu đã ban tặng các ông Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:23). Trước đó, Người cũng đã hứa ban Thánh Thần cho các ông để dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn (Ga 16:5-15). Trước lúc lên trời, Chúa Giêsu lại hứa ban cho các môn đệ sức mạnh của Thánh Thần để các ông trở thành chứng nhân của Người tại Giêrusalem và khắp cùng trái đất (Cv 1:8). Điều này đã được thực hiện trong ngày Lễ Hiện Xuống (Cv 2:1-36). Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động. Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.

Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẽ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô. Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau. Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô. Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có “người” nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có “người kitô hữu” đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình. Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, chúng con là cành”. Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau. Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa. Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau.

Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)

  1. Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”. Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa. Nghe đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta có cảm nhận được tình thương của Chúa cho mỗi người chúng ta không? Nếu cảm nhận được tình thương của Chúa đã đoái thương thân phận tội lỗi của chúng ta, chắc chắn chúng ta ta cũng khóc như người Do thái trong bài đọc 1. Chúa đến để cứu độ chúng ta.
  2. Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói: Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel. Việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo: Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập. Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả: Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con. Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố: Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông. Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố. Và trong bài Tin mừng hôm nay, sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu… Chúa Giêsu đã xác định điều Người nói cũng là điều mà Isaia đã nói về Người trước đó gần 900 năm. Điều ấy nói lên chính Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đấng ấy được muôn dân mong đợi, Đấng ấy đến từ Thiên Chúa và chính Người là Thiên Chúa, Giữa Isaia và Chúa Cứu Thế cách nhau một khoảng cách rất xa về thời gian, nhưng hôm nay đã ứng nghiệm và chính Người đã xác định điều đó. Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Ngài đến thế gian cũng với mục đích đó: cứu nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
  1. Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét, miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nỗi “không có nơi gối đầu”. Suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công.

Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?” Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lời tiên tri Isaia mà Ngài đang thực hiện: “Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.” (Mt 11,4,6) Dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội…Nhưng trước hết, Ngài chú ý đến những người đau khổ trong tâm hồn, giải thoát những tâm hồn tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, mở mắt đức tin. Công việc từ bi của Ngài luôn được tiếp tục trong giáo hội và qua Giáo hội. Nhờ các nhiệm tích, Chúa Giêsu tiếp tục giải thoát các tín hữu nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng họ bằng bánh Thánh Thể, ban cho họ sức mạnh ân sủng. Nhờ lời giáo huấn của Giáo hội, Chúa Giêsu tiếp tục thông truyền ánh sáng Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.

  1. Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cứ mỗi 50 năm, các nợ nần sẽ được xóa bỏ, trả lại đồ cầm cố; nô lệ được tha bổng; đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác, được trả về với chủ cũ và dân chúng được trao cho cơ hội để bắt đầu lại… (x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.

 Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).

Chúng ta không biết việc thực hành năm toàn xá có còn được người Ít-ra-en lưu truyền hay không. Tuy nhiên, Đức Giê-su công bố rằng, hôm nay, tự do của năm toàn xá sẽ trở thành hiện thực nhờ những lời nói và những việc Người làm. “Hôm nay” không phải là một thời khắc nào đó thuộc tương lai, bởi lẽ lời hứa của Thiên Chúa đã trở thành xác phàm nơi Đức Giê-su và Triều đại Thiên Chúa đã hiện diện. Đấy là việc công bố một năm toàn xá, là tin mừng khi mọi nợ nần được xóa bỏ, mọi lỗi lầm dĩ vãng được bỏ qua. Đấng được xức bằng Thánh Thần có khả năng làm cho chúng ta sống trong mối giao hảo với Thiên Chúa và với anh chị em khác.

Chúa đến trần gian là để giải thóat chúng con thóat vòng nô lệ của tội lỗi, không còn bị giam cầm trong ngục tù của thần dữ. Chúa đến để mở tai, mở mắt, mở lòng cho chúng con nhận biết Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, nhận biết Đức Giêsu là đấng Cứu độ trần gian và nhận biết mọi người anh chị em với nhau. Mọi người đều được sống trong niềm vui, không còn bị áp bức, bóc lột. Người công bố một năm hồng ân của Chúa cho những người nghèo khó cho thấy việc Người xuất hiện là khai mào cho thời kỳ cứu độ của Thiên Chúa. Chúa phán rằng sự hiện diện của Người mở ra một năm ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là khai mạc một thời đại mới, thời đại cứu độ. Loan báo Tin Mừng còn là loan báo “năm hồng ân”. Năm nay phải là năm đại xá, năm nợ nần sẽ được tha hết, nô lệ sẽ được giải phóng, là năm mà con người nhờ tuân theo luật Chúa sẽ lập lại được một trật tự trần gian ngày càng nên giống Nước Trời hơn.

  1. “Ngày của Chúa”: Những người Pharisêu nghĩ rằng “Ngày của Chúa” là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo “Ngày của Chúa” là ngày xóa nợ, ngày hồng ân.”Ngày của Chúa” không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là “Ngày của Chúa” hết. Tin Mừng về “Ngày của Chúa” là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8,34-36). Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời.

Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa.

  1. Chúa đã sai tôi đi: Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Nếu chúng ta nhờ Lời Chúa gọi: “Ai theo Ta, hãy vác thập gía mình mà theo”, thì khi gặp gian nan, thất bại, bị sỉ nhục, thay vì chúng ta phảm ứng tiêu cực, chúng ta nhận ra chính lúc này, Chúa chờ ta làm cho Lời Chúa ứng nghiệm bằng thái độ bình tĩnh, bao dung và bác ái với người xúc phạm ta. Khi chọn lựa sống theo tinh thần Tin Mừng, chúng ta làm cho Lời Kinh Thánh ứng nghiệm, cũng là đường lối rao giảng Chúa cho người hôm nay.

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN C (x. CN 14 năm B)

Người đến nhà mình, nhưng người nhà không đón rước Lc 4,21-30

Bài đọc 1 (Gr 1, 4-5.17-19) là một đoạn văn quan trọng của Sách Giê-rê-mi-a nói về sứ mạng của vị ngôn sứ. Để thi hành sứ mạng khó khăn ấy, Giê-rê-mi-a phải biết rõ mình có trách nhiệm nói Lời Chúa với ai (cả dân Chúa và dân ngoại), sẽ gặp trở ngại gì (bị tấn công) và phải có thái độ dũng cảm (đừng sợ) và tin tưởng vào sự hiện diện và hỗ trợ của Thiên Chúa. Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ”. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.

Giêrêmia là một trong 4 tiên tri lớn thời Cựu ước, đã được Thiên Chúa cho biết: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”. Đúng là Thiên Chúa đã chuẩn bị, Ngài chọn Giêrêmia từ xa xưa, sai ông đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”. Ông dám tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp. Tuy thường bị người ta đối xử tệ vì “Lời thật mất lòng”, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.

Qua bí tích Rửa Tội, rồi được Thêm Sức để lãnh nhận sức mạnh của Thánh Thần, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài. Giáo hội dạy chúng ta tiếp tục can đảm làm nhân chứng, làm tiên tri qua lời nói và việc làm. Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc (Bài Tin Mừng). Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều đã xảy đến với Người ở Nadaret, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người đã làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nadaret, và rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.

Bài đọc 2 (1 Cr 12, 31 – 13,30) “bài ca đức mến”. Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến. Đây là đoạn văn có thể xem là hay nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về đức ái Ki-tô giáo. Đời sống tôn giáo của người Ki-tô hữu được xây dựng trên ba nhân đức (gọi là đối thần) là tin, cậy, mến thì đức mến là đức tồn tại lâu bền nhất. Đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu được tràn ngập những đặc sủng (ơn nói tiên tri, ơn hiểu biết, ơn nói tiếng lạ, ơn đức tin chuyển núi dời non, ơn dũng cảm hy sinh cả mạng sống, …) thì ơn đức mến là ơn cao trọng hơn cả, vượt trên tất cả các đặc sủng mà người Ki-tô hữu có quyền ước ao và cầu xin. Theo thánh Phaolô, chỉ có đức ái mới đáng kể! Ðó là những lời nói đầy Thánh Linh: Thiếu đức ái, thiếu tình yêu thương, thì tất cả chỉ là hư không và trống rỗng. Những hành động hy sinh đầy quả cảm anh hùng cho đức tin và sự xả thân phục vụ tha nhân, v.v… đều không có giá trị, nếu chúng không được đặt trên nền tảng đức ái.

Thi hành sứ vụ ngôn sứ: nói Lời Chúa, loan truyền Lời Chúa cho người khác, bằng lời nói và việc làm, bằng đời sống của mình. Nói Lời Chúa làm sao cho thuyết phục? Thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô là một câu trả lời tuyệt vời nhất: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người, và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì…” (1Cr 13,1-2)

Bài Tin mừng: Lc 4,21-30

  1. Một vài nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Chúa Giêsu có hai lần về Nagiarét. Một lần thì Người được tung hô, đón nhận, và lần khác thì bị tẩy chay, ngược đãi. Thế nhưng, việc thánh sử Luca kể liền một mạch hai thái độ trái ngược của người đồng hương Chúa Giêsu cũng nhắc nhớ cho ta thấy rõ lòng người rất dễ đổi trắng thay đen, khi sự ích kỷ, nhỏ nhen ngự trị. Sau này dân thành Giêrusalem cũng thế. Trước thì hoan hô, chúc tụng Con vua Đavit, thế mà sau đó mấy ngày lại giơ cao nắm đấm, la gào: “đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá”. (x. Mt 21,9; 27,23). Thánh sử Luca cho thấy, ngay sau khi người dân Nazarét thán phục về những “lời hay ý đẹp” trong giáo huấn của Chúa thì liền sau đó là thái độ tỏ rõ sự xem thường về nguồn gốc của Chúa. Họ xem thường Chúa Giêsu vì hai lẽ. Trước hết, vì họ quá biết rõ gia thế của Chúa Giêsu là con bác thợ mộc không hơn không kém. Và vì thái độ này nên họ cố đòi cho bằng được phép lạ như Chúa đã làm tại Caphácnaum để thử xem “tài” của Chúa đến đâu. Nếu như Chúa Giêsu là một tư tế, một kinh sư, hay ít ra cũng có một địa vị nào đó trong xã hội, thì có thể mọi sự sẽ khác. Cho nên, thành kiến về con người, về địa vị, nhất là quan niệm sai lầm về Đấng Thiên Sai, khiến họ không thể nào chấp nhận được Chúa Giêsu. chính vì Chúa chọn cuộc sống nghèo khó và khiêm tốn nên người ta khinh dể Chúa. Đức Giêsu không làm phép lạ tại quê hương của Người vì dân làng cứng lòng tin và vì họ không chấp nhận những kẻ tội lỗi, ngoại đạo cũng được Chúa thương và cứu rỗi như họ.

-Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Bố làm nghề mộc, mẹ lo việc nội trợ, còn anh ta thì cùng lắm chỉ là người kế tục nghề mộc được truyền từ người bố, chứ có gì đặc biệt đâu! Thế nên, dù có công nhận những lời lẽ thốt ra từ miệng con bác thợ mộc là “lời vàng, lời ngọc” thì họ cũng không sao vượt qua được một thứ định kiến đã ăn sâu vào nếp nghĩ của họ. Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth. Cũng vậy, nhân loại trong xã hội, người này từ khước người khác, kẻ này phỉ báng kẻ nọ, cũng chỉ vì định kiến, ác cảm cá nhân. Trong đời sống tôn giáo, cộng đoàn đôi khi cũng giúp cho một con người nên thánh nhưng cũng có thể đẩy một người lao xuống hảo ngục. Nhất là thực trạng “Bụt nhà không thiêng” đã khiến bao nhiêu người không thể phát huy tài năng ngay giữa anh em mình. Sự chê bai, xem thường còn làm cho chính những người đang sống với mình luôn cảm thấy bất an, đau khổ vì những lời chê bai, vu khống bâng quơ, đầy ác ý.

– Người ta cũng thường đánh giá một người tùy theo những gì thấy được ở bên ngoài, chứ không thấy được giá trị thâm sâu ở bên trong. Thấy người giàu, người có địa vị thì kính nể, vồn vã đón tiếp; còn đối với người nghèo thì coi thường, xa tránh. Nhưng mọi người đều mang hình ảnh Thiên Chúa, đều là con Thiên Chúa nên có phẩm giá như nhau. Chúng ta hằng lên án lối sống phô trương bên ngoài, nhưng trên thực tế, chúng ta lại căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Thiên Chúa không đánh giá con người như thế. Ngài yêu thương tất cả và coi trọng tất cả. Và giá trị con người không phải ở những cái bên ngoài mà trong chính tâm hồn của họ được dựng nên và kêu gọi làm đền thờ của Chúa và còn là thân thể màu nhiệm của Chúa Giêsu. Thánh Phao lô gọi các tín hữu là thánh trong thơ của Ngài khi Ngài viết: các thánh ở Côrintô gửi lời chào anh em. Nghĩa là các tín hữu của Chúa Kitô gửi lời chào anh em.

Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người có qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chính chúng ta cũng từng là những con người tội lỗi…

Cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cận, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.

Đứng trước thái độ khinh khi đó, Chúa Giêsu đã cho người dân Nazarét thấy rằng các Ngôn sứ không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình. Chính vì thế, bằng hai câu chuyện từ Cựu ước, Chúa Giêsu không chỉ cho thấy chân lý xuất phát từ câu tục ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà cao hơn, đó còn là sự diễn tả một cách nhìn, một sự tiên báo cho công cuộc và sứ mệnh rao giảng của Người sẽ được mở ra cho muôn dân- tính phổ quát của ơn cứu độ- một khi lời rao giảng đó không được những người trong nhà đón tiếp mà cụ thể là dân làng Nazarét nói riêng và dân Israel nói chung (x. Bài đọc 1 và bài TM).

  1. Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta được qua cơn đói kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói vì nạn hạn hán mất mùa. Bà may mắn gặp được ngôn sứ Ê-li-a. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà đã được ông làm phép lạ cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ê-li-sa là đồ đệ của Ê-li-a, nổi tiếng vì khả năng chữa bệnh lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan Na-a-man bị bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm tới ngôn sứ Ê-li-sa để xin chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn làm theo lời ngôn sứ xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và sau đó ông đã được khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).

Trong câu chuyện của Ngôn sứ Êlia, khi đất nước Dothái bị hạn hán trong khoảng ba năm ròng rã, ấy thế mà Thiên Chúa không sai “người nhà” của mình là Êlia đến để cứu đói dân Israel đang lâm nguy mà lại sai đến với một bà goá dân ngoại ở thành Xarépta thuộc Xiđon. Cũng giống như thầy mình, Ngôn sứ Êlisa đã chữa lành bệnh phong cùi cho một vị tướng người Syria tên là Naaman khi ông từ miền đất dân ngoại đến gặp Êlisa ngay trên đất nước Israel. Điều này cho hay thiếu phụ thành Xarépta miền Xiđon và vị tướng của Syria đại diện cho một tầng lớp đông đảo những người có nguồn gốc từ dân ngoại sẽ được giải phóng, sẽ được lãnh nhận tin mừng như lời loan báo của Ngôn sứ Isaia xưa nay trở thành hiện thực vào thời đại của Chúa Giêsu. Như các ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa, Đức Giê-su không phải chỉ được sai đến với dân Do Thái mà thôi. Người dân Nazarét càng giận dữ Chúa Giêsu hơn vì hơn ai hết, họ hiểu rõ câu chuyện trong Cựu ước mà Chúa Giêsu gợi lên để nhắm vào chính thái độ cứng tin của họ. Cơn giận dữ lên đến cực điểm khi họ cùng nhau đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên đỉnh núi để định xô xuống vực. Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn đòi hỏi của họ muốn xem phép lạ, không làm theo ý họ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương Na-da-rét của Người.

Những gì xảy ra trong hội đường Nazarét hôm nay như là sự loan báo cho những bi kịch mà Chúa Giêsu sẽ phải chịu trong cuối sứ vụ rao giảng của Người. Một sứ vụ sẽ dẫn Người đến với cái chết nhục nhã trên Thập giá do bởi chính những người cùng mầu da, huyết thống, cùng tổ quốc với Người lên án, đúng như Thánh sử Gioan đã từng viết trong Tin mừng: “Người đến giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Ngươi. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa” (Ga 1, 10-12)

  1. Một thực tế đời thường: “Quen qúa hóa nhàm; gần chùa gọi bụt bằng anh, Bụt nhà không thiêng”, “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” Người ta thường thiếu sự kính trọng khi hằng ngày phải tiếp xúc, gặp gỡ với một điều gì đó thường xuyên. Cũng vậy, ngay cả những gì quý trọng và gía trị cũng sẽ bị mất gía hoặc giảm gía khi người ta thường xuyên xử dụng. Thường khi mất đi hoặc không còn nữa, người ta mới hối tiếc hoặc xót xa. Người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tai hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc. Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai. Ông ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: “Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng” (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “Nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước” (Ga 15,18).

  1. Người Do thái có quan niệm hẹp hòi về Nước Chúa, nước Chúa đối với họ chỉ là nước Do thái. Họ vẫn đinh ninh rằng chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ xem khinh các dân tộc khác. Bởi thế khi thấy Chúa mở rộng tầm nhìn đến các miền dân ngoại, đến miền Sidon, đến Syria, thì họ không chấp nhận. Qua lời phanh phui của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu tâm trạng của dân làng Na-da-rét là muốn đòi quyền ưu tiên hưởng những ân huệ Chúa mang đến. Vì thế, Chúa đưa ra hai thí dụ trong Cựu Ước để từ chối không thỏa mãn yêu sách đó. Ngài dạy họ hãy tránh thái độ ích kỷ, phải biết mở rộng lòng ra đối với mọi người. Thiên Chúa là Chúa của mọi người chứ không của một riêng ai hay của một dân tộc nào. Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha phong vương, “xức dầu“, để đem tình thương và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa cho cả nhân loại. Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ hiểu được tại sao Chúa Giêsu có phản ứng mãnh liệt đối với quan niệm ích kỷ và hạn hẹp vừa kể của các người đồng hương

Không phải cứ là người Do Thái, không phải cứ là người thuộc về dân riêng của Chúa thì sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc. Sự thật này còn được chứng tỏ rất nhiều lần trong Phúc âm. Thực vậy, rất nhiều lần Chúa đã lên tiếng khen ngợi lòng tin của những người ngoại giáo và Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn nữa khi nói: Những kẻ tội lỗi, thu thuế và gái điếm sẽ được vào Nước Trời, còn con cái trong nhà thì sẽ bị đuổi ra ngoài. Lần khác Ngài cũng đã xác quyết: Mẹ Ta và anh em Ta chính là những người biết lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.Với chúng ta cũng vậy, chúng ta vốn tự hào vì mình là người đạo dòng, đạo gốc. Chúng ta vốn hãnh diện vì mình đã được lãnh nhận bí tích Rửa tội cũng như đã tin vào Chúa từ hồi còn tấm bé. Và chúng ta yên trí rằng: chắc chắn mình sẽ được cứu rỗi. Nếu quả thực đã nghĩ như vậy, thì chúng ta đã lầm to. Bởi đó, cách thức bảo đảm nhất để chiếm lấy niềm hạnh phúc vĩnh cửu, đó là hãy tuân giữ lời Chúa, thực thi những điều Ngài truyền dạy, nhất là giới luật yêu thương, như Ngài đã từng nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.

Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa. Có thể tôi cũng đã từ chối Chúa, xua đuổi Chúa khi Chúa đến với tôi qua những người nghèo

  1. Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể “băng qua giữa họ mà đi”, không trừng phạt họ; Người là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn “xô Người xuống vực thẳm”, thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.

Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Ngài không làm phép lạ để ép người ta tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin vào Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa. Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.

  1. Kinh nghiệm kim cổ cho chúng ta thấy rằng khi thì hành sứ mạng ngôn sứ, các “phát ngôn viên” của Thiên Chúa thường sẽ phải sự chống đối, thù hận, thậm chí ám hại của người đời nữa. Chuyện này không chỉ xẩy ra trong thời Cựu Ước mà vẫn đang xẩy ra trong thế giới văn minh ngày nay. Bằng chứng hùng hồn là hàng năm con số các nhà báo và các nhà truyền giáo bị giết hại luôn làm cho nhiều người phải kinh ngạc (năm 2020, 42 nhà báo bị giết hại và còn biết bao nhiêu nhà báo bị bỏ tù, chèn ép,…; Theo Thông tấn xã Fides, năm 2003, ít nhất 29 người Công giáo đã bị giết trong khi đang làm việc truyền giáo.  Trong số đó, có bốn giáo dân, một tu sĩ, ba chủng sinh, 20 linh mục và một tổng giám mục) Họ bị giết hại, không phải vì chiến tranh bom đạn mà vì họ đã “to gan” dám nói lên sự thật, bênh vực công lý và tố cáo cách làm ăn phi pháp hay tội ác của một số cá nhân hay đảng phái, thậm chí cả chính quyền của một số quốc gia.  Bài Phúc âm hôm nay cho ta thấy chính Đức Giê-su Ki-tô cũng đã từng bị đối xử tồi tệ bởi chính những người đồng hương của Ngài ở Na-da-rét. Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh em!” (Gioan 8: 32). Chúng ta thường không thích nghe những lời “nói thẳng và nói thật” vì va chạm tự ái của chúng ta; nhưng nếu biết khiêm tốn lắng nghe và sửa đổi, thì “Sự Thật lại giải thoát chúng ta” khỏi những khuyết điểm mà mình không nhìn ra, và như thế “Sự Thật” xây dựng chúng ta. Trái lại, những lời nịnh bợ tâng bốc thường làm chúng ta ra mù quáng và không nhìn được rõ những khuyết điểm để sửa đổi. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20). Bất cứ ai sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào. Đúng là sự thật mất lòng và đưa đến thù hận. Nhưng trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã không sợ nói sự thật để cảnh tỉnh họ và giúp họ sửa đổi, và có thể nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Ngài. Tuy nhiên,  vẫn có những người đầy tự ái, như các kinh sư, biệt phái, họ không muốn nghe sự thật; họ căm phẫn, và nhiều lần họ đã âm mưu giết Chúa. Cuối cùng họ đã lên án và giết Người trên Thánh Giá. Nhìn vào đời sống của các Tiên Tri thời Cựu Ước, chúng ta thấy các tiên tri được Chúa sai đến để nói sự thật với Dân Chúa cũng chỉ với mục đích kêu gọi họ bỏ cuộc sống tội lỗi, vô luân để sống theo lề luật Chúa, sống xứng đáng con cái Chúa. Dân chúng thường đón nhận lời các tiên tri; nhưng cũng vẫn có những kẻ chống đối, và có những tiên tri bị bách hại, bị xua đuổi  và có khi bị giết chết nữa (Matthêu 23: 34-36). Vị tiên tri cuối cùng là Thánh Gioan Baotixita cũng bị tù đày và giết hại.

Vì vậy, nếu cuộc sống mỗi người có gặp phải những thử thách tương tự, nghĩa là nếu người đời hiểu lầm hay nghi ngờ thiện chí của chúng ta, hoặc lấy oán đền ơn cho chúng ta, hoặc những khi bị ganh ghét dèm pha, những lúc bị khinh rẻ, bỏ rơi, những khi bị lừa gạt, thất bại, nhất là bởi những anh chị em thân thiết chung quanh, những lúc đó chúng ta hãy nhớ lại bài Tin Mừng hôm nay, hãy nhớ đến Chúa Giêsu và hồi tưởng lại cảnh Chúa bị khinh rẻ, hất hủi cách bất công trên đây, chúng ta sẽ cảm thấy mình được nhẫn nhục, tin tưởng và an ủi, vì Chúa thông biết mọi sự và thấu hiểu nỗi cơ cực của chúng ta/

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN C (x. CN 3 năm B, CN 3 năm A)

Chúa gọi các môn đệ đầu tiên

Bài đọc I (Is 6,1-8)

Tường thuật ơn gọi của Isaia. Isaia thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện. Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy Isaia và sau đó mời gọi ông làm ngôn sứ, thì Isaia đã mạnh dạn đáp lời.

Bài đọc II (1 Cr 15,1-11)

Ơn gọi làm Tông đồ và thái độ khiêm tốn của Phao-lô, vì ngài ý thức việc sai trái đã làm trước khi được Chúa hiện ra và biến đổi ngài nên người phục vụ Tin Mừng giữa dân ngoại. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác.

Tin Mừng (Lc 5,1-11) Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên

  1. Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa kêu gọi con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc I). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được gọi (bài đọc II). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin Mừng). Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
  2. Có khi ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đặc biệt với Chúa. Cuộc gặp gỡ đặc biệt làm nẩy sinh một cảm nghiệm sâu sắc. Rồi cảm nghiệm sâu sắc cuốn hút con người vào một tương quan thân thiết mới mẻ với Chúa. Như trường hợp của Isaia, ông vẫn biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và mạnh mẽ hơn các thần khác. Nhưng hôm ấy trong Đền thờ ông biết thêm rằng Ngài là Đấng hoàn toàn khác, là Đấng thánh gấp 3 lần. Điều đó khiến ông xúc động mạnh. Ông diễn tả cảm xúc mạnh mẽ ấy qua những hình ảnh các trụ của đền thờ rung chuyển và khói tỏa mịt mù khắp Đền thờ. Còn Phaolô thì mô tả việc Chúa gọi ông đột ngột như “một đứa trẻ sinh non” trước khi đủ ngày đủ tháng. Phần Phêrô, mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
  3. Nhưng nhiều khi Chúa gọi con người trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt: nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng, nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ chuyển hướng cả cuộc đời. Hôm đó Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu. Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì cuộc đời chắc chắn sẽ biến đổi.
  4. Bất xứng và tín nhiệm

Ba bài tường thuật ơn gọi hôm nay đều có những nét giống nhau: Tất cả những người được gọi đều cảm thấy bất xứng: Isaia thốt lên “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế”; Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”; Phêrô thì sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu “Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao. Tại sao phải kinh khiếp và run sợ như vậy? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình. Ý thức khoảng cách ấy làm cho con người ta run sợ. “Ðừng sợ”, đó là lời trấn an thường gặp trong Cựu Ước và đặc biệt trong Tin Mừng Luca (1,13.30; 2,10; 5,10; 8,50; 12, 7.32).

Nhưng tất cả đều được Thiên Chúa tín nhiệm: Isaia được trao sứ mạng ngôn sứ; Phêrô được chọn làm tông đồ; Phaolô được sai đi làm tông đồ cho lương dân. Dù biết mình bất xứng mà Thiên Chúa vẫn tín nhiệm, nên các ngài đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng được trao phó: Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa “Dạ con đây, xin sai con đi”; Phêrô “đưa thuyền vào bờ rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”; Phaolô dám khoe “Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.

  1. Thành quả vàng son

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng? Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì”. Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao? “Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở. Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: “Vì lời Thầy con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8).Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng. “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.

“Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.

Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã “bỏ mọi sự mà đi theo Người ” (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.

Isaia, Phaolô và Phêrô là những gương mặt trung tâm của các bài đọc hôm nay. Cả ba đều đã làm được những việc trọng đại cho Chúa. Tuy nhiên cả ba, ai cũng mang mặc cảm thấp hèn, coi mình là người yếu kém. Các ngài không tự mình tiến lên phía trước, nhưng được Chúa mời gọi tiến lên. Các ngài đáp lại tiếng Chúa gọi một cách miễn cưỡng vì biết mình không xứng đáng. Thánh Phaolô nói một câu rất nghịch lý: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Nghịch lý nhưng rất có lý, bởi vì khi Ngài biết mình yếu thì Ngài tìm về Chúa, và chính sức mạnh của Chúa làm cho Ngài mạnh. Isaia nói rằng môi miệng ông ô uế, nhưng Chúa đã sai thiên thần lấy than hồng thanh tẩy miệng ông. Phêrô xin Chúa lánh xa ông, nhưng Chúa gọi ông chia sẻ sứ mạng của Ngài. Chúa không chê bỏ người tội lỗi, trái lại Ngài đến với những kẻ tội lỗi, để cứu họ, và để mời họ hợp tác cứu những người tội lỗi khác.

  1. Chúa đang mời gọi chúng ta ra khơi: Chúa cần đến Phêrô ra khơi thả lưới, thì hôm nay Chúa đang cần đến chúng ta tiếp tục thả lưới ngoài khơi, để nhờ sự cộng tác của chúng ta, chương trình cứu độ của Chúa sẽ triển nở không ngừng. “Nhưng vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”: Vâng lời, chìa khóa của thành công và mở ra muôn điều kỳ diệu. Chúa luôn làm những điều thật bất ngờ cho những ai biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng, cũng như biết vâng theo thánh ý Ngài. Sự vâng phục là điểm nổi bật trong niềm tin của Phêrô. Một người trong nghề như Phêrô biết phải đánh cá khi nào và chỗ nào thì mới có cá. Mặt trời đã mọc, trời đã sáng, nước thì trong, làm gì mà bắt được cá….Trải nghiệm của một ngư phủ chuyên nghề lẽ ra đã khiến ngài phớt lờ lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu. Nhưng không, Phêrô đã mau mắn nghe theo, mà không biện lý hay chống đối: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5, 5). Dấu lạ “hai thuyền đầy cá” là kết quả của niềm tin vâng phục của Phêrô vào lời Chúa Giêsu. Ý nghĩa biểu tượng này được làm tiền đề cho việc phát triển giá trị tâm linh về niềm tin của người tông đồ Chúa trong sứ vụ. Thiên Chúa mời gọi chúng ta chỉ một điều: vâng lời Ngài. Có nhiều điều chúng ta không thể hiểu được nhưng, phó thác và vâng lời là điều kiện tối thiểu để Thiên Chúa làm những điều lạ lùng trong cuộc sống của chúng ta.

Giáo hội hôm nay với biết bao con người nhiệt tâm, không quản ngại khó khăn, đã “vâng lời Thầy” đến những nơi hiểm nghèo nhất để đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Họ sẵn sàng “chèo” đến những vùng “sóng cả” do nạn kỳ thị Ki-tô giáo để dựng xây hoà hợp, công bình, yêu thương. Giữa một xã hội chạy theo trào lưu hưởng thụ, vẫn có nhiều bạn trẻ biết đặt niềm tin mãnh liệt vào lời mời gọi của Thầy Chí Thánh. Các bạn là hiện thân của những “Si-mon Phêrô” nhỏ giữa lòng đời hôm nay. Niềm tin vào chính Đấng là chủ tể của tự nhiên và lịch sử sẽ giúp chúng ta lạc quan hơn nhiều trong việc cộng tác thông truyền ơn cứu độ của Chúa cho đồng loại. Nó được bắt đầu từ thái độ vâng phục và khiêm tốn của chúng ta trước tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay nổi bật lên khuôn mặt ông Simon. Chúng ta nên nhớ ông Simon là một ngư phủ, không có học thức cao và đã lập gia đình. Ông giống như một giáo dân bình thường ở một họ đạo gần vùng biển. Chẳng ai dám nghĩ tới đời ông có thể rẽ sang một hướng mới. Ấy thế mà chuyện ấy lại xảy ra cho ông. Ông trở thành Ðá Tảng cho toà nhà Hội Thánh. Hội Thánh được xây dựng trên những ông đánh cá ở hồ Galilê, và đã đứng vững suốt 20 thế kỷ. Phép lạ đó lớn gấp ngàn lần phép lạ bắt được nhiều cá. Vậy đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ dành cho linh mục, tu sĩ, mà dành cho mọi giáo dân. Ai cũng phải sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, xuyên qua những biến cố bình thường hay lạ lùng của cuộc sống hàng ngày. Ai cũng phải vui lòng để Chúa đưa mình đi vào hướng mới, khác với những lối mòn quen thuộc. Và nhất là ai cũng phải mau mắn bỏ mọi sự mà theo Chúa. Bỏ mọi sự chính là đặt mọi sự dưới Chúa và sử dụng mọi sự trong Chúa.

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN C (x. CN 4 năm A, Lễ các thánh, Lễ Giao thừa)

Bát phúc

Bài đọc I (Gr 17,5-8) Ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh: Con đường dẫn đến hạnh phúc là đặt niềm tin nơi Chúa. Con đường đưa tới bất hạnh là đặt niềm tin nơi người đời.

Bài đọc II (1 Cr 15,12-16.20) Thánh Phaolô xác tín về việc kẻ chết sống lại: Đức Kitô phục sinh là bằng chứng rõ ràng về việc kẻ chết sống lại. Đức Kitô không chỉ có khả năng làm cho bản thân Ngài sống lại, mà còn có thể làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được sống lại như Ngài. Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.

Tin Mừng (Lc 6,17-26) Bài giảng này có những điểm giống và những điểm khác với bài giảng trên núi trong Tin Mừng Matthêu: Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời quở trách.

  1. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh phúc vĩnh viễn bên cạnh Ngài. Bởi thế loài người luôn khát khao hạnh phúc. Thế nhưng hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh. Hôm nay Chúa sẽ dạy ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy. Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.

Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản đề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa. Những điều ta coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo là hạnh phúc. Nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, xỉ vả: những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bị xỉ vả vì Chúa, thì ta thật là người có phúc.

  1. Bi kịch của con người mọi thời khi cho rằng càng có nhiều tiền của, tiện nghi, quyền lực, danh vọng thì càng được hạnh phúc. Họ chỉ cậy dựa vào quyền lực trần thế như lời ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 đã cảnh báo: “Khốn cho kẻ tin tưởng vào người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ xa Chúa”. Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ coi tiền bạc là tất cả, coi tiền bạc trọng hơn người khác, coi tiền bạc là mục đích sống ở đời này. Cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Dưới con mắt Chúa, làm giầu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”. Ngày phán xét chung, Chúa không hỏi: Ông hay Bà lài ai, làm tới chức vụ gì? Nhưng Chúa hỏi “các ngươi đã làm gì cho anh em bé mọn của Ta? (Matt. 25:31-46). Nên tiêu chuẩn thưởng phạt của Chúa không là chuyện who you are? But what you did?  Theo quan điểm nầy, chúng ta mới hiểu được tại sao người giàu có khó vào nước thiên đàng còn hơn lạc đà chui qua lỗ kim? Đường vào thiên đàng là đường hẹp. Người giàu có thường tham lam, tom góp, tiếc sót không chịu bỏ bớt hay đơn giản hóa cuộc sống. Họ làm cho mình thành to lớn và quá cồng kềnh không sao vào cửa hẹp thiên đàng được (Matt.7,13) 
  1. “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Bài đọc 1). Những người nghèo khó mà Tin Mừng nhắc đến hôm nay không chỉ thuần tuý là những người thiếu cơm ăn áo mặc, nhưng là những người nghèo theo nghĩa biết tín thác cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa, biết cậy dựa vào Chúa, lấy Chúa làm cứu cánh của cuộc đời mình. Như thế, họ sẽ trở thành những người có Thiên Chúa làm gia nghiệp, và họ sẽ là những người hạnh phúc thực sự, cho dẫu họ có là người nghèo đích thực.

Lý do hạnh phúc của người nghèo là tuy họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng họ có Nước Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là của anh em”. Có Nước Thiên Chúa là có tất cả. “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?” Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo: chẳng hạn có những người rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên; hay thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một dòng tu quy tụ những người muốn sống nghèo như ngài; hay những tu sĩ với lời khấn trọn đời sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc. “Tri túc, tiện túc”: biết đủ thì đủ. Vì chỉ cần tối thiểu như thế nên lòng họ không bị giao động vì những ham muốn có thêm. “Túi tham không đáy”: lòng ham muốn sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên cứ giao động hoài. Không tham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên. Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác. Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn. Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được Thiên Chúa yêu thương che chở.

Khi Chúa Giêsu nói “Phúc cho những người nghèo”, Ngài không chúc phúc cho sự túng thiếu và bần cùng đâu, vì túng thiếu và bần cùng là những điều xấu. Điều được chúc phúc chính là sự cậy trông vào Chúa. Ai cậy trông vào những gì thuộc về loài người thì sẽ bị thất vọng, còn ai cậy trông vào Chúa sẽ chẳng thất vọng bao giờ. Chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta. Chỉ một mình Ngài mới có thể thỏa mãn những đói khát của chúng ta. Người giàu thường hay cậy dựa vào tiền bạc của cải của họ. Đối với họ, chỉ có đời này là quan trọng, còn đời sau hay là Chúa đều là quá xa vời. Trái lại người nghèo thì tự nhiên dễ hướng về Chúa, cuộc sống càng cơ cực khó khăn thì họ càng cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Mà ai cậy dựa vào Chúa thì sẽ được Ngài phù hộ chở che. Khi người nghèo nhận được một điều gì đó, dù rất tầm thường, họ cũng lấy làm sung sướng và biết ơn.

Kẻ nghèo không hẳn chỉ là người không tiền bạc hay nghèo của cải vật chất nhưng là người coi nhẹ vật chất tiền bạc. Họ dùng tiền của để mua lấy nước trời bằng đời sống bác ái, biết chia sẻ cho kẻ nghèo đói. Nói đúng hơn đó là người có Chúa hay để Chúa hành động trong chính mình. Chúa chính là hạnh phúc. Chỉ có Chúa mới lấp đầy khát vọng mênh mông của đời người như thánh Augustinô nói. Có Chúa là có tất cả các mối phúc thật. Không có Chúa là lãnh nhận tất cả những bất hạnh trong đời sống. Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn. Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con, ai cũng nghèo về một mặt nào đó, ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có. Thiên Chúa đâu muốn cho con cái của mình phải nghèo khổ thiếu thốn. Xin hãy hãnh diện và hạnh phúc vì là Kitô hữu.

Có nhiều gia đình lúc nghèo hạnh phúc, nhưng khi giàu có, mạnh ai nấy sống…. Hai thế hệ qua của ông bà cha mẹ chúng ta xem ra họ hạnh phúc hơn chúng ta. Họ trong sáng hơn chúng ta. Họ có nghèo hơn chúng ta, có vất vả hơn chúng ta thật, nhưng họ thật sự hạnh phúc hơn chúng ta. Tại sao thế? Chính cái nghèo đã giúp họ giữ được thế quân bình trong đời sống luân lý. Chính cái nghèo đã giúp cho gia đình họ biết làm việc cần cù, có được tinh thần đạo đức, biết rõ thân phận yếu đuối mỏng manh của con người để rồi biết sống tín thác vào Thiên Chúa. Chính cái nghèo đã giúp họ vạch ra được giới hạn cho những ước vọng của họ đối với của cải, giúp họ bảo tồn được sự khiêm tốn trong sự liên hệ cá nhân, giúp họ có được sự can đảm chịu đựng những gian khổ và nuôi lấy hy vọng. Và cũng chính cái nghèo đã giúp họ biết cảm thông, biết chia sẻ những buồn tủi, những cay đắng, những khổ đau, những bất hạnh của cuộc đời với những người thân yêu của họ. Chính những điều đó đã giúp họ tạo được những gia đình an vui và hạnh phúc đúng như lời Thiên Chúa đã chúc phúc: Phúc cho các ngươi, hỡi những người nghèo khó vì nước trời là của các ngươi!  Nếu chỉ xét đến mặt nhân bản thôi, thì sống trong cảnh nghèo khổ mà yêu thương, hiệp nhất, mà biết chia sẻ cho nhau, mà bác ái, vị tha rộng lượng… thì rõ là con người ta có giá trị hơn khi giàu có mà ích kỷ, hơn thua, xâu xé, thậm chí còn đánh mất đi những hạnh phúc tuyệt vời: Hạnh phúc gia đình. Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng lên rồi, thì trông cho có người đi lễ”, vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm nay, cũng đã bắt đầu ít người đi lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy chục người, chỉ toàn là ông bà già- thỉnh thoảng có thêm vài ông chức việc trong giáo xứ…Có ông già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ khò”.

  1. Còn mối phúc thứ tư là những người bị ghét bỏ, loại trừ và bách hại vì Chúa, là những môn đệ của Chúa, họ chung số phận với các ngôn sứ. Ngược lại, mối họa thứ tư là những người được thế gian trọng vọng, là giới kinh sư, Pha-ri-sê. Họ giống như những ngôn sứ giả trong lịch sử dân Chúa. Trung thành với Chúa, chấp nhận cái chết và nhục nhã là cái phúc. Trái lại chối từ Chúa và được người đời trọng dụng thì lại là họa vì sẽ bị Chúa chối từ phần phúc thiên đàng “hãy xa Ta ra, vì ngươi đã chối ta trước mặt thế gian” (Matt.10:33) Chịu nhục nhã và chết vì Chúa thì có phúc vì được sống đời đời. Trái lại, được người đời ca ngợi và được sống cuộc sống sung sướng vật chất thì là họa vì sẽ bị phạt trong hỏa ngục đời đời mai sau.  Chúa Giê-su cho thấy người môn đệ, dù có gặp bất cứ hoàn cảnh nào tồi tệ đến đâu đi nữa (nghèo, phải đói, phải khóc, bị oán ghét sỉ vả và khai trừ) thì họ vẫn không phải vì thế mà mất hạnh phúc. Hạnh phúc mà họ có vượt trên mọi hạnh phúc trần gian. Hạnh phúc đó là được Thiên Chúa yêu, gọi, chọn và thưởng. Còn những thứ mà người đời coi là hạnh phúc (như giầu có, no nê, được vui cười và ca tụng) thì chỉ có giá trị nhất thời, chóng qua và nguy hiểm. Người nghèo chỉ biết cậy dựa vào Thiên Chúa.
  2. Ðức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta. Ngài là một người thợ thủ công nghèo, Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói, Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem, và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết. Nhưng Ðức Giêsu là con người hạnh phúc, vì biết mình luôn sống cho Cha và con người. Ước gì chúng ta sống như Ðức Kitô, tự nguyện trở nên nghèo hơn để làm giàu cho người khác (2Cr 8,9). Chính Đức Giêsu đã dạy chúng ta cầu xin cho có lương thực hằng ngày; Người còn xác nhận: “Ta đến cho chiên được sống dồi dào!” (Ga 10,10). Tuy nhiên, Người cũng cho chúng ta biết rằng: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền tài được” (Mt 6,24). Mối phúc ‘nghèo khó’, vì thế, nhằm tuyên bố sự thực rằng Chúa ưu tiên đứng về phía người nghèo, để bênh vực và nâng đỡ họ.

Chúa Giêsu đã sống nghèo vật chất: ‘con chim có tổ, con cáo có hang, nhưng Con Người…’. Nhưng hơn cả nghèo vật chất, Ngài nghèo khó tinh thần. Ngài không có một ý muốn của Ngài, một tình cảm của Ngài, một lời nói của Ngài… Trọn đời Ngài, Ngài chỉ thực hiện ý muốn của Cha, chỉ truyền thông tình yêu của Cha, chỉ chuyển lại những lời Ngài nghe Cha nói. Đức Giêsu hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha: ngay cả mạng sống, ngay cả linh hồn, Ngài cũng phó thác cho Cha… Trên thập giá, Ngài đã khó nghèo đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng giàu có nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó, để làm cho chúng con nên giàu có. Xin dạy chúng con tinh thần siêu thoát, yêu thương và chia sẻ của Chúa. Amen.

  1. Sự khôn ngoan của bài Tin Mừng Bát Phúc này chỉ có thể hiểu được trong niềm tin, tin rằng: đời sau thì vĩnh cửu còn đời này chỉ là tạm bợ mau qua, nhưng cách sống ở đời này quyết định cho số phận vĩnh cửu đời sau. Đây chính là mấu chốt của vấn đề: nếu không có đời sau, thì quan niệm như Đức Giêsu đúng là một quan niệm ngu xuẩn! Đời sống thật ngắn ngủi, không biết hưởng thụ nó thì thật là dại dột: «Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau» (Ca dao). Nhưng nếu có đời sau, một đời sau vĩnh cửu – mà đời sau hạnh phúc hay đau khổ lại hoàn toàn tùy thuộc vào cách sống ở đời này – thì quan niệm như Đức Giêsu mới là khôn ngoan. Những hy sinh, đau khổ ở đời này sánh sao được với vinh quang ở đời sau (Rm 8,18). «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16,26). Để được hạnh phúc đời đời, Đức Kitô chỉ cho ta bí quyết: «Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25). Chỉ trong nhãn quan đức tin ấy, người ta mới hiểu sâu xa nội dung bài Tin Mừng về Bát Phúc hôm nay, và nhận ra rằng chỉ có những người sống theo tinh thần Bát Phúc mới là những người khôn ngoan đích thật. Và nếu thật sự sống tinh thần ấy, người Kitô hữu sẽ được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Thật vậy, con người sẽ được hạnh phúc trong đức tin nếu hết lòng gắn bó với đức tin ấy. Hạnh phúc đó có được là do họ coi nhẹ bản thân và những lợi ích chóng qua, nhờ đó, họ dễ dàng hy sinh cho người khác. Chính sự cao thượng này trở thành niềm vui cho họ trong cuộc đời này.
  2. Nhưng người nghèo dưới mắt Chúa Giêsu có nghĩa là gì? Chắc chắn không chỉ là nghèo tiền. Kinh nghiệm cho ta thấy rằng không thiếu gì những người nghèo tiền mà lại giàu những thứ khác: giàu ham muốn, giàu tự ái, giàu ganh tị, và không phải cái nghèo kia làm họ khổ, nhưng chính cái ham muốn, cái tự ái, cái ganh tị, nghĩa là cái giàu của họ đã làm họ khổ.

Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu công bố hôm nay trong bản Hiến Chương Nước Trời phải được hiểu theo nghĩa một sự nghèo khó vì Nước Trời, một sự quên mình vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của mọi người. Chúa Giêsu không chủ trương nghèo khó để mà nghèo khó, nghĩa là Ngài không coi nghèo khó là một giá trị, một lý tưởng. Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu muốn nói là tinh thần không cậy dựa vào tiền của, quyền lực, mà chỉ biết đặt trọn niềm tin cậy vào Chúa. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới thấy cảnh nghèo khổ của anh em. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới dễ cảm thông và chia sẻ cho tha nhân.

  1. Từ “khóc” được các nhà chú giải hiểu khác nhau. Có thể Chúa Giêsu đã ám chỉ dân tộc Israel khóc vì tội lỗi mình; những người khác cắt nghĩa cách cá nhân hơn, cho rằng điều này nói tới những kẻ khóc vì tội lụy của chính mình, hay ngay cả vì nỗi đau buồn hoặc sự áp bức riêng tư. Còn các học giả khác nhìn thấy trong từ “khóc” một hình ảnh của dân Thiên Chúa phải đau khổ vì lòng tin của họ vào Ngài. Rất có thể mối phúc này nói đến những kẻ nhạy bén với tội lỗi của trần gian và kết quả là khổ đau.
  1. Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo. Những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt lậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương. Những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho nhũng người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.

Mẹ Têrêxa là một nữ tu già nua, sống một đời nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe ô tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nưóc Trời thuộc về anh em.”.

Lạy Chúa, chúng con thường chỉ biết tìm hạnh phúc trần gian mà lơ là với hạnh phúc muôn đời. Chúng con thường chỉ tìm hạnh phúc ích kỷ cho bản thân mà không quan tâm xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Chúng con chưa thực sự tin vào những mối phúc thật mà Chúa công bố.

CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN C (cf. CN 31 năm B, CN 30 năm A)

yêu kẻ thù- có lòng nhân từ

Bài đọc 1: 1 Sm 26, 2.7-9.12-13.22-23: Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay. Bài trích sách Samuen là câu truyện rất cảm động về cách cư xử của ông Đa-vít đối với vua Sa-un. Vua Sa-un, vì ganh tỵ với thành công của ông Đa-vít, đã tìm hết mọi cách để ám hại ông. Còn ông Đa-vít biết rất rõ lòng ganh tỵ và hành động ám hại mình của vua Sa-un. Theo thói thường thì ông Đa-vít sẽ tìm cách/dịp để trả thù. Nhưng ở đây Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất cho chúng ta thấy ông Đa-vít đã không trả thù, không giết vua Sa-un khi có thời cơ và hoàn cảnh thuận tiện.

Bài đọc 2: 1 Cr 15, 45-49: là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ diễn giải về A-đam cũ và A-đam mới, về hai yếu tố tạo thành chúng ta là đất (xác) và thần khí (hồn), về trách nhiệm của chúng ta là phải sống theo con người mới (thần khí) chứ không phải theo con người cũ (đất). Như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.

  1. Bài học quan trọng nhất của Tin mừng hôm nay là làm thế nào chống lại sự ác mà không cần trả thù. Hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Ngài còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Đây không phải là dùng xảo thuật để gây cảm tình, để lấy lòng thiên hạ do thái độ khéo ngoại giao hay khéo cư xử bề ngoài. Cũng không phải là những thủ thuật xử sự đắc nhân tâm thông thường. Đây là một nếp sống nội tâm, một thế sống thành thật nội tại, trước nhất với Thiên Chúa, Đấng soi thấu lòng dạ sâu kín của ta, và kế đến trong sáng với chính mình qua một kiểm nhận của lương tâm ngay chính. Và không chỉ bằng hành động bên ngoài mà còn phải ao ước điều lành cho họ ở trong lòng và xin Đấng có thể làm lành, làm sự tốt cho họ nữa. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.
  2. Chỉ xét trên bình diện nhân loại mà thôi, thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích: đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó: trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù, chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi nuôi lòng hận thù báo oán, chúng ta bị tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của chúng ta, nhưng lại làm cho con tim chúng ta ra trống rỗng, bất an, bực bội. Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù, Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù, mà nhắm đến lợi ích của bản thân chúng ta. Hơn thế nữa, yêu thương thì đẹp hơn hận thù rất nhiều. Phải chân nhận rằng những điều Chúa Giêsu dạy thật là khó khi thực hiện. Nhưng nó khó có lẽ là tại chúng ta chưa coi người làm hại mình, người thù ghét mình là anh chị em, nên chúng ta thấy khó. Nếu chúng ta coi họ là anh em con một Cha, có lẽ sẽ dễ hơn. Vì tình yêu đó bắt nguồn từ tình yêu của Cha và càng thực hiện luật yêu này chúng ta càng trở thành con hơn. Và càng đối xử tốt với anh em thì Thiên Chúa là cha càng rộng lượng với chúng ta.

Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực, thì ngược lại, lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả những người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được mà thôi. Tuy nhiên, việc này có thể làm được bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.

Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng “dĩ độc trị độc”. Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Cho nên, chúng ta thấy những lời Chúa dạy thực sự là hữu lý và có giá trị cho mọi thời đại. Có lẽ cuộc đời chúng ta vẫn sống theo lối ‘ăn miếng trả miếng”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại” nên chúng ta thấy khó am hợp với những lời Chúa dạy là tha thứ, yêu thương. Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương tối đa giữa cá nhân với nhau, và giữa cá nhân với nhân quần xã hội. Nếu mỗi người đều cố gắng đối xử như vậy thì cuộc sống này, trần gian này sẽ tốt đẹp, an bình và tươi vui hơn biết bao.

  1. Dù sao thì tha thứ cho kẻ làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị hại, làm sao trong lòng chúng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định trả thù? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp chúng ta chiến thắng. Bởi đó, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ ngừng.

Chúng ta dễ dàng theo luật trả thù “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm của Chúa nhật VII mùa thường niên năm C hôm nay nhắc lại cho ta một việc quan trọng, chúng ta không dùng lửa để chống lại lửa, nhưng là lấy sự lành đáp lại sự dữ. Tình yêu thương tự nhiên của chúng ta thường bị giới hạn trong những kẻ thân hay những ai tốt với chúng ta. Chúa Giêsu biết vậy nên Ngài không ngừng khuyến khích chúng ta hãy can đảm đi xa hơn: “Nếu anh em yêu thương ai yêu thương anh em thì có gì đặc biệt hơn đâu? Những kẻ thu thuế cũng làm như vậy”.

Thánh Augustinô đã nói: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta”. Chúng ta hãy nhớ lại lời kinh Lạy Cha, hãy nghiêm chỉnh xét mình và nhất là hãy xin Chúa ban cho ta sức mạnh thực hành lời xin tha thứ: “Lạy Cha, xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

Lý do của thái độ nhân ái nầy là vì nếu các con sống như thế,”các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.” Và nơi khác Chúa Giêsu lại dẫn chứng rõ ràng hơn: “Người cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…” Lòng nhân ái của Thiên Chúa không phân biệt kẻ lành người dữ, không lên án vì lên án là loại trừ. Chúa Giêsu đến thể hiện cách cụ thể lòng nhân lành ấy của Thiên Chúa. “Ta đến không phải để lên án nhưng để cứu vớt”. Chúa đã làm thinh trước những người tội lỗi, một sự thinh lặng còn nói nhiều hơn muôn vàn lời nói. Sự thinh lặng thông cảm và đầy nhân ái ấy chứ không phải những lời lên án, đã làm cho những con người tội lỗi ăn năn hối cải.

  1. Tha thứ và yêu thương, đó là thể hiện lòng nhân từ. Muốn trở nên con của Cha trên Trời thì con người cũng phải sống khoan dung như Ngài. Và sở dĩ Chúa Cha đối xử với kẻ bất lương như với người công chính là vì một lẽ rất đơn giản: tuy là tội lỗi nhưng họ vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, Chuá không thể bỏ rơi những gì Người đã dựng nên, nếu không thì lòng nhân hậu của Chúa lại chịu thua tội lỗi sao? Mọi tội lỗi không xóa được hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Vì Thiên Chúa không chịu bỏ rơi con người tội lỗi, nên người đã sai Con Một Người đến thế gian, để theo đuổi con người cho đến cùng.

Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.

Không có lòng nhân từ thì không thể tha thứ cho ai, không có lòng nhân từ thì không thể đưa má bên kia cho người đánh, không có lòng nhân từ thì không thể cởi áo cho người nghèo, không có lòng nhân từ thì không thể cho ai vay mượn, .v.v… Nếu Cha trên trời không nhân từ thì không ai được sống và hưởng phúc thiên đàng, nếu Cha trên trời không nhân từ thì nhân loại tiêu vong, và nếu Cha trên trời không nhân từ thì sẽ không có ơn cứu độ cho nhân loại, qua mầu nhiệm nhập thế của Chúa Giê-su.

  1. Theo khuynh hướng đổi chác tự nhiên của loài người, thì ai làm ơn cho mình, mình nên trả ơn cho họ; ai ghét mình, mình có thể ghét lại họ; ai chửi mình, mình được chửi lại họ. Theo luật công bình cũng vậy. Luật công bình trong Cựu ước cho phép người ta lấy mắt đền mắt; răng đền răng. Ðiều đó có nghĩa là nếu ai móc mắt mình, mình có quyền móc lại mắt họ, và ai bẻ gẫy răng mình, mình có quyền bẻ lại răng họ. Luật công bình trong xã hội hiện tại cũng vậy. Người phạm pháp phải bị kết án tuỳ theo tội nặng nhẹ họ đã phạm. Vì thế mà lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay về việc yêu kẻ thù có thể trở thành đề tài cho người đời nhạo báng trong thế giới trần gian. Làm sao người ta có thể yêu kẻ thù được? Ai lại nhu nhược đến nỗi theo lời Chúa dạy khi người khác vả má này, lại đưa cả má kia cho họ vả. Ai lại khờ dại đến nỗi khi người khác lấy áo ngoài, lại cho họ cả áo trong. Ai lại vô tư đến độ khi người khác lấy gì của họ, không đòi lại. Sống trong xã hội hưởng thụ và tranh sống, nguyên tắc yêu vô vị lợi của Chúa xem ra như là một giáo lý không tưởng, xa vời với cuộc sống thực tế. Đối với một số người, lòng ghen ghét, hận thù có thể “ăn sâu” và “sống dai” trong tâm hồn họ, kẻ thù truyền kiếp, đúng “sống để bụng, chết mang theo.” Lời dạy: “hãy yêu kẻ thù, làm ơn cho người ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình” của Chúa Giê-su là điều thật khó thực hiện với sức riêng của loài người. Nhưng với, và chỉ với, sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa, thì những điều tưởng như bất khả kia mới trở thành hiện thực trong đời sống của kẻ tin.
  2. Chính Ðức Giêsu: đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27), chịu “nhạo báng, đánh đập, xúc phạm” (Lc 22,63-65) chỉ vì yêu và muốn cứu chuộc những kẻ ngược đãi mình. Người đã “chúc lành” (c.28) cho những kẻ đóng đinh Người trên khổ hình thập giá bằng lời cầu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). Ở chặng đường thánh giá thứ mười, Ðức Giêsu đã sống theo nghĩa đen những điều Người dạy các môn đệ là: “Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” (cc.29-30). “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.

“Tha thứ tới bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng”. Các rabbi Do Thái dạy rằng phải tha thứ cho những người xúc phạm mình, nhưng chỉ ba lần thôi. Phêrô nghĩ rằng Đức Giêsu chủ trương rộng lượng hơn, nghĩa là số lần tha thứ phải đạt tới con số trọn vẹn hay hoàn hảo là 7 (người Do Thái quan niệm số 7 là con số trọn hảo). Nhưng ông không ngờ Ngài đòi hỏi ông tha thứ không giới hạn: «Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy» (Mt 18,22). nếu ta không tha thứ lỗi lầm cho những người sống chung quanh ta, là những người mà Đức Giêsu đã tự đồng hóa với chính ngài (x. Mt 25,40.45;10,40;18,5; Lc 10,16), thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha tội cho chúng ta.

Trong dụ ngôn “Người Con Hoang Ðàng Trở Về” sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của Thiên Chúa bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của chúng ta, là những đứa con hoang đàng trở về.

Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói: Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh. Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với chúng ta như thế nếu chúng ta không biết tha thứ.

  1. Ðức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Ðó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.

Đức Phật nói: «Lấy oán báo thù, oán thù chồng chất. Lấy đức báo oán, oán tự tiêu tan». Không thể dùng oán thù mà giải quyết được oán thù. Chỉ có tình thương mới tiêu diệt được oán thù mà thôi. Đức Giêsu đã dạy ta phải yêu thương cả kẻ thù huống gì những người anh em có lỗi với ta. Vì tình yêu đích thực đòi hỏi ta phải sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người đã xúc phạm đến ta. Chính ta cũng đã biết bao lần lầm lỗi, xúc phạm đến tha nhân và đã từng được họ quảng đại tha thứ. Ta cần thật sự nhận ra những giới hạn, yếu đuối và lầm lỗi của chính mình, để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho giới hạn, yếu đuối và lầm lỗi của người khác.

  1. Yêu, làm ơn, chúc lành và cầu nguyện là bốn điểm son của Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Một người theo Chúa Giêsu không thể không có bốn điểm son này. Nó giống như là dấu chứng của một Kitô hữu. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,35). Điểm nổi bật nhất nơi Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người là gì nếu không phải là sự THA THỨ. Khả năng tha thứ là một giá trị cao quí không dễ sánh được. Vì thế, đối với những người có đức tin, thì khả năng tha thứ chính là một của lễ quí giá, quí giá hơn tất cả mọi lễ vật vật chất, cho dù quí giá nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Khả năng tha thứ chính là liều thuốc có sức thanh luyện và thánh hoá con người, còn hơn là sự ăn chay kiêng thịt. Khả năng tha thứ chính là một y phục thánh mà Chúa đòi mọi người chúng ta phải mặc vào cách thiêng liêng để tham dự thánh lễ, và nhất là để rước lấy Mình Thánh: “Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ.” (Mt 5, 23- 24)

Thiên Chúa là TÌNH YÊU, nên thánh Gioan nói: ai không yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa. Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người.

-Yêu như Chúa:

1) Yêu hết mọi người, người tốt/xấu, nghèo, bị bỏ rơi, yêu cả kẻ thù…

2) Yêu là hy sinh như Chúa… không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì người mình yêu…. Hy sinh thời giờ, sức lực, tiền bạc, …. Yêu là cho đi….

3) Yêu là tha thứ,

4) Yêu vô điều kiện, vô vị lợi, không tính toán,

5) Yêu mãi mãi, yêu đến cùng (Người đã yêu thương họ đến cùng, nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy bánh….), không yêu nhất thời,

-Yêu người là yêu Chúa,

– Yêu vì Chúa- Nhìn ra ra được gương mặt của Chúa nơi những người nghèo,…

Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời… Càng yêu thương, càng nên giống Chúa, càng hoàn thiện như Chúa vì Chúa là tình yêu. Càng yêu thương, càng thánh thiện vì nên giống Chúa là Đấng thánh

CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN C

Không thấy cái xà trong con mắt mình- Mù Lại Dắt Mù Sao Ðược

Bài đọc 1: Hc 27,4-7 “Khi người ta sàng, thì những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Lò lửa thì nung luyện bình sành còn gian nan thử những người công chính. Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy. Đừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người…”

Người ta có thể đoán biết tính tình, địa vị xã hội cũng như tâm trạng của một người qua cách ăn nói của họ dù người ấy có cân nhắc, che đậy, đóng kịch trong lời nói đến đâu đi nữa thì cũng có một lúc nào đó sơ hở, vì thường thì: Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng… đó cũng là tư tưởng của Phúc âm hôm nay.

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho môn đệ 3 điều:

+ Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.

+ Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.

+ Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.

  1. Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình. Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ. Tôi không thấy cái xà trong mắt mình, nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi. (Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!) Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em. Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình. Phải chăng vì đứng gần mình quá nên tôi không thấy rõ, hay vì tôi vẫn coi mình là hoàn hảo nên khó chấp nhận những thiếu sót nơi mình?
    Ðể thấy mình, cần khiêm tốn hỏi và nghe người khác. Anh em tôi biết về tôi hơn tôi biết tôi.

Ðức Giêsu không cấm ta góp ý cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Bao dung hơn với tha nhân, và nghiêm khắc hơn với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.

Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa. Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa. Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ, dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh. Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39). Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình, biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.

  1. Sống trên đời, chúng ta giống như một người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì chất đầy những sai lỗi của bản thân.

Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sau lỗi của người khác để rồi lên tiếng phê bình một cách gay gắt và chỉ trích một cách thậm tệ. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa: Vì thế này, bởi thế kia, tại thế nọ… nên mới ra nông nỗi. Còn nếu cứ như thế này, cứ như thế kia, cứ như thế nọ… thì đâu đến nỗi. Sở dĩ như thế nhiều khi chỉ vì cái dã tâm, cái ác ý của chúng ta mà thôi. Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh. Sự ghen ghét làm mờ cả đôi mắt chúng ta, như tục ngữ đã diễn tả:

Chân mình những phẩm lê nhê,

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Lầm lỗi, thiếu sót là bản chất của con người. Ai cũng có khuyết điểm, nhưng không phải ai cũng có thái độ đúng đắn cần thiết đối với khuyết điểm của mình và của kẻ khác. Thói thường, người ta hay phủ nhận bao che lầm lỗi của mình, nhưng rất thích nhắc đến hoặc bàn tán về lỗi lầm của người ta. Lắm khi chuyện không có gì nhưng lại được cái lưỡi phóng ra thật lớn. Và hậu quả của nó thì tai hại không thể kể hết được. Thánh Giacôbê đã phải viết thư nhắc nhở những người Kitô hữu trong cộng đoàn tiên khởi của ngài rằng: “Những chiếc thuyền dầu lớn thế nào, có bị cuồng phong đẩy mạnh làm sao, chúng đều được hướng dẫn bởi một bánh lái bé tí, đến đâu tuỳ ý người hoa tiêu. Cũng vậy, lưỡi chỉ là phần mình cỏn con, mà vinh vang được nhiều điều vĩ đại. Kìa, tàn lửa nhỏ thế mà đốt cháy cả đám rừng lớn! Lưỡi là lửa! Thế giới chứa đựng bất lương, đích thị cái lưỡi đặt giữa phần mình của ta. Nó làm hoen ố toàn thân, làm bốc cháy cả bánh xe luân hồi, do chính hoả ngục nhóm lên. Vì thú vật, chim muông, rắn rít, cá biển mọi loài, nhân loại đều trị được, và đã trị được. Còn cái lưỡi, không ai trong loài người có thể trị nổi. Một tai hoạ vô phương trấn tĩnh. Nó đầy những nọc độc giết người. Nhờ nó ta chúc tụng Thiên Chúa là Cha, và nhờ nó ta chúc dữ người ta vốn được dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Cũng bởi một miệng mà phát xuất ra vừa lời chúc tụng, vừa lời chúc dữ. Hỡi anh em, để xảy ra như thế là không được” (Gc 3:4-10).

Sự cáo gian, vu khống, chỉ trích, đã đảo, ngồi lê đôi mách về một người vắng mặt đều là những thái độ và việc làm mang tính chất tàn phá, chia rẽ, làm mất uy tín, danh dự và huỷ hoại nhân phẩm con người. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian đâu để tự xét đoán mình. Điều đó hẳn là không xứng hợp với Tin Mừng. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói “Tôi không kết án chị đâu”; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.

Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khắc với bản thân mình mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại. Nhân vô thập toàn, có nghĩa là chẳng ai là người hoàn toàn, trái lại ai cùng có những khuyết điểm của mình. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Vì thế, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm nhường để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem trong mối liên hệ đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với bản thân có gì là trục trặc, có gì là bất ổn. Sống Tin Mừng cũng là sống bác ái tại sao chúng ta không áp dụng câu tục ngữ Việt Nam này: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Thánh Augustinô vốn thường có thói quen cầu nguyện vời những lời lẽ như thế này: Domine, noverim te et noverim me. Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để nhờ đó con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để nhờ đó sẽ uốn nắn sửa đổi những sai lỗi khuyết điểm, hầu luôn sống đẹp lòng Chúa.

  1. Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người. Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn. Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo. Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật: “Xem quả thì biết cây” (c. 44). Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm. Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai. Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ. Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon. Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ, qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến. Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa. Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ. Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu. Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).

Lòng có đầy, miệng mới nói ra: Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: Vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Lời nói là hoa quả của lòng dạ con người. Những lời giả dối sớm muộn cũng sẽ bại lộ. Nếu chúng ta được Chúa biến đổi cái tâm của mình, hẳn toàn bộ đời sống bên ngoài của ta cũng đổi.

 Lắm khi chẳng ai thấy được Chúa trong tôi, vì miệng lưỡi vấp phạm quá nhiều. Những lời la mắng, thô lỗ, hành tỏi, bêu xấu, chửi xa nhiếc gần đã đẩy Chúa khuất xa tâm hồn. Vì đương nhiên, với tâm tình thái độ như thế làm sao có tôi thể chân thành hay thoải mái thốt lên lời ca ngợi được. “Cây tốt không sinh quả độc, còn cây độc không lẽ sinh quả tốt” (Lc 6:43). Một miệng lưỡi lại có thể phát xuất ra vừa lời chúc tụng, vừa lời chúc dữ được sao? Tất nhiên nếu thiếu lời êm đẹp với tha nhân thì lời ca ngợi Thiên Chúa nơi miệng tôi sẽ biến chất, có khi còn giả hình: “Miệng thì nam mô mà bụng là một bồ dao găm”. Cho nên để lời ca tụng, cầu xin của ta được bay tới Chúa chắc chắn nó phải không tì ố bởi những lời chia rẽ, hủy hoại hay làm mất nhân phẩm của tha nhân. “Ai biết làm chủ miệng lưỡi, người đó là thánh” (Gc 3:2)

Cây đời sống của chúng ta nếu phát xuất và gắn liền với Chúa, là nguồn chân lý, thì những hoa trái mới thực sự tồn tại. Ngược lại, đời sống chúng ta chỉ biết gắn liền với những giá trị chóng qua, tạm bợ, nó chẳng những không sinh hoa trái, ngược lại còn dẫn con người chúng ta đến chỗ diệt vong. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết gắn liền cuộc đời mình vào với chính Chúa như những cành nho gắn liền vào với thân nho để chúng con có thể sinh hoa trái là bác ái, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.

CHÚA NHẬT IX THƯỜNG NIÊN C

Chưa thấy người nào có lòng tin như thế trong dân Israel

  1. Caphanaum là một thành phố quan trọng, có đồn lính, có sở quan thuế. Lính tráng, nhà vua (trong bài Tin Mừng này là vua Hêrôđê Antipas) thường tuyển mộ nơi các dân ngoại (người Syria, Thrace, Germain). Người đội trưởng, một sĩ quan cấp dưới, điều khiển một số binh lính. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ông ta là dân ngoại, nhưng có thiện cảm với dân Israel, bỏ tiền ra xây cất Hội đường, tức nhà thờ của Israel. Nhưng người Israel đã nhận sự giúp đỡ của ông ta xây cất Hội đường, chắc phải có một biến đổi gì đó nơi ông ta. Lý do là người Israel xem dân ngoại là chó, là ô uế; không đến nhà dân ngoại, vào nhà họ là bị ô uế, nhận tiền ô uế xây Hội đường chắc dân Israel không bao giờ chịu. Có thể viên sỹ quan đã có một thiện cảm đặc biệt với đạo Israel khiến người Israel có thể nhận tiền ông ta giúp.

Đó là bước khởi đầu để ông ta đón nhận Chúa Kitô một cách đặc biệt vượt trổi hẳn người Israel. Nói cho đúng, trước tiên ông ta cũng giống như người Israel khác là có thể bệnh nhân còn đưa được thì đem bệnh nhân tới xin Chúa chữa bệnh; bệnh nhân nặng quá, sẵp chết, không khiêng đi đuợc thì tới xin Chúa đến nhà. Trường hợp của ông ta hơi khác một chút là vì dân ngoại nên ông ta cậy nhờ vị kỳ lão Israel tới xin Chúa thay cho ông ta. Khi Chúa còn cách nhà ông ta một quãng không xa, ông nhờ mấy người bạn đến đón và nhờ thưa với Chúa: lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời thì đầy tớ tôi sẽ lành mạnh. Không dám mời Chúa đến nhà vì mình bất xứng, chỉ xin Chúa phán thì bệnh được khỏi, tức là tin vào hiệu lực của Lời Chúa mà không cần có sự hiện diện của Chúa. Ông ta nói như vậy vì có thể dựa vào kinh nghiệm hoặc đời sống quân ngũ của ông. Tuy là một sỹ quan cấp dưới, ông cũng chỉ huy một số binh sỹ. Ông có thể gọi binh sỹ tới trình diện ông và ra lệnh, dĩ nhiên binh sĩ đó phải tuân lệnh ngay. Nhưng ông cũng có thể dạy một binh sĩ khác truyền khẩu lệnh của ông cho binh sĩ nào đó, binh sỹ đó vẫn tuân lệnh ông trăm phần trăm. Lý do là ông ta có quyền.

Đặt mạnh niềm tin vào Lời Chúa phán, lại nữa ông nhận ra ông bất xứng đối với Chúa, hai điểm này tỏ ra ông có đức tin trổi vượt. Một người ngoại giáo, nhờ sống với dân Israel, biết sơ sơ về đạo mà có một niềm tin vào Chúa Kitô như vậy thật là tuyệt. Có lẽ ta phải xấu hổ với những người này. Luôn luôn phải ý thức mình bất xứng đối với Chúa, xin Chúa chữa bệnh kém đức tin của mình, xin Chúa thanh tẩy trí lòng của mình khỏi những thứ giữ đạo vụ lợi.

  1. Khiêm tốn

Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rô-ma để cai trị một vùng của người Do-thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giê-su truyền đạo. Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giê-su không đơn thuần là một thầy dạy như các Kinh sư, mà là một vị ngôn sứ của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Người. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”. Lời xét mình này của ông đã được Giáo hội dùng để cho chúng ta thân thưa với Chúa mỗi ngày trong thánh lễ trước khi đến rước Mình Thánh Chúa.

Ước gì mỗi lần chúng ta đọc lời này, chúng ta cũng có được sự ý thức về mình như viên sĩ quan trên đây, không ỷ vào địa vị mà vênh vang tự hào, nhưng quy về vinh quang Chúa, và nhìn nhận mình có là gì đều do ân huệ Chúa ban. Bởi trước mặt Chúa không phân biệt người có quyền cao chức trọng hay kể bần hàn cố nông, nhưng người cao trọng trong nước Chúa chính là hãy trở nên bé nhỏ và khiêm tốn.

  1. Niềm tin

Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”.

Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Chúa Giê-su là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do-thái tin bệnh tật là do tà thần và sự dữ). Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giê-su mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp.

Còn chúng ta, đứng trước những khó khăn, đau khổ, bệnh tật… chúng ta có đặt niềm tin đủ vào Chúa để xin Người trợ lực không, hay là ỷ lại vào sức mình? Ước gì sau khi đọc bài Tin Mừng này, mọi người chúng ta xác tín hơn vào sự quan phòng của Chúa, để trong khi chúng ta ra sức đương đầu với những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, biết chạy đến Chúa để được Ngài soi sáng và ban ơn trợ lực. Và trên hết, hãy tin tưởng và cầu xin Chúa chữa lành bệnh tật nơi tâm hồn chúng ta.

CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN C

cho người con trai bà goá thành Na-in sống lại

Bài đọc I (1 V 17,17-24)

Câu chuyện này có nhiều nét giống với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay: Một đứa con trai độc nhất bị chết. Bà mẹ là một góa phụ và là một người ngoại. Đứa con ấy được ngôn sứ Êlia làm cho sống lại. Khi Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài muốn cho thấy Chúa Giêsu là một Êlia mới.

Bài đọc II (Gl 1,11-19) Trong trích đoạn tuần trước, Phaolô trách tín hữu Galát đã theo “một Tin Mừng khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin Mừng mà Phaolô rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ do thái giáo. Khi làm như thế, họ chứng tỏ chưa hiểu rằng người ta được cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ lề luật. Trong trích đoạn hôm nay, để thuyết phục tín hữu Galát vững tin vào Tin Mừng của mình rao giảng, Phaolô chứng minh cho họ biết Tin Mừng ấy Ngài đã lãnh nhận trực tiếp từ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa.

Tin Mừng

  1. Câu chuyện Ðức Giêsu cho người thanh niên, con trai duy nhất của một bà goá thành Na-in, được hoàn sinh là sự lặp lại một biến cố hoàn toàn tương tự đã xảy ra trong quá khứ, như chúng ta đã nghe trong Bài Ðọc thứ nhất. Ðó là sự việc tiên tri I-sai-a đã làm cho người con trai duy nhất của bà goá ở Xa-rép-ta được sống lại (1V 17,17-24). Trong cả hai câu chuyện – sự sống lại ở Xa-rép-ta và ở Na-in – câu kết luận cuối cùng hoàn toàn đồng nhất từng chữ một: «Tiên tri I-sai-a (xưa) / Ðức Giêsu (nay) đã trao đứa con đã được sống lại cho mẹ nó». Tiên tri Êlia đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng, còn Ðức Giêsu thì không cầu xin Thiên Chúa như Elia mà Ngài ra lệnh: “Hãy trỗi dậy”.
  1. Chúa Giêsu đã cùng rơi lệ với bà và đã cứu sống con bà. Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội. Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà goá không nơi nương tựa, Người liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh. Hãy chỗi dậy!” (Lc 7,14).

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó: Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà goá thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian. Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống miên viễn với Người trên nơi vĩnh phúc: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

  1. Chính Đức Mẹ thời xưa cũng ở trong hoàn cảnh đó, mà còn bi thảm hơn nhiều. Thánh Giuse qua đời, Chúa Kitô thay thánh nhân làm việc giúp đỡ Đức Mẹ. Chúa chết khổ nhục trên thập giá, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, cảnh bà góa chết con trai độc nhất đã diễn ra. Nhưng Chúa Cha đã cho Chúa Kitô Phục sinh, trở nên Chúa của vũ trụ, đem lại cho Đức mẹ nguồn vui vô tận.
  1. Các môn đệ, dân chúng đi theo Chúa, dân thành đi dự đám tang chứng kiến phép lạ lớn lao ngoài sự dự đoán của họ, họ sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa. Sợ hãi vì đứng trước một sự linh thánh, một biểu lộ quyền uy phát xuất từ Thiên Chúa, một “giây đứng tim” trước một phép lạ vĩ đại và rồi họ cất vang lời ca ngợi Thiên Chúa. Thánh Luca ghi rõ tâm trạng của những người chứng kiến việc thanh niên kia sống lại là “sợ hãi và ngợi khen”. Đây hẳn không phải sự sợ hãi trước một sự dữ khủng khiếp kinh hoàng, nhưng là sự nghiêng mình kính phục trước quyền năng và lòng từ ái vô biên của Thiên. Biết bao kỳ công Chúa đã làm cho chúng ta, cho thế giới này, chúng ta có “sợ hãi và ngợi khen” Chúa?
  2. “Một vị Ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16b). Họ công nhận Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Lòng thương xót của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng chúng ta được yêu thương. Nhờ Ngài, Thiên Chúa làm một chuyến viếng thăm không thể tưởng tượng được: đích thân đến thăm chúng ta, cứu chuộc và sống lại theo những điều kiện trên trái đất này. Đứng trước một người thân chết đi, chúng ta có thể cảm thấy như Thiên Chúa vắng mặt. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cảm nhận điều ngược lại: sự chết có thể kéo ta đến gần Chúa hơn. Tại sao? Vì chúng ta nhận thức rằng con người hoàn toàn bất lực trước cái chết, chỉ có Chúa mới giúp chúng ta được thôi. Từ đó chúng ta phó mình trong lòng thương xót Chúa. Cũng như Chúa đã viếng thăm bà góa thành Naim, Ngài cũng đến viếng thăm chúng ta cùng với những ơn ban nâng đỡ, hy vọng và bình an. Ngài đến với chúng ta, viếng thăm chúng ta, ở bên cạnh chúng ta qua Lời của Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, qua những biến cố xảy ra trong đời sống, qua những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người nghèo, người bị bỏ rơi, …
  1. Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết quan tâm và cảm thông đến những bất hạnh của người khác, biết “chạnh lòng thương” đến những người đau khổ quanh ta. Tuy nhiên, thái độ cảm thông và thương xót của chúng ta cần phải được bộc lộ qua những việc làm, phải được ưu tiên thể hiện ra với những người mà chúng ta đang chung sống, với những người Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta, ngày lại ngày, trong gia đình, trong cộng đoàn, với tất cả những ai đang cần yêu thương nâng đỡ nhất. Không chỉ động lòng thương theo kiểu của người thường là một chút xúc động hời hợt bất thường, một tình cảm tự nhiên chóng qua, Chúa Giê-su còn thể hiện tình thương ấy bằng việc “đưa tay chạm vào quan tài” người thanh niên, một việc mà người thời bấy giờ người ta cho là ô uế, nhớp nhúa. Ngay cả thời nay, lúc hãy còn sống, thì thân người ôi thơm tho, người muốn nắm tay người, người muốn hôn lên môi người, người muốn ôm lấy thân người để biểu tỏ tình cảm với người, nhưng khi người đã nhắm mắt xuôi tay, nào ai dám đến gần vuốt mặt, cầm tay,…. nghĩ cũng đáng buồn cho kiếp người.

Qua trang Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta được:

– Mặc lấy cái nhìn yêu thương, thông cảm của Chúa, để biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời đau khổ.

– Không ngại khiêm cung cúi thấp mình xuống để chạm vào nỗi đau của anh em, không ngại tanh hôi, thối vữa, không ngại những lời chỉ trích phê phán của những kẻ chỉ thích ăn trên, ngồi trước, sống chết mặc ai dưới chân mình.

– Tin tưởng Lời Chúa có sức làm cho chính mình được ơn Phục Sinh, ơn đổi mới, ơn công chính và cũng dùng chính Lời Chúa làm động lực thi thố lòng thương xót của Chúa đối với tất cả mọi người.

– Tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong cuộc sống chúng ta bằng cách sống trọn vẹn ơn công chính để trở thành lời chứng cho Tin Mừng, lời chứng cho danh Thiên Chúa trên khắp vũ hoàn.

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN C

Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình

Bài đọc 1 (2 Sm 12,7-10.13)         Tội của Đavít rất nặng: trước tiên là tội ngoại tình (với Bétsabê); kế đến là tội giết người, mà đó lại là một người vô tội (Uria chồng của Bétsabê) và chiếm đoạt vợ của Urigia. Tội này còn rất đáng trách vì Đavít đã được Thiên Chúa ban cho rất nhiều ơn sủng. Nhưng Thiên Chúa vẫn mực yêu thương, phù trợ và thứ tha cho Đa-vít khi nhà vua nhận ra tội lỗi của mình mà hoán cải, ăn chay và mặc áo nhậm để đền tội của mình. Qua câu chuyện Sách 2 Sm 12,7-10.13 tường trình lại, chúng ta thấy tấm lòng yêu thương và sức mạnh thứ tha của Thiên Chúa là Đấng đã đối xử trước sau như một với Đa-vít.

Thánh Vịnh 51 được vua Thánh Đavít viết ra sau khi nhận biết tội lỗi đã phạm nặng nề trước mặt Thiên Chúa: Vừa tội ngoại tình vừa tội giết người. Bài Thánh Vịnh là tiếng khẩn cầu tha thiết của linh hồn nhận biết tội ác đã trót phạm, nài xin Chúa khoan hồng tha thứ:

Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, 
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm 
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.

Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, 
dám làm điều dữ trái mắt Ngài. 
Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, 
liêm chính khi xét xử.

Ngài thấy cho : lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, 
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, 
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.

Xin dùng cành hương thảo 
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền ; 
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.
Xin cho con được nghe 
tiếng reo mừng hoan hỷ, 
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.

Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi 
và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm.
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, 
đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.

Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, 
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, 
và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con ;

Đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, 
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.
Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, 
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính.

Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, 
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, 
con có thượng tiến lễ toàn thiêu, 
Ngài cũng không chấp nhận.

Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, 
một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.

Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, 
thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại.

Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền, 
lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế. 
Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa

Bài đọc II (Gl 2,16.19-21) Đoạn này chứa đựng ý tưởng chính của toàn thể bức thư gởi tín hữu Galát: con người được nên công chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ lề luật.

Tin Mừng

  1. Phúc Âm đều kể chuyện về một người phụ nữ đem dầu thơm xức chân Chúa Giêsu. Phúc Âm Matthêu và Maccô không nêu tên, còn Phúc âm Luca kể là một người tội lỗi. Chị ta không phải là bà Maria Mácđala như người ta lầm tưởng trước đây (Mc 16:9; Lc 8:2). Và chị ta cũng không phải là cô Maria, em cô Mácta, cũng xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Ðức Giêsu khi Người đến dùng bữa ăn tối tại Bêtania, có cô Mácta hầu bàn, trong Phúc âm thánh Gioan (Ga 12:3-8).
  2. Tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Người rộng lượng với bất cứ ai muốn tìm đến, lắng nghe, học hỏi và tuân theo.

Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai, “trong thành ai cũng biết”. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Chị bày tỏ lòng sám hối rất công khai, trước mặt nhiều người; quỳ gối dưới chân Chúa Giêsu. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ.            

Không những bênh vực, Chúa còn khen ngợi khi so sánh với ông Simon: Ông đã không làm điều mà bình thường ông phải làm khi khách đến nhà: rửa chân (Kn 18:4), hôn chào (Rom 16:16), xức dầu thơm trên đầu. Điều nầy chứng tỏ là ông không kính trọng, hoặc nói cách khác, xem thường Chúa Giêsu. Như thế, người phụ nữ hơn hẳn ông không chỉ trong cách đón tiếp, mà cả trong thái độ. Chúa Giêsu kể cho Simon câu chuyện để mở mắt ông ra nhận thấy một thực tại mới, dựa trên sự tha thứ và tình yêu. Câu chuyện rất đơn giản, không nhiều chi tiết. Điểm then chốt là chủ nợ xoá sạch nợ cho người mắc nợ; phía người mắc nợ, yêu mến ông “Ai yêu chủ nợ nhiều hơn?” (c. 42). Vậy, Chúa Giêsu đặt sự tha thứ trong tương quan với tình yêu; hay ngược lại. Charizomai, nghĩa là “xóa nợ”. Ở nơi khác, ý nghĩa của động từ nầy chuyển thành “tha thứ” (Kinh Lạy Cha: xin tha nợ chúng con…), nghĩa là tỏ lòng nhân ái và rộng lượng đối với những người làm điều sai (Êph 4:32; Côl 3:13). Chúa Giêsu sẽ nói đến sự tha thứ vào cuối câu chuyện (x. 7:47.48.49).

Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.

  1. Đối với người Pharisêu, nếu ai đụng chạm đến người tội lỗi, thì sẽ bị ra ô uế. Đối với họ, người phụ nữ tội lỗi kia là thứ người phải bỏ đi, không đáng được cứu. Còn Chúa Giêsu, điều chị cần đó là được cứu chữa chứ không phải bị lên án. Chúng ta thường khinh chê và kết án người tội lỗi. Đôi khi phạm nhân bị bế tắc đóng khung trong cuộc sống mặc cảm. Họ không có lối thoát. Chúa Giêsu đã mở cửa ngõ dẫn đưa những người lầm lạc trở về. Chúa đến để kêu gọi và cứu độ người tội lỗi chứ không phải người công chính. Chỉ khi nào người ta ý thức được về tội lỗi của mình, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa. Người đến thế gian để thực thi sứ vụ cứu chữa: “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32). Đối với Chúa Giêsu: “Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn sám hối” (Lc 15,7).

 Phần chúng ta, đứng trước thái độ, lối nghĩ và hành động của người phụ nữ ngày hôm nay ít nhiều gì đó chúng ta cũng cảm thấy ngài ngại làm sao đó. Chúng ta, có mấy ai can đảm dám nhìn nhận mình là tội lỗi, là yếu hèn … Vẫn thường mang trong mình lối sống vô trách nhiệm và chẳng bao giờ can đảm nhìn nhận con người thật của mình cả.

Chúng ta thường có cái nhìn quá khắc khe như những người biệt phái năm xưa. Họ chỉ thấy quá khứ tội lỗi. Họ thiếu cái nhìn yêu thương để có thể nâng đỡ và giúp người tội lỗi chuộc lại lỗi lầm. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao phận người đang cô đơn thất vọng. Họ cô đơn vì cộng đoàn thiếu cảm thông. Họ thất vọng vì cộng đoàn không chỉ bỏ rơi mà còn kết án vì những lỗi lầm của quá khứ. Dẫu biết rằng, con người luôn có lầm lỗi. Con người luôn cần sự cảm thông tha thứ của tha nhân, nhưng chính con người lại thường hà khắc và kết án lẫn nhau. Một thế giới thiếu tình yêu, thiếu cảm thông sẽ hoang tàn để thù hận lên ngôi. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để sám hối ăn năn, và nhất là để cảm thông với những yếu đuối của anh em. Xin đừng vì tự cao tự đại mà thiếu khoan dung với tha nhân. Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa luôn nhẫn nại yêu thương để nâng đỡ anh em. Chúa Giê-su cảm nhận được sự đau khổ nhục nhằn của người phụ nữ ấy, Ngài cảm thông được niềm đau tận tâm can bị người ta nguyền rủa và khinh chê của người phụ nữ tội lỗi. Tội của chị rất nặng. Lỗi lầm của chị rất nhiều. Thế nhưng, Chúa đã không nhìn quá khứ của chị để kết án. Chúa nhìn hiện tại để cảm thông, để nâng đỡ, để cho chị cơ hội bày tỏ lòng ăn năn. Chị được đến gần Chúa. Chị được bày tỏ lòng tôn kính Chúa. Chị hôn chân Chúa và xức dầu thơm cho Chúa. Một cử chỉ biểu lộ lòng tôn kính Thầy Giêsu. Một cử chỉ của lòng biết ơn với Thầy Giêsu vì đã tạo cho chị cơ hội sửa đổi và canh tân. Chúa Giê-su đã tha thứ và mở ra một cơ hội mới để người phụ nữ làm lại cuộc đời, chính Ngài đã xử sự cách khôn ngoan để -ngay cả người tội lỗi- vẫn thấy được giá trị của mình. Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành. Trong kinh Lạy Cha, để được Chúa thứ tha, chúng ta phải biết tha thứ: xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

  1. Người phụ nữ đã được Chúa tha thứ vì chị yêu mến nhiều! Người phụ nữ tội lỗi trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay đã quá liều lĩnh. Theo luật Môsê, người tội lỗi công khai không được phép tiếp xúc với người công chính. Mà động cơ làm cho chị dám làm điều đó là vì yêu mến Chúa Giêsu. Chắc chắn chị đã ý thức được tình trạng tội lỗi của mình. Từ việc cảm nhận tình trạng tội lỗi ấy chị mới cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình. Vấn đề của chị không dừng lại ở lòng mến mà đi xa hơn một bước nữa đó là lòng tin. Lòng tin và lòng mến trong lòng chị đan quyện lại với nhau. Người mời tiệc cũng như những người được mời tiệc ngày hôm ấy thắc mắc “ông ấy lấy quyền gì để tha tội” thì chị, chị đã tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Chị đã tin, đã yêu, đã phó thác vào lòng bàn tay của Chúa Giêsu cuộc đời của chị. Chị đến với Chúa Giêsu để nhận được tình yêu của Chúa Giêsu, để nhận được ơn tha thứ từ Chúa Giêsu.

Chúng ta thấy sở dĩ Chúa Giêsu ngợi khen chị có lẽ không bởi vì chị đã khóc sướt mướt hay tốn nhiều tiền để mua dầu thơm xức chân và không ngừng âu yếm hôn chân Người. Vấn đề ở đây là gì? Người đàn bà này biểu hiện lòng yêu mến rất chân tình. Lòng yêu mến chân tình của bà đã được Chúa Giêsu ghi nhận. Lòng yêu mến chân tình đó biểu lộ rất rõ lòng thống hối ăn năn về những hành vi bất chính trong quá khứ của bà. Thế nên, với Chúa Giêsu, yêu mến Thiên Chúa đồng nghĩa với việc nhận ra thân phận tội lỗi để rồi từ đó quyết tâm trở về nẻo chính đường ngay, lãnh nhận ơn hoà giải và lòng bao dung của Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa hẳn không quan tâm quá khứ của con người với những hành vi sai trái lỗi lầm; điều Người mong đợi ở con người chính ở sự cố gắng hướng thiện của họ. Và mỗi khi con người cố gắng hướng thiện trở về nẻo chính, tội lỗi của họ lập tức được thứ tha.

Đức Thánh Cha Benedict 16 khi ngài cho rằng con người thời đại hôm nay đánh mất dần cảm thức về tội lỗi. Thật thế, con người thời nay dường như không còn thấy xấu hổ hay mặc cảm tội lỗi nữa. Bởi có những thứ tội được nhiều quốc gia hợp pháp hoá đàng hoàng như phá thai, kết hôn đồng tính, an tử,… Thật đáng sợ làm sao khi con người thời nay phạm những tội tày đình như thế mà vẫn xem là bình thường, vì họ được thứ luật pháp quái quỷ kia bảo vệ mà! Nhìn ra được như thế, chúng ta mới thấy vua David trong bài đọc 1 và người đàn bà tội lỗi trong Tin mừng hôm nay (đều phạm tội rất nặng) quả là những con người dũng cảm khi đối diện với những lỗi lầm và không ngừng thống hối cách chân thành. Sau khi ngôn sứ Natan vạch tội Đavít ra, nhà vua đã khiêm tốn nhìn nhận “Tôi đã đắc tội với Chúa”. Đây chính là điều làm cho Đavít từ một người tội lỗi trở nên một vị thánh. Có mấy người mau mắn nhìn nhận tội lỗi của mình khi bị người khác vạch ra? Rất nhiều người chẳng những không nhìn nhận mà còn ác cảm với kẻ dám vạch tội mình.

  1. Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể về hai con nợ được tha thứ, ta có thể hiểu rằng tội đi trước, tình thương đi sau, bởi vì “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Vì được tha thứ nên yêu mến. Tuy nhiên, qua một câu nói khác cũng của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng này thì ta cũng có thể hiểu rằng tình đi trước: “Tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Vì yêu mến nên được tha. Hai trường hợp trên là nói về lòng yêu mến của tội nhân: lòng yêu mến có khi đi trước, có khi đi sau. Nhưng khi nói về Thiên Chúa thì tình yêu của Ngài luôn đi trước. Thánh Kinh đã ghi nhận biết bao bằng chứng là Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta trước. Chính tình yêu của Ngài kêu gọi chúng ta sám hối, rồi tình yêu của Ngài tha thứ chúng ta, sau đó tình yêu của Ngài lại khuyến khích chúng ta yêu mến Ngài hơn. Tóm lại tình yêu Thiên Chúa bao trùm tất cả, trước, trong và sau khi chúng ta phạm tội.

Kinh nghiệm hàng ngày cũng đã xác nhận điều ấy cho chúng ta, vì nếu ta chịu ơn ai, ta sẽ yêu mến họ và sẵn sàng chờ có dịp để trả ơn, huống chi là khi có lỗi mà lại được tha thứ thì tình yêu của chúng ta đối người ấy còn lớn mạnh biết bao. Trong liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng vậy. Mang thân phận làm người, ai trong chúng ta cũng đều nhận thấy mình tội lỗi, bất toàn, nhưng mỗi lần chúng ta đến với Bí tích Hoà Giải, thì đều được Chúa thương xót thứ tha, và khi càng yếu đuối, càng được tha thứ, thì con người càng cảm nhận sâu xa hơn tình yêu của Chúa. Chúa sẽ tha thứ khi con người nhận ra lầm lỗi của mình, khi con người biết nhờ đến lòng thương xót Chúa. Nhưng sẽ là bất xứng khi ta ỷ lại vào tình thương này mà mà ta cứ mãi chìm sâu trong tội lỗi vì nghĩ rằng Chúa sẽ tha thứ. Vua Đavit và người phụ nữ tội lỗi sau khi sám hối ăn năn đã không tái phạm, trở nên tôt đẹp. Biết nhận lỗi và xin lỗi là khởi đầu cho hành trình trở về. Rất nhiều khi chúng ta phạm lỗi và sống trong lầm lạc nhưng không nhận ra lỗi mình. Chúng ta có dám đứng trước nhóm hay cộng đoàn để xưng thú là mình đã phạm lỗi hay không? Đâu dễ. Khi phải xưng thú, chúng ta sẽ đổ quanh, lỗi tại tôi nhưng lôi thôi tại bà. Có rất nhiều khi đi xưng tội nhưng chúng ta nại cớ: Tại vì.., bởi vì… và đổ lỗi cho người khác chứ không phải lỗi của mình. Nhiều khi ta còn tự phụ vì mình công chính hơn kẻ khác, như người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay. Bắt đầu công cuộc rao giãng “Tin Mừng của Thiên Chúa” Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần, ANH EM HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.” (Matcô 1: 14-15). Lời này được lập đi lập lại khi chủ tế xức tro trên đầu chúng ta trong ngày Thứ Tư Lễ Tro mở đầu mùa Chay Thánh.

  1. Vậy mặc dù chúng ta tội lỗi, nhưng chúng ta hãy đến với Chúa và hãy tin chắc rằng Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta. Những tội hết sức nặng nề của hai nhân vật ấy mà còn được Chúa tha thứ một cách hết sức dễ dàng và nhanh chóng thì huống chi là những tội của chúng ta! Người đàn bà tội lỗi trong Tin mừng hôm nay là bài học cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn khoan dung từ ái, sẵn sàng tha thứ và quên hết mọi lỗi lầm nếu chúng ta biết chân nhận và thành tâm ăn năn thống hối, thực sự trở về từ chính nội tâm chứ không phải mang dáng vẻ hình thức bên ngoài. Chúa tha thứ cho vua Đa vit. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người. Tha thứ là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm, người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về… “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương – Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta”. Đó là lời của một bài hát chúng ta vẫn thường hát lên trong dịp lễ cầu hồn để ca ngợi tình thương nhân hậu của Thiên Chúa dành cho con người.

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN C (cf. CN 24, 25, 29 năm B; CN 13, 22 năm A; CN 23 năm C)

Thầy là Đấng Kitô của TC- Con Người phải chịu đau khổ nhiều….

Bài đọc I (Dcr 12, 10-11) Ngôn sứ Dacaria tiên báo rằng sẽ tới ngày Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần xuống trên dân (như chuyện sẽ xảy ra trong ngày lễ Hiện xuống), khi đó, nhờ được Thánh Thần soi sáng, họ sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng Messia, cho nên họ sẽ ngước nhìn lên Ngài và sẽ khóc than sám hối. Bài đọc 1 trích sách Dacaria ra đời trong bối cảnh Irael không còn là một quốc gia nữa, nhưng đã trở thành một dân phiêu bạt, sống từng đám một ở nhiều quốc gia khác nhau. Không mất niềm tin vào lòng Chúa thương xót, tiên tri Dacaria quả quyết Chúa không bỏ rơi dân Người. Chúa luôn trung tín cho dù dân có phản bội Người. Có thể Người thương dân một cách khác kỳ diệu hơn. Người đã cho họ từ Babylon trở về, nhưng rồi họ cũng không xây dựng lại được một dân tộc đạo đức. Do vậy Chúa sẽ gửi đến cho dân một tiên tri mới. Dân tưởng ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như mọi tiên tri khác. Nên cuối cùng họ cũng xử với ngài như với các tiên tri trước đây. Họ giết ngài. Nhưng kỳ diệu thay! Khi nhìn vào người mà họ vừa đâm chết, dân khóc òa lên, ân hận vô cùng. Sự vô tội của ngài mở mắt cho họ thấy tội lỗi của họ. Lòng thống hối ăn năn thay đổi trái tim chai đá của họ thành trái tim bằng thịt. Nhờ đó họ được thần khí mới và trở nên dân mới. Tiên Tri Dacaria đã tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: “Chúng nhìn xem Đấng chúng đã đâm thâu qua.”

-“Ngày ấy tiếng khóc than sẽ vang lên ở Giêrusalem” (Dcr 12, 11). Điều này đã nên ứng nghiệm: trên đường thương khó, có nhiều người theo Đức Giêsu đấm ngực và khóc thương Ngài, nhưng Đức Giêsu quay lại và nói: “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, xong hãy khóc thương lấy chính mình và con cái các bà ”  (Lc 23,27-28).

 – “Ngày ấy sẽ có một suối mở ra cho nhà Đavid, và dân cư Giêrusalem, để tẩy rửa tội lụy và uế nhơ ” (Dcr 13,1). Điều này đã nên ứng nghiệm: Đó là dòng suối cứu độ, phát xuất tự sườn Đức Giêsu bị đâm, máu cùng nước đổ xuống, khơi nguồn các Bí tích tẩy rửa những kẻ tin vào Đức Giêsu, tái sinh họ làm con Chúa, và được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Đúng như lời ngôn sứ Êdêkiel đã loan báo: “Tôi đã thấy nước từ Đền Thờ chảy ra, nước ấy chảy đến những ai, thì tất cả đều được cứu độ” (Ed 47). Nước từ bên phải Đền Thờ chính là nước và máu Đức Giêsu đổ xuống khi bị đâm! (x Ga 2,19 ; 19,34). Lúc một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, “tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34). Truyền thống cổ xưa của Giáo Hội nhận ra nước ấy biểu trưng cho Bí Tích Rửa Tội và máu ấy biểu trưng cho Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở rằng lúc chịu phép Rửa, chúng ta “đều mặc lấy Đức Kitô”.

Các tiên tri, đặc biệt là toàn bộ sách của Dacaria và Isaia (chương 53) đã tiên báo rất rõ về một Đấng Thiên Sai bị đau khổ, bị giết vì tội lỗi nhân loại nhưng sống lại và lên trời vinh hiển bên Ngai tòa Chúa Cha. Ngày nay với mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu, chúng ta thấy lời sấm của sách Dacaria quả thật đã nói về Đấng Thiên Sai cứu thế một cách rất phong phú. Người vừa có bản tính Thiên Chúa vừa là loài người, vừa là Con Một và con Đầu Lòng. Cho dù có cả một truyền thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn của Đấng Thiên Sai, người Do thái hầu như không để ý đến. Họ chỉ trông đợi một vị hoàng đế mà họ tin rằng sẽ cứu độ họ với những chiến công hiển hách.

Bài đọc II (Gl 3, 26-29) Nhờ phép rửa, người tín hữu đã “mặc lấy Đức Kitô” và đã “nên một trong Chúa Giêsu Kitô”, cùng chết và sống lại với Đức Kitô, từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới…. Phái tính, chủng tộc, giai cấp xã hội không còn quan trọng nữa. Hết thảy mọi người là con cái Thiên Chúa, là chi thể trong thân thể Đức Kitô. Họ thuộc về Đức Kitô.

Tin Mừng (Lc 9, 18-24) Thánh Phêrô thay mặt nhóm 12 tuyên xưng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (Kitô). Chúa Giêsu xác nhận lời tuyên xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là một Đấng Messia phải chịu đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải chịu khổ như Ngài.

  1. Vị Cứu Thế đến để cứu độ nhân loại được gọi theo tiếng Do Thái thời đó là “Messiah” (Có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”), dịch ra tiếng Hy Lạp là Christos, ra tiếng Pháp và tiếng Anh là Christ, Tiếng Việt Nam là Kitô, và trở nên danh hiệu để ghép vào tên riêng của Chúa Giêsu để thành “Kitô Giêsu” hoặc “Giêsu Kitô”. Kitô hay Mêsia là người được xức dầu, được Thiên Chúa chọn để giao cho một công việc nào đó. Đức Giêsu nhìn nhận căn tính này nhưng Người cấm các môn đệ không được nói điều này với ai, bởi vì, ý niệm Kitô hay Mêsia của Do Thái thời bấy giờ ít nhiều có liên can đến chính trị và quân sự. Do đó, Đức Giêsu đã tiết lộ ngay cho các môn đệ biết về hành trình thập giá của Người để họ đừng nghĩ đến chiến thắng chính trị hay quân sự. Đấng Thiên Sai sẽ bị đau khổ và bị đâm thâu như bài sách Dacaria loan báo, chứ không phải một Messia làm vua theo cái nhìn của người Do thái. Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi ràng buộc của tội lỗi hơn là xiềng xích nô lệ về thể xác.

Người Do Thái luôn luôn trông đợi Đấng Cứu Độ đến: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu Đời…” Hiện nay người Do Thái vẫn tin là Đức Kitô chưa đến, nên người Do Thái thường đến “Bức Tường Than Khóc’ (tường thành Giêrusalem cổ) để tiếp tục cầu nguyện xin Đấng Cứu Độ đến. Hơn nữa, theo dòng thời gian, người Do Thái thường có quan niệm Đấng Cứu Độ đến như một nhà lãnh đạo oai hùng để “đổi mới mọi sự” (Daniel 9:25-26) và lập nên một quốc gia Do Thái cường thịnh, vinh quang ‘thoát khỏi mọi áp bức của kẻ thù.” Những người đồng thời với Chúa Giêsu, dù được nghe lời xác quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan 1:29-34), và được chứng kiến những phép lạ vĩ đại Chúa Giêsu làm “người què được đi, người mù được thấy…” nhưng họ vẫn không tin Ngài là đấng “Kitô Thiên Chúa sai đến”, họ chỉ coi Ngài “như một Gioan Tẩy Giả, hoặc Elia, hay một trong các tiên tri thời xưa sống lại!” (như bản tường thuật trong Bài Phúc Âm hôm nay); vì thế Chúa Giêsu mới hỏi các Tông Đồ: “Còn các con bảo Thầy là ai?” Và Thánh Phêrô đã thay mặt anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Như vậy, chúng ta theo Chúa không phải để được vinh quang, giàu sang ở đời này, nhưng để noi gương Chúa “từ bỏ mọi sự và kiên nhẫn chịu mọi khổ đau ở đời này, sống yêu thương tha thứ, rồi để chết đi với Chúa, táng xuống mồ, trước khi được sống lại vinh quang trong Nước Chúa.”

  1. Lãnh bí tích Rửa tội để trở nên con cái Chúa, con cái của Hội Thánh Chúa, mỗi người đã tuyên hứa từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ. Như vậy việc từ bỏ ở nơi mỗi Kitô hữu công giáo, đã là một điều kiện ắt có và đủ, và phải thực hiện trong suốt cuộc sống đức tin của người tín hữu ấy. Có thể nói không ít người trong chúng ta, theo đạo từ đời cha ông đến nay, vẫn nghĩ rằng tôi theo đạo để được mọi thứ: Nước Trời, sự sống đời sau, cứu rỗi…, mà quên rằng trước khi được là tôi phải mất: mất chính mình-mất con người cũ rích của mình trong tình trạng tội lỗi…. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai muốn theo ta, hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta” vẫn luôn là một lời mời gọi khẩn thiết, nếu không nói đó là một đòi hỏi tự căn tính của Bí tích rửa tội, một lời thề hứa long trọng trước Thiên Chúa, mà mỗi Kitô hữu không thể thờ ơ hay bỏ qua như chuyện chơi đùa với Thiên Chúa, với Thần Linh được.

Chúng ta là những người theo Chúa Kitô, bởi đó căn tính của chúng ta được rập khuôn theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô là Con Thiên Chúa thì chúng ta, dù là ai, có địa vị hay không, giầu hay nghèo, lành lặn hay tật nguyền, thánh thiện hay tội lỗi, tất cả chúng ta đều là con của Thiên Chúa. Đó là căn tính của chúng ta như trong bài đọc hai Thánh Phaolô viết, “Nhờ đức tin, anh chị em là con cái của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.” (Galát 3:26)

  1. “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8) Đức Vua Tình Yêu Giê-su đến thế gian “không phải để được phục vụ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18; 15, 13). Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”. Vậy những kẻ muốn theo Người “phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23) là điều tất yếu vậy. Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào. Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn.

Thánh Phaolô đã diễn giải sự phi lý điên rồ đó: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người (1Cr 1,22-25).

  1. Thánh giá là dấu hiệu của Kitô giáo chúng ta. Thánh giá hiện diện ở mọi nơi chúng ta sinh hoạt tôn giáo, như nhà thờ, bàn thờ gia đình, đất thánh v. v. Trước khi làm một việc đạo đức, chúng ta luôn làm dấu Thánh Giá. Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu Lời Chúa để biết rõ hơn về ý nghĩa đích thực của Thánh giá. Và chúng ta xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Thánh Giá theo đúng ý nghĩa đích thực ấy. Chúng ta tôn kính những ảnh tượng Thánh Giá, nhưng lại sợ và trốn tránh những thánh giá Chúa gởi đến trong cuộc đời. Thập giá đã trở thành biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại. Và Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta cùng tham gia với Ngài. ” Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. ” (Lc 9,23)

“Từ bỏ chính mình”: xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là “thần hóa”. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ chính mình là chết đi con người cũ, khuynh hướng vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa …để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô.

Cuộc đời của người ky-tô chỉ đẹp khi biết từ bỏ. Từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa. Từ bỏ tội lỗi để sống theo lề luật của Chúa. Từ bỏ những gì không xứng hợp với danh nghĩa ky-tô hữu. Từ bỏ bản thân để sống vì lợi ích tha nhân. Nhất là từ bỏ chính mình để Chúa được lớn lên trong ta. Từ bỏ không chỉ là một lời mời gọi mà còn là một mệnh lệnh cho những ai tin theo Chúa. Tin Chúa phải theo Chúa. Có đi theo là có bỏ lại đằng sau. Bỏ lại những gì không cần thiết trong đời sống. Bỏ lại những gì làm cản bước chân ta. Bỏ lại tất cả những ràng buộc trần gian để con người sống gắn bó với Chúa hơn, sống cho Chúa để vì Chúa mà phục vụ anh chị em. Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân phận Thầy mình: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm2,11). Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu. Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày. Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho tha nhân. Mất mạng sống mình là để tín trung với Chúa.

Cứ thử sống như thế, ta sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an và hạnh phúc, một thứ bình an hạnh phúc sâu xa khác hẳn với thứ hạnh phúc mà chúng ta thường tìm kiếm theo lối ích kỷ. Và chúng ta chưa hạnh phúc cũng vì chúng ta không chấp nhận đau khổ: hơi khổ một chút là ta kêu van, bực bội, khó chịu, và tìm cách trút đau khổ cho người khác nếu được. Chính vì chúng ta sống như vậy, mà chúng ta mới đau khổ, đồng thời gây đau khổ cho bao người khác. Chúng ta có thể dựa vào tiêu chuẩn rõ ràng này để biết mình có phải là người thật sự theo Chúa hay không. Nhiều người tưởng mình đang theo Chúa cách tích cực chỉ vì mình đang là Kitô hữu, là tu sĩ, là linh mục, giám mục, hoặc đang làm tông đồ, tham gia hội này dòng kia. Nhưng nếu người ấy chưa từ bỏ được «cái tôi» của mình, ai nói động chạm đến mình là nổi đóa lên ngay, thì họ chưa phải là người theo Chúa đích thực. Hoặc khi nào phải hy sinh một chút cho người khác là tìm cách tránh né, từ chối, thì đó chỉ là kẻ giả danh theo Chúa thôi. Lời Chúa nói thật rất rõ ràng để mỗi người tự xét và tự biết mình trong việc này.

  1. “Vác thập giá mình”: Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Chúa Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 24 giải thích câu 23: “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa. Chúa đã chọn con đường thập giá và ai theo Chúa cũng phải đi con đường đó, không còn con đường nào khác. Những đau khổ, những thử thách trong đời có giá trị giúp thanh luyện chúng ta, giống như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy. Và trong ý nghĩa đó, thử thách đau khổ sẽ trở thành những hạt mầm chất chứa nguồn ơn cứu độ khi chúng ta biết liên kết với những đau khổ của Đức Kitô. Khi gặp đau khổ, thay vì kêu ca, trách móc… hãy dâng lời tạ ơn Chúa.

Khi bạn cho rằng đó là cơ hội để bạn chịu đau khổ và nên giống Chúa Kitô thì thập giá là niềm hạnh phúc. Chấp nhận đau khổ theo Đức Giêsu còn là một điều phúc (x. Mt 5,5). Chấp nhận đau khổ, nhất là với một tinh thần tự ý còn là một thình thức sám hối hữu hiệu. Đau khổ mang giá trị thanh tẩy thật, giúp tâm hồn dễ dàng tiến triển trên con đường nhân đức. Đau khổ là cách thể tuyệt vời để luyện tâp tâm tính như Raymond Offner đã nói: “Đau khổ làm cho người ta trở nên khôn ngoan sáng suốt hơn”. Thật vậy, đau khổ tôi luyện người ta thành nhân, sung sướng khiến người ta hư đốn. Vì thế mà Chúa Giêsu đề cao đau khổ và cảnh báo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ vẫn tồn tại. Muốn thoát khổ, chỉ có cách duy nhất là đi xuyên qua đau khổ. Nhà ngoại giao kiêm văn sĩ Paul Claudel (1868-1955) đã nhận định: “Chúa Giêsu xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”.

  1. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Người ta nghĩ Thầy là ai”, Ngài không hỏi thế vì Ngài, bởi vì Ngài đã biết rõ Ngài là ai rồi. Ngài hỏi thế là vì các môn đệ, Ngài tạo dịp cho họ suy nghĩ chín chắn về bản thân Ngài. Khi hỏi câu nầy, Chúa muốn nghe lời tuyên xưng từ mỗi cá nhân về liên hệ giữa mình với Chúa (the personal relationship) ở hiện tại mà không chú ý để nghe nói về, hoăc nghe từ ai trong quá khứ. Chúa muốn biết sự liên hệ giữa Chúa với ta thế nào: thân thương hay quen sơ, thâm tình hay xã giao, thắm thiết hay lạnh nhạt. Nói tắt, Chúa muốn biết cảm nghiệm bên trong từ con tim và trí tuệ ta chứ không phải bên ngoài từ sự hiểu biết suông. Sự liên hệ giữa Chúa và chúng ta chỉ được xác nhận bởi việc tuân giữ những luật lệ và thói tục bên ngoài, thiếu sự xác tín từ trong tâm hồn. Đức tin của chúng ta vẫn chỉ mượn lại của ông bà cha mẹ hay người khác. Chúng ta nghe nói về Chúa nhưng chưa gặp Ngài trong cảm nghiệm đời sống đức tin. Chúa Giêsu đối với chúng ta là Đấng đã từng nghe nói hay nghe hơi quen quen chứ không phải là bạn chí thiết, là Cứu Chúa của mình. Do đó, việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật hay những buổi cầu nguyện, tĩnh tâm…là một sự bắt buộc, có thể vì sợ tội, hay vì sợ người khác dòm ngó, không đi không được, hơn là vì tự nguyện và yêu thích.

Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu? Nhiều khi ta biết rất rõ Giáo Hội nói gì về Đức Giêsu, và ta cũng tuyên xưng mạnh mẽ ra bên ngoài tất cả những gì Giáo Hội dạy. Nhưng trong thực tế, có thể Đức Giêsu chưa là gì đối với bản thân ta. Ngài vẫn như một ai đó xa lạ với ta, ở bên ngoài ta. Ta chưa cảm nghiệm được sự hiện diện hữu hiệu của Ngài ở trong ta. Giữa ta và Ngài chưa có một quan hệ thân thiết đầy tình nghĩa, chiếm nhiều đầu óc của ta, có khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của ta, chi phối và thúc đẩy ta hành động. Rất nhiều khi ta đến nhà thờ để gặp Ngài, rước Ngài vào tận trong cơ thể ta, nhưng dường như giữa ta và Ngài chẳng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan hệ giữa ta với Ngài nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Sở dĩ như vậy là vì bản thân ta vẫn chưa xác định được Ngài là gì đối với ta. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi ta: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Ngài muốn ta xác định lại chỗ đứng đích thực của Ngài trong tâm hồn ta, để từ đó xác định lại mối quan hệ giữa ta với Ngài.

Tại sao cần phải xác định như thế? Vì có xác định Ngài là gì đối với ta, và ta là gì đối với Ngài, ta mới hành xử với Ngài thích hợp với quan hệ đã xác định ấy. Tương tự như quan hệ của ta với một người nào đó: nếu ta xác định người ấy chẳng là gì đối với ta, thì ta đối xử với người ấy sao cũng được, chẳng cần phải tỏ ra nồng thắm hay tình nghĩa. Nhưng một khi đã xác định người ấy là cha mẹ ta, là vợ chồng hay người yêu ta, là con cái của ta, hay là ân nhân, bạn bè ta, thì ta phải đối xử sao cho xứng hợp với quan hệ của người ấy với ta. Không thể cư xử với cha mẹ hay người thân tương tự như với người dưng được. Vì thế, một khi ta đã nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Đấng Cứu Thế, hay là Bạn, là Người Yêu… thì ta phải đối xử với Ngài đúng với những tư cách ấy của Ngài. Nếu nhìn nhận Ngài là Vua là Chúa thì đối với Ngài ta phải hành xử như một thần dân. Nếu nhìn nhận Ngài là Cha thì ta phải hành xử như một người con. Nếu coi Ngài như lẽ sống cuộc đời mình, thì ta phải sẵn sàng sống chết với Ngài… Nếu nhìn nhận một đằng, nhưng lại hành xử một đằng, thì sự nhìn nhận đó là giả dối.

Khi ta đã xác định Ngài là Chúa, là Thầy, và ta là môn đệ theo Ngài, Ngài cho ta biết điều kiện để theo Ngài: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo» . Ngài muốn ai theo Ngài thì phải thực hành đúng như vậy. Không thực hành như vậy thì không phải là theo Ngài đúng nghĩa. Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của mình.
Như vậy, nếu ta xác định mình là người theo Đức Giêsu mà lại không chịu từ bỏ bản thân, vẫn tiếp tục sống ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vun vén mọi sự cho mình, không chịu dấn thân sống tinh thần yêu thương, không chấp nhận vác thập giá theo Ngài, lúc nào gặp khó khăn cũng than phiền, cũng đổ lỗi cho người khác, cũng muốn lánh nặng tìm nhẹ, tránh khổ tìm sướng, thì việc xác định của ta chỉ là giả dối, việc theo Chúa của ta chỉ là trên danh nghĩa chứ không phải trên thực tế.

Phêrô quá trần tục đến nỗi không hiểu nổi ý định của Thiên Chúa.  Bằng chứng, ông đã ngăn cản khi Thày tự xưng là Con Người với một viễn ảnh vô cùng đen tối.  Ngược với hình ảnh “Ðấng Kitô” trong đầu Phêrô và truyền thống Do thái. Tôi có thể bị cám dỗ sống đức tin như trong sách vở.  Chính ông Phêrô đã trải qua cơn cám dỗ này.  Ông đã trả lời đúng bài bản, nhưng lại không hiểu gì về sứ điệp của Chúa.  Bởi thế, ông mới bị la rầy là Satan. Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi tôi từ bỏ chính mình.  Có bỏ mình mới có thể bước theo Thày. Mặc dù không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy tính ích kỷ, không biết tôi đã bước theo Thày cách nào và tới đâu rồi? 

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN C

Chọn lựa dứt khoát-Hãy theo Ta” (Lc 9, 59)

Bài đọc I (1 V 19, 16b. 19-21) Bài tường thuật ơn gọi của Êlisa: Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisa làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisa đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisa. Êlisa hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisa lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.

Con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc. Tiên tri Elisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thày Elia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Elia kêu gọi, Elisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy. Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.

Bài đọc II (Gl 4, 31b–5, 1. 13-18) Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.

Tin Mừng (Lc 9, 51-62) Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện: Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu và chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu.

  1. Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Đây là một giai đoạn mới trong cuộc đời Người. Người bỏ Galilê, nơi Người đã thành công ngay từ những bài giảng đầu tiên, đến độ người ta muốn tôn vinh Người làm thần tượng. Người lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải chịu treo trên thập giá để thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha, để hoàn tất công trình cứu độ.

Năm 931 trước công nguyên, Nước Do Thái bị chia cắt làm hai do hai vua cai trị: nước Israel (gồm vùng Galilê ở miền Bắc và Samari ở miền Trung) và nước Giuđa ở miền Nam (vùng Giuđê). Đến năm 721, nước Assyri xâm chiếm nước Israel, bắt một phần dân chúng đi lưu đày, và đưa các dân ngoại bang đến định cư tại Samari (x. 2V 17,24-41). Vì thế, dân tại Samari trở thành một dân tạp chủng, và tôn giáo của họ trở thành một thứ «hòa đồng tôn giáo». Do quan niệm tôn giáo khác nhau và do tính bất bao dung tôn giáo, nên dân Do Thái thuần chủng và dân Samari tạp chủng tẩy chay nhau, thù ghét nhau, tạo nên rất nhiều căng thẳng. Dù sau đó đất nước đã thống nhất, nhưng người Do Thái khi đi lại giữa Galilê và Giuđê thì thường đi vòng quanh thay vì đi xuyên qua vùng Samari, vì họ không muốn giao thiệp với người Samari. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem. Nhưng Đức Giêsu không có đầu óc kỳ thị đó, Ngài sẵn sàng đi xuyên qua Samari. Trong bài Tin Mừng, ta thấy Ngài sai vài môn đệ đi trước để chuẩn bị đến một làng ở Samari. Nhưng làng ấy nặng đầu óc kỳ thị địa phương không chịu đón tiếp phái đoàn Do Thái này. Điều này khiến các ông Giacôbê và Gioan nổi giận. Óc phe nhóm của những người Samaria đã tệ, mà óc phe nhóm của hai môn đệ còn tệ hơn: theo họ nghĩ, ai mà chống lại phe nhóm của họ là chống chính Thiên Chúa cho nên phải bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu không tán thành, Ngài quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác. Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu rằng muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải theo con đường của Ngài, đó không phải là con đường báo thù, con đường bạo động, mà là con đường yêu thương, con đường cứu độ.

 Qua bài Tin Mừng ta thấy: Đức Giêsu không có đầu óc kỳ thị địa phương hoặc tôn giáo. Ngài chủ trương đến với mọi người, mọi dân tộc, mọi vùng, chứ không riêng gì một vùng hay một hạng người nào. Điều này đáng làm gương cho chúng ta. Hiện nay, trong Giáo Hội Việt Nam, tại nhiều vùng, ta vẫn thấy có não trạng kỳ thị địa phương do chính sách chia để trị thời Pháp thuộc để lại. Nhiều giáo phận hay giáo xứ không chấp nhận giám mục hay linh mục không phải là người địa phương của mình đến cai quản. Họ cố tranh đấu để giám mục hay cha xứ của mình phải là người thuộc địa phương của mình. Thái độ của Giacôbê và Gioan có lẽ cũng là thái độ của một số Kitô hữu, khi vì quá “sốt sắng việc đạo” mà sẵn sàng bất khoan dung với những kẻ chống đối hay trái nghịch lập trường. Nhưng đó không phải là thái độ của Tin mừng. Thái độ của Tin mừng chính là thái độ cao thượng của Đức Giêsu đối với dân thành Samari: nhân hậu với mọi người: ai chưa hiểu mình thì vẫn khoan dung và đối xử tử tế.

Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ theo Ngài không những phải từ bỏ hay tự hủy «cái tôi cá nhân» mà còn cả «cái tôi tập thể» ở trong mỗi người nữa. Tự mãn về tập thể mình, tuyên dương và đề cao tập thể của mình trước các tập thể khác, coi tập thể của mình là cao nhất, tốt nhất, thì có gì khác với một cá nhân tự mãn về mình trước các cá nhân khác, tự tuyên dương đề cao mình, coi mình là tốt nhất? Phong cách cá nhân hay tập thể như thế chắc chắn không thu phục được nhân tâm!

Một điều rất đáng ghi nhận là đang khi các tông đồ – cụ thể là Gia-cô-bê và Gio-an – lại cảm thấy bị xúc phạm, thì Đức Giê-su, Đấng quan trọng nhất trong nhóm, lại có vẻ như không cảm thấy bị xúc phạm. Tại sao? Vì Đức Giê-su đã tự hủy «cái tôi» của Ngài ngay từ trong bản chất của Ngài, trước khi quyết định nhập thể làm người: “Vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Người không nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, là vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).

  1. Ba người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu

– Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1, 37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa. Người không muốn chúng ta sống trong ảo tưởng. Chúa nói, “Con chồn có hang và chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” Chúa muốn chúng ta phải cẩn thận nếu chúng ta muốn theo Chúa để được giầu có, hay tiếng tăm, hay quyền bính, bởi vì một khi chúng ta tìm kiếm các giá trị trần tục, chúng ta sẽ mất mục tiêu là vương quốc Thiên Chúa mà nó quá quan trọng đến độ Chúa Giêsu đã nhắc nhở đến hơn một trăm lần trong các sách Tin mừng.

– Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo. Chúa Giêsu nói: “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts” (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Lời Thiên Chúa là Lời Hằng Sống, Triều Đại Thiên Chúa là Triều Đại Hằng Sống, là Nước Trường Sinh. Vậy thì, hãy cứ để “kẻ chết” (những người đang sống trong cõi chết trần thế) chôn “kẻ chết” của họ. Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công việc Cha con sao?’ Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15, 3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Việc đời đã có người thế gian lo, còn việc của Chúa được Chúa ủy thác cao cả hơn là loan báo Nước Trời.

– Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisa (1. V 19, 19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisa đang kéo cày “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị . . .), hãy quên quá khứ và hướng về tương lai; không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa. Chúa Kitô không muốn các môn đệ theo Chúa mà lòng vấn vương một quá khứ nào đó. Hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Ngài không bằng lòng cho chúng ta “ngoái lại đàng sau”, vì đó là thái độ chúng ta tiếc rẻ, muốn bắt cá hai tay, dính bén những sự đời này, những vật chất, danh vọng, quyền uy, chức tước thế gian này. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đòi hỏi lập trường dứt khoát, trắng đen rõ ràng. Theo Chúa hay không. Người không thể chấp nhận sự mập mờ, chân trong chân ngoài, nước đôi, nhị trùng. “Nóng thì nóng cho hẳn, lạnh thì lạnh cho rồi. Không lạnh không nóng, dở dở ương ương, Ta sẽ mửa người ra!” (Kh 3, 15b -16) Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận bắt cá hai tay, thái độ lưng chừng, nửa vời: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: Vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia, hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên chúa mà lại làm tôi tiền của được!” (Lc 16, 13) Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy.  Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa. Cầm cày mà cứ ngoái cổ lại đàng sau thì làm sao mà cày ruộng? đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được.

Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta? Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ điệp là: Đừng quay đầu lại; cũng đừng nhìn lại đàng sau.

Bài Tin Mừng cho biết, khi về Giêrusalem lần này, Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã, thê thảm. Nhưng Ngài vẫn nhất quyết lên đường theo tiếng gọi của Cha Ngài. Đức Giêsu đã đi theo tiếng gọi của Chúa Cha một cách dứt khoát, đầy tự nguyện và mau mắn như thế đấy. Ngài đã từ bỏ bản thân, kể cả mạng sống mình, một cách thật trọn vẹn.

Tuy nhiên, hai chữ «từ bỏ» ở đây không nên hiểu theo nghĩa đen, vì từ bỏ bản thân sẽ dẫn đến cái chết, từ bỏ cha mẹ sẽ thành bất hiếu, và từ bỏ mọi người thân của mình sẽ mang tiếng vô tình bạc nghĩa. «Từ bỏ» ở đây chỉ có nghĩa là không bao giờ dành ưu tiên cho những đối tượng đó hơn Thiên Chúa, không bao giờ đặt nặng những nhu cầu hay mệnh lệnh của những đối tượng đó hơn nhu cầu hay mệnh lệnh của Thiên Chúa. Nhưng điều cản trở ta nhất khiến ta không thể dành ưu tiên như thế cho Thiên Chúa, chính là bản thân ta, với những nhu cầu và ham muốn của ta. Nhu cầu và ham muốn của ta là danh vọng, quyền lực, tiền bạc, lợi lộc và các thứ thú vui đủ kiểu. Khi ta gắn bó với bản thân ta, với những nhu cầu và ham muốn của ta, ta sẽ dễ dành ưu tiên cho chúng hơn chính Thiên Chúa và những nhu cầu hay mệnh lệnh của Ngài. Nếu theo Chúa mà còn coi trọng «cái tôi» của mình, thì tất cả những từ bỏ khác đều chỉ là giả tạm. Từ bỏ tất cả mọi sự mà chưa từ bỏ chính «cái tôi» của mình – dù là «cái tôi» cá nhân hay tập thể – cùng với ý riêng mình, tự ái của mình, thì sớm muộn «cái tôi» ấy sẽ quơ lại tất cả những gì nó đã từ bỏ trước đó.

Lời Chúa hôm nay đặt mỗi người chúng ta duyệt xét lại đời sống đạo của mình. Qua bí tích rửa tội, chúng ta đã “tra tay vào cày” nhưng hãy coi chừng….

  1. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26). Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người. Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình. . . Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mi 6, 33). (TP) Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của ta chưa? Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tôi sống đây, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).  Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô (Pl 3:7-8).

Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc “của kẻ chết” là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v. v. Và những việc “hằng sống” như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo… Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai. Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.

  1. Mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu gọi. Đối với người Kitô hữu, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta theo chân Người trên những con đường khác nhau, theo những ơn gọi khác nhau, với những cách thức thể hiện khác nhau. Người không đòi hỏi tất cả mọi kitô hữu theo một con đường triệt để duy nhất, nghĩa là lìa xa gia đình, rời bỏ nhà cửa, quê huơng. Nhưng cuộc đời người tín hữu Kitô phải là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Họ sẽ sống theo sự chọn lựa đó, nghĩa là luôn ưu tiên cho việc tìm kiếm nước Thiên Chúa. Họ sẽ từ khước lợi lộc, nếu lợi lộc đó nguy hại cho việc tìm kiếm nước Thiên Chúa. Họ sẽ không vì đồng tiền mà làm hại kẻ khác, không vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm của mình. Sự chọn lựa này luôn đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu với bản thân, với những thói hư nết xấu, với những cám dỗ về danh vọng, lạc thú, tiền tài…. Và để làm được những việc đó, con người phải có ơn Chúa, phải có sự tác động của Chúa Thánh Thần, phải có ý chí và bản lãnh vững mạnh.

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN C (cf. CN 15 TN năm B, CN 11 năm A)

Ðức Giê-su sai 72 môn đệ đi truyền đạo

Bài đọc 1: Is 66,10-14c: (14) Giêrusalem và dân Do Thái đã bại trận tan hoang. Dân số giảm thê thảm vì những người tài giỏi, khéo chân tay, sản xuất nhiều đều bị lùa đi đày sang Babylone. Từ đó họ hướng về Giêrusalem và quê hương mà khóc than, nhớ nhung. Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do Thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an: “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.

Bài đọc II (Gl 6, 14-18) Giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô: Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô. Nguồn bình an, hạnh phúc, niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của ngài là thập giá Đức Kitô. Nếu thành Giêrusalem trong thời Cựu Ước (bài đọc 1) là niềm hy vọng, là sự bình an của dân Israel, thì sang thời Tân Ước, chính thập giá của Đức Kitô mới đem lại bình an, ơn cứu độ thực sự cho dân Ngài. 

TIN MỪNG: Lc 10,1-12.17-20- Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin mừng. Chúa đã căn dặn họ phải sống như thế nào, phải làm gì, nói gì.

  1. Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chin đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp. Biết bao anh chị em đang chờ đợi để được nghe Lời Chúa. Biết bao anh chị em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.
  1. Thứ đến ta phải cầu nguyện. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
    Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên Chúa và ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban, nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết qủa của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. “Nếu mà Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công!” (TV 127). Ta hãy noi gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ sống đời cầu nguyện, thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém Thánh Phanxico Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa. Cầu nguyện để biết được thánh ý Chúa, vì TG là cộng tác với Chúa… Phaolô trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa làm cho phát triển.
  1. Chúa Giêsu đã không ngần ngại loan báo cho các môn đệ biết trước những gian nan khốn khó đang sẵn chờ các ông ở phía trước. Hành trình của các ông ra đi được ví như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Sứ giả của Thiên Chúa một khi phục mệnh ra đi thì cần phải chấp nhận đi vào những hoàn cảnh khó khăn và thử thách, đi đến những nơi mình không muốn, và ngay cả liều mất mạng sống nữa. Trong đoạn thư gửi tín hữu Gl 6,14-18- Bài đọc 2 – Thánh Phaolô chia sẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô: Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người, Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô và Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài. Làm tông đồ là phải chấp nhận bị nguy hiểm, bị bạc đãi, bị lâm cảnh «chiên con đi vào giữa bầy sói». Số phận của những tông đồ đích thực là như thế. Đức Giêsu đã báo trước số phận của những tông đồ đích thực: «Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em» (Ga 15,20). Chính việc bị bách hại ấy chứng tỏ được ai là tông đồ hay ngôn sứ đích thực: «Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,22-23). Trái lại, khi ta được mọi người ưu đãi, thì hãy coi chừng, vì Đức Giêsu đã từng nói: «Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,26). Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3)
  1. “Anh em hãy ra đi… “Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: Bản chất của Giáo hội Chúa Kytô chính là truyền giáo. Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3). Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”. Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
  1. Hành trang của các nhà truyền giáo cũng được Chúa Giêsu giản lược hết mức có thể. “Đừng mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép”. Ðức Giêsu không muốn coi thường hay loại bỏ các nhu cầu vật chất cần thiết trong công cuộc truyền giáo, Người chỉ muốn người Tông đồ không được quá đặt nặng các phương tiện vật chất, nhưng trước hết phải trang bị cho mình tinh thần phó thác, đạo đức, hy sinh xã kỷ, chỉ tìm vinh danh Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, chứ không phải lợi ích và sự an ninh bản thân. Không mang bao bị và giày dép là nhằm tránh đi những thứ đồ đạc cồng kềnh, không cần thiết.

Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, tức là đừng quá lãng phí thời gian vì cách chào theo kiểu phương Đông thường dài dòng mà sứ vụ rao giảng Tin mừng thì đang khẩn cấp. Điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.

“Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình. Tóm lại, khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa, đừng cậy dựa vào sức riêng mình, đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả. Hãy xem linh mục Gioan Vianney, cha sở họ Ars, tuy rất kém về mặt thông thái, về kiến thức thần học, và có rất ít những phương tiện vật chất, nhưng lại là một tông đồ nổi tiếng về khả năng cải hóa các tâm hồn. Tại sao? Vì ngài có đầy đủ những hành trang tinh thần cần thiết mà Đức Giêsu đòi hỏi người tông đồ phải có.

Người rao giảng Nước Trời phải là người siêu thoát với mọi ràng buộc của trần gian, siêu thoát khỏi những tham vọng của cải, quyền lực, lợi lộc cá nhân, bè phái. Đó là những ràng buộc của trần gian khiến người Kitô hữu không thể là chứng nhân đích thực cho Nước Trời.

  1. Truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Cuộc sống con người trên trần gian không gì quý hơn sự bình an: nội giới cũng như ngoại giới, cá nhân cũng như xã hội. Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông. Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ. Và nhất là niềm bình an vì được làm con cái Chúa, có Chúa ở với ta, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa. Chúng ta phải trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh.

Cả ba bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nói về sự bình an, là ân ban Thiên Chúa đem đến cho nhân loại trong thời kỳ thiên sai (bài đọc 1), là món quà mà thánh Phaolô đã trải nghiệm cùng với Lòng Thương xót Chúa (bài đọc 2), và cũng là hành trang các Tông đồ đem theo trong hành trình truyền giáo (bài Tin mừng). Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm… Sự bình an là một báu vật vô giá của Thiên Chúa, chính Ngài là nguồn mạch bình an. Thiên Chúa chỉ ban sự bình an cho những ai có tâm hồn trong sạch, khiêm hạ và biết tín thác vào sự quan phòng của Ngài cũng như cho những người thiện tâm xây dựng hòa bình. Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Ngài sai các ông đi thực tập truyền giáo với quà tặng bình an. Quà tặng này đi kèm theo điều kiện là ‘không mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép…’, tức là sống tinh thần nghèo khó một cách triệt để. Chúng ta vẫn thường hát lên ‘Kinh hòa bình’, lời kinh của Thánh Phanxicô Assisi, sứ giả của bình an, và ngài cũng là khuôn mẫu cho chúng ta về tinh thần nghèo khó phúc âm.

  1. Bảy mươi hai môn đệ ra đi, trở về hân hoan, vì những thành công của họ, ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo họ: “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời”. Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ… Nhưng đó cũng có thể là lời cảnh báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ của Ngài rằng đừng sống dựa vào những cái vinh dự mau qua. Cái vinh dự trừ quỉ hoặc làm được những phép lạ này nọ, đó chính là điều mà con người chúng ta thường hay bám vào. Chúng ta thường bám vào những cái gì là vinh quang chóng qua ở đời này. Phaolô nói: “Ước gì tôi không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.
  1. “Chữa lành các bệnh tật”. Người truyền giáo phải là người làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất nơi tha nhân. Truyền giáo là đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng của các môn đệ là rao giảng Nước Thiên Chúa, nói với họ về Triều đại của Thiên Chúa. Tin Mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
  2. Họ cần đi “hai người với nhau”, để giúp đỡ lẫn nhau, cộng tác, chia sẻ, nâng đỡ nhau và làm chứng cho tình huynh đệ. Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng. Các kitô gữu đầu tiên tại Antiôkia đã từng gây ấn tượng tốt đẹp cho cư dân tại đó bằng nếp sống đoàn kết yêu thương nhau, khiến cư dân tại đó đã phải thốt lên “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Vào thời bách hại đạo tại Việt Nam, cha ông chúng ta đã được những người chung quanh gọi là “những người theo đạo yêu nhau”. Những chứng từ như thế có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn là “văn hay chữ tốt”.
  1. Truyền giáo bằng đời sống. Lời nói đi đôi với việc làm. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe. . . , lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào. . . Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi. Chính cách sống của chúng ta là lời chứng hùng hồn nhất cho Chúa.

Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta. Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng. Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó. Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa! Nếu Tin Mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.

 Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”. Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi cuốn. Con người thời nay tin ở nhân chứng hơn là lý thuyết. Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng không?

  1. Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Hôm nay, Chúa đang than thở với mỗi người chúng ta: “Lúa chin đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là chúng ta có luôn ý thức về bổn phận truyền giáo của chúng ta không? Tôi có khao khát đem Chúa cho người khác? …. Tôi có chương trình cụ thể gì?…. Tôi đã lôi kéo được người nào về với Chúa chưa? Có bao giớ tôi nói cho bạn bè, những người chung quanh tôi, những người tôi gặp gỡ về Chúa chưa? Tôi có làm chứng cho Chúa bằng cách sống của tôi hay vì cách sống bê tha của tôi mà những người khác chê trách đạo Chúa?

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khỏe mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

  1. Hội nghị các Giám mục Á châu đã liệt kê một số điều mà các tín hữu cần học hỏi nơi các dân tộc châu Á như sau: Học tập cách cầu nguyện ăn chay và bố thí của người Hồi giáo. Học tập cách chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học tập sự từ bỏ của cải và tôn trọng sự sống nơi người Phật tử. Học cách xây dựng gia đình và xã hội có trật tự nơi Khổng giáo. Học sống đơn sơ khiêm tốn nơi Lão giáo… Càng học, ta càng nhận ra giáo lý Đức Giê-su tiềm ẩn trong giáo lý các tôn giáo đó và nhờ hiểu biết họ, ta sẽ gây được thiện cảm với họ để dễ dàng giới thiệu Đức Giê-su cho họ hơn.

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN C (x. CN 31 năm B; CN 30 năm A)

làm gì để được sự sống đời đời- người Sa-ma-ri NHÂN HẬU

Bài đọc I (Đnl 30, 10-14) Để khuyến khích dân Do Thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng: Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.

Bài đọc II (Cl 1, 15-20) Tín hữu Côlossê tuy đã tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục Do Thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát…), mặt khác họ tin thêm một số thần khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì “chắc ăn” hơn. Để bài trừ cách sống đạo “thập cẩm” này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa Giêsu: Ngài là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.

 

 Bài Tin mừng

  1. Hai giới luật quan trọng nhất của Cựu ước là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (x. Đnl 6,5 và Lv 19,18). Trong Tân ước, hai giới luật đó được diễn tả thành một giới luật duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Tại sao? Vì theo Đức Giêsu, tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa, tất nhiên phải được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân.
  1. Trong dụ ngôn người Samari nhân hậu, Đức Giêsu đưa ra 4 nhân vật:

Một thường dân Do Thái: bị cướp đánh nhừ tử dở sống dở chết và bị bỏ rơi dọc đường.
Một tư tế và một thầy Lêvi người Do Thái: hai người này thuộc giới cao cấp trong tôn giáo Do Thái, vừa đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo tôn giáo, vừa thi hành nhiệm vụ tư tế, vừa đảm nhiệm việc giáo dục tôn giáo cho tín hữu Do Thái. Chi tộc Lê-vi đã được Đức Chúa chọn ra riêng biệt để lo công việc bàn thánh, dưới quyền các tư tế (Ds 3, 5-13).  Hai người này gặp cảnh đau thương của người đồng hương và đồng đạo của mình thì bỏ đi, mặc kệ người ấy sống chết ra sao cũng được.

Một người Samari: cũng là người Do Thái, nhưng ở vùng miền Trung Do Thái. Vào thời dân Do Thái bị ngoại bang đô hộ và bị lưu đày, vùng Samari bị người ngoại bang tới định cư, khiến cho dân vùng này trở nên lai tạp, không chỉ về mặt nòi giống, mà cả về mặt tôn giáo nữa. Vì thế, dân Do Thái thuần chủng ở miền Bắc và Nam Do Thái rất kỳ thị và khinh thường dân Samari, coi họ không khác gì những người tội lỗi. Vì thế, giữa dân Do Thái và dân Samari có một mối hận thù sâu sắc.

  1. Nhưng trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đã cho thấy người Samari vốn bị coi là tội lỗi này lại sống đúng luật yêu thương của Cựu ước hơn những vị chức sắc tôn giáo, là những người dạy dỗ mọi người về luật yêu thương ấy. Nếu so sánh theo quan niệm tĩnh và khách quan, thì hai vị chức sắc Do Thái giáo kia gần gũi với người Do Thái bị cướp kia hơn người Samari, vì họ có tính cách đồng hương và đồng đạo với nhau nhiều hơn. Nhưng hành động yêu thương và xả thân của người Samari đã biến người Do Thái bị nạn trở thành gần gũi đối với anh. Theo quan niệm của Đức Giêsu, vấn đề không phải là gần gũi hay không gần gũi, mà là hành động làm sao để tỏ ra gần gũi. Vì thế, Ngài hỏi người thông luật: «Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?» Và người thông luật đã trả lời: «Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy». Hai thầy tư tế và Lê vi thấy nạn nhân, nhưng đã “tránh qua bên kia mà đi”. Còn người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Thầy tư tế và thầy Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo họ, trong lề luật, không có khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong hoàn cảnh như thế này cả. Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11; x. Lv 19, 11.13.15.18).). Như vậy, nếu mình không cứu người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận mà thôi. Người Do Thái thời đó lại hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào Do Thái với mình. Còn những người dân ngoại và cả người Samari đều bị coi là tội lỗi. Bởi đó người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay muốn hỏi Chúa xem người thân cận là ai? Nhưng Đức Giêsu muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Thầy tư tế và Lêvi dùng cái đầu để suy xét, dùng lý trí để chọn lựa. Trái với hành động của hàng tư tế và Lêvi, suy nghĩ và hành động của người Samari xuất phát từ chính con tim luôn biết rung động và cảm thương. Ông không dùng lý trí để biện phân cho hành động của mình. Ông chỉ biết chạnh thương mà cứu giúp.

  1. Bắt đầu bài Tin mừng, người thông luật hỏi Chúa Giêsu: Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?” Bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu trả lời xác định: “Ông hãy đi và LÀM như vậy”. Có nghĩa là: “Ông hãy bắt chước người Samari nhân hậu sống đời sống bác ái yêu thương, để chính ông sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu hỏi ngược lại người thông luật, và để ông chọn lựa câu trả lời (cc. 36-37). Câu hỏi của Người không nhắm trên “người thân cận” như một đối tượng xếp loại hay chọn lựa, “Ai là người thân cận của tôi” (c. 29). Ngược lại, Người nhắm trên người thực hành lề luật: khi tỏ lòng thương xót là tự trở nên (gegonenai) người thân cận của kẻ khác. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót (1:50.54.58.72.78), và trong Chúa Giêsu Kitô, Người đã trở nên gần gũi, người than cận, với con người.

Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình. Người Samari trong dụ ngôn này là một người như thế: khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân. Khác hẳn với Thầy tư tế và thầy Lêvi: hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp “đi qua”. Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ. Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở tòa án. Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện. Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu, bất kể người đó là ai, kể cả kẻ thù.

Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “thương người có 14 mối”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống…Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta…. Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…” (Mt 25,31-46).

Ai trong chúng ta cũng biết, nếu không có lòng yêu mến Thiên Chúa hết mình, chúng ta không thể nào yêu thương tha nhân như mình. Yêu thương tha nhân như mình chỉ là bản trắc nghiệm xem chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết mình chưa hay đã yêu mến Ngài đến đâu? Tình yêu mến Chúa và tha nhân không thể tách rời. Hơn nữa, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Gn 4:21). Tình mến Chúa yêu người có thể biểu lộ qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Một trong những khía cạnh đó là dấn thân cho tha nhân. yêu người chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được Thiên Chúa thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hóa ra đó là mình tự yêu bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ, chứ đâu phải là tình yêu!

Yêu thương là giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2) Nếu không có tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.

Nếu phải bỏ ra tất cả tài sản của mình để sống thêm được 20 năm nữa, chắc là mọi người đều muốn như vậy. Hoặc nếu nói ở nơi nào đó có bán một loại thuốc có thể sống thêm 50 năm nữa, chắc là mọi người đều đổ sô đến đó để kiếm bằng được viên thuốc đó. Nhưng 20 năm hay 50 năm làm sao sánh được với sự sống đời đời. Vậy mà Chúa bảo chỉ cần làm như người Samari nhân hậu là có được sự sống đời đời, chúng ta lại không muốn làm….. Mỗi khi tham dự Tiệc Thánh thể, kỷ niệm việc Chiên Thiên Chúa đã dấn thân chịu chết để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy suy về ý tưởng này. Câu trả lời của ông kinh sư làm Đức Giêsu hài lòng và Người bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.” Nghĩa là, ông chỉ cần sống điều ông xác tín, thì ông đã đặt chân vào trong Nước Thiên Chúa rồi. “Yêu hết mình,” “sống hết mình” là những cụm từ mà chúng ta thường nghe, thường dùng trong quan hệ giữa chúng ta với nhau. Bạn có dám nói câu ấy với Thiên Chúa và với mọi người không? Chúa Giêsu cũng đang bảo: “Con cũng hãy đi và làm như vậy”. “Hãy đi và hãy làm như người Samari nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta.

  1. Đức Giê-su Ki-tô là vị tư tế, mà như trong thư gởi tín hữu Do Thái đã nói, là vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời (Dt 4, 14 ), vị Thượng Tế đã biết cảm thương nỗi yếu hèn của chúng ta (Dt 4, 15). Vì cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta nên Chúa Giê-su đã vâng phục Thiên Chúa Cha, mặc lấy thân phận con người như chúng ta (Pl 2, 7) ngoại trừ tội lỗi, và Ngài đã trở nên vị tư tế dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ hoàn hảo tinh tuyền đẹp lòng Chúa Cha nhất, chính là Ngài. Vì thế, Đức Giê-su Ki-tô vừa là tư tế vừa là của lễ đền tội cho nhân loại, và đã trở nên “người thân cận” của mọi người. Ngài chính là người Samari nhân hậu.
  1. Chúa chỉ điểm cho nhà luật sĩ để ông ta khám phá ra sự thật, thay vì tìm hiểu xem ai là người lân cận thì hãy cố gắng biến chính mình để trở thành người lân cận của kẻ khác, như kẻ qua đàng trong dụ ngôn nhìn thấy người nửa sống nửa chết bên vệ đường thì không cần biết xem người đó có thuộc vào sổ những kẻ lân cận của mình hay không, nhưng tự bắt buộc mình, tự đặt mình làm người lân cận, làm kẻ phục vụ anh chị em để cho tình thương trong con người mình được thể hiện một cách cụ thể. Hãy biến mình trở thành người lân cận của anh chị em.

Khi chọn những nhân vật (một người Samari đến giúp đỡ một người Do thái!” Chúa Giêsu khẳng định rằng phạm trù người thân cận là phổ quát, không phải riêng rẽ. Chân trời của nó là nhân loại chớ không phải gia đình, giới chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người thân cận!

Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về kẻ thân cận. Người Samari là kẻ thân cận chớ không phải là người bị thương tích, như chúng ta có lẽ trông đợi. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người thân cận chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ cách quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người thân cận! Vấn đề của người tiến sĩ luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là: “Ai là người thân cận của tôi?” nhưng “ở đây và bây giờ tôi có thể là người thân cận của ai?”

Nếu ta yêu thương ai, đối xử tốt với ai, thì người ấy tự nhiên sẽ trở thành người thân cận của ta. Điều này quả thật rất phù hợp với tâm lý tự nhiên của con người. Hai người dù xa lạ nhưng yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên gần gũi với nhau. Còn anh em, dù là ruột thịt, mà không yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên xa cách. Tình yêu làm con người trở nên gần gũi nhau, còn sự lãnh đạm, vô tình tạo nên khoảng cách. Vì thế, người Kitô hữu cần biến tất cả mọi người mình gặp trên đường đời trở thành người thân cận của mình bằng cách đối xử với họ bằng tình thương chân thật.

Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần tôi dám bước tới, xích lại và cúi xuống là người lạ nên quen, người xa nên gần, kẻ thù nên bạn. Những khoảng cách được lấp đầy, những rào chắn phút chốc sụp đổ.

  1. Thời Cựu Ước, tiêu chuẩn để nên công chính là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người Pharisiêu là những người hoàn chỉnh nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng Đức Giê-su đã nhận ra rằng trong lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì mới là người công chính, và mới được Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.

«Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20). Ý của Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải vì lề luật buộc phải làm như thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Càng yêu thương càng nên giống Chúa, càng thánh thiện.

Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).

Nếu không có tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.

Dụ ngôn trên khiến người Kitô hữu phải xét mình lại. Chúng ta tự hào đạo của chúng ta là đạo yêu thương, nhưng nhiều khi chúng ta lại đối xử với tha nhân không có tình yêu thương cho bằng những người ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta giảng dạy về yêu thương nhiều và hay hơn ai hết, nhưng lại cư xử thiếu tình thương hơn ai hết. Và như vậy chúng ta trở thành những kẻ phỉ báng đạo của chúng ta.

CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN C

MÁC-TA VÀ MA-RI-A- HOẠT ÐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM

Bài đọc 1: Chúa đã đến gặp Abraham qua hình ảnh ba người khách lạ. Abraham, Xara vợ ông và các tôi tớ đã mau mắn ân cần tiếp đãi các vị. Abraham dọn tiệc đãi khác; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây. Đang khi dùng bữa, khách đã nói với ông: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai.” Đây chính là tin vui lớn lao cho ông bà vì hài nhi được loan báo chính là Isaac, người con của lời hứa, sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc đông đảo.

Bài đọc 2: trong thư gửi Cô-lô-xê, Thánh Phaolô xác nhận: Mình là người được Thiên Chúa giao phó phải rao giảng lời Ngài cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại, qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các Thánh của Thiên Chúa. Người muốn cho họ được hiểu biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại. Đó chính là Đức Kitô đang ở giữa anh em (Cl 24–28).
Thánh Phaolô tỏ ý sung sướng vì được chịu khổ trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Sở dĩ những đau khổ ấy trở thành niềm vui vì Phaolô ý thức rằng nhớ đó mà ông bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu Kitô.

Bài Tin Mừng (Lc 10,38-42) hai cách đón rước Chúa Giê-su của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cả hai người phụ nữ này đều rất yêu mến và quí trọng Chúa Giê-su. Cả hai đều muốn dành cho Chúa Giê-su những giờ phút thoải mái, dễ chịu nhất. Cô chị thì chuẩn bị cơm nước. Cô em thì ngồi tiếp chuyện với Chúa, lắng nghe Chúa nói. Chúa khen Maria vì cô biết ngôi bên Chúa để lắng nghe Chúa nói: Maria đã chọn phần tốt nhất.

  1. Chọn phần tốt nhất không phải là phải chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu, và làm theo ý Chúa. Trong nhiều đoạn Phúc âm, Chúa Giêsu cũng nói tới điều quan trọng nhất, cần thiết nhất: “Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28); “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21. x. Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35); “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 25.33). “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bằng Lời từ miệng Chúa phán ra” (Lc 4,4), “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy” (Ga 3,34). Lắng nghe lời Chúa chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria không phải vì là Mẹ của Chúa, song vì Mẹ đã “lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28). TV 119, 105: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.”, “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài “. Khi quá bận rộn vì vừa phải lo phục vụ vật chất, lại vừa phải rao giảng trong cộng đoàn, các tông đồ đã ưu tiên chọn việc rao giảng Lời Chúa. Lắng nghe lời Chúa tức là đang chọn chính Chúa. Chúng ta “lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá” nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin Mừng; cõi lòng chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không còn chỗ cho Tin Mừng của Chúa bén rễ. Chúng ta có thể thấy khuôn mẫu của người môn đệ lắng nghe Lời Chúa nơi con người Maria. Thật thế, ngay khi Chúa vào nhà, cô liền sà ngay vào chân Chúa, dường như quên hết mọi sự. Phong tục thời ấy, ngồi dưới chân ai được coi là môn sinh của người đó. Và, trong tư thế của người môn đệ đối với Thầy, Maria không làm gì, không nói gì, chỉ biết ngồi và lắng nghe. Cầu nguyện có nghĩa là chúng ta ở với Chúa, nghe Chúa nói, chứ không phải là để xin xỏ điều nọ điều kia.
  2. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ đánh giá thấp việc phục vụ. Đã có lần Chúa nói: Ta đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người ăn no bằng năm chiếc bánh và hai con cá (Gioan 6). Chúa đã rảo qua khắp các thành thị và làng mạc để rao giảng, xua đuổi ma quỷ, chữa lành các bệnh tật. Ngày phán xét không phải kẻ ngồi nghe lời Chúa được tuyên dương công phúc mà kẻ phục vụ được thưởng công. ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập điạ. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khác các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi thăm nom’. (Mat 24,34-37) Vì nghe mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát.
  1. Mácta và Maria là những mẫu gương sống động, là hình ảnh của người Kytô hữu trưởng thành. Có thể nói lắng nghe Lời Chúa và thực thi lời Chúa có mối tương quan mật thiết hỗ tương, không thể có điều này và mất điều kia hay ngược lại. Cả hai đều đưa ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, đưa ta đến với tha nhân để yêu thương và phục vụ. Nhưng trong hai thái độ sống đó chúng ta được mời gọi dành ưu tiên trước hết cho việc cầu nguyện, cho việc ở với Chúa, biết Chúa, sống tương quan mật thiết, hiệp thông với Chúa, rồi từ đó dẫn chúng ta tới việc phục vụ Chúa và tha nhân, việc phục vụ này như là hậu quả của việc cầu nguyện. “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Cầu nguyện trước khi hoạt động, trước khi phục vụ. Điều Chúa nhắc bảo giúp chúng ta tránh một nguy cơ rất dễ xảy ra trong đời sống của chúng ta. Đó là nhiều khi chúng ta phục vụ Chúa mà chúng ta quên đi chính Chúa. Đức Cố Hồng Ý Phanxicô Nguyễn Văn Thuận có một phân biệt rất tinh tế: đó là “Thiên Chúa và công việc của Thiên Chúa”. Nhiều khi chúng ta làm những công việc của Thiên Chúa nhưng lại quên chính Thiên Chúa.

Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”. Nếu không kết hợp với Chúa, chúng ta dễ rơi vào cám dỗ là làm vinh danh chính mình, làm để được người ta khen ngợi, để người ta chú ý đến mình, mà quên rằng chúng ta phục vụ Chúa, làm vinh danh Chúa. Đối với với những công việc khó khăn, nếu không cậy dựa vào Chúa, nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta dễ ngã lòng, dễ bỏ cuộc. Nhìn Mácta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý như Mattha: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10, 40-41). Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).

Chúa gọi các tông đồ để ở với Ngài và để được Ngài sai đi (x. Mc 3, 14). Các tông đồ trước khi đi loan báo tin mừng đã sống bên Chúa, để có những kinh nghiệm cá nhân với Chúa rồi từ đó mới có thể rao giảng về Chúa. Phải cầu nguyện trước khi hoạt động, và hoạt động trong cầu nguyện. Như thế công việc của chúng ta mới có thể đưa tới sự thành công, mới đẹp ý Chúa. Mẹ Terexa Calcutta là mẫu gương cho điều đó, Mẹ cầu nguyện hàng giờ trước Thánh Thể trước khi đi phục vụ người nghèo. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh chị em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.

  1. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các dòng tu có khuynh hướng thiên về chiêm niệm; đa số các dòng tu được thành lập trong thiên niên kỷ thứ hai lại thiên về hoạt động. Trong thiên niên kỷ thứ ba này, các dòng tu đang nỗ lực dung hoà hai khuynh hướng trên. Chiêm niệm và loan báo Tin mừng luôn gắn chặt với nhau. Đức Gioan Phaolô II khuyên nhủ những người tận hiến “cần phải tiếp tục lấy Chúa Kitô làm gương mẫu ở bất cứ thời đại nào, bằng cách nuôi dưỡng cầu nguyện để duy trì sự hiệp thông sâu xa với Ngài (x. Pl 2, 5- 11), hầu toàn thể đời sống họ được thấm nhuần tinh thần tông đồ và mọi hoạt động tông đồ của họ thấm nhuần tinh thần chiêm niệm.” (VC 9; x. PC 5; Văn kiện “Chiều kích chiêm niệm của đời tu”, số 4- 7). Thật vậy, “cầu nguyện là linh hồn của việc tông đồ và việc tông đồ làm sinh động và cổ vũ việc cầu nguyện.” (VC 67) Chiêm niệm là sự kết hiệp không ngừng với Thiên Chúa trong sự nhận thức về sự hiện diện của Ngài. Chiêm niệm giúp chúng ta nhận thức được quyền năng của Thiên Chúa thực hiện trong đời sống chúng ta và trong thế giới, và thúc giục chúng ta hành động để đáp trả lại ý muốn đó của Thiên Chúa. Đó là một tiến trình mà người tu sĩ có thể nối kết mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa với thực tế chung quanh họ. Trong cầu nguyện và chiêm niệm, chúng ta đào sâu và tìm ra câu trả lời cho những vấn đề được đặt ra khi loan báo Tin mừng. Nhiều khi chúng ta hoạt động, phục vụ suốt ngày mà quên đi đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện. Chúng ta làm việc nhiều đến nỗi không có giờ để cầu nguyện.

Cầu nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực, nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Người môn đệ khi đã lắng nghe Lời Chúa thì cũng sẽ đi đến những hiệu quả tất yếu trong việc thực thi công bình, bác ái như Lời Chúa dạy. Khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa thì chính Lời Chúa thôi thúc chúng ta hành động, chính Lời Chúa là đèn soi bước chúng ta đi. Cầu nguyện cũng là lắng nghe Chúa nói như Maria chứ không phải chỉ đọc kinh, xin ơn…

  1. Phục vụ/hoạt động mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình. Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
  1. Phục vụ/hoạt động phải biết nghỉ ngơi. Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi và ta có thể phục vụ tốt hơn. Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN C

Kinh Lạy Cha

Bài đọc 1: St 18,20-32- Khi cầu nguyện, Abraham mặc cả với Chúa nhiều lần để xin Chúa tha phạt cho thành Xơđôma tội lỗi. Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa…

Vì dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và Abraham đã hạ dần con số những người công chính: từ 50 xuống 45, rồi 40, 30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa. Câu chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng: a/ Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi; b/ Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.

Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.

Bài đọc 2: Cl 2,12-14- Thánh Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội: Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô. Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được chỗi dậy với Người.

Bài Tin Mừng

  1. Tin Mừng tuần trước đã cho thấy sự cần thiết và tương quan hỗ tương giữa cầu nguyện và hoạt động: cầu nguyện là cội rễ của hoạt động và hoạt động là hoa quả của sự cầu nguyện. Tuần này, phụng vụ Lời Chúa nhấn mạnh đến vai trò của cầu nguyện trong đời sống kitô hữu.

Chúa Giêsu đã vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa Cha. Chúa đã dành nhiều giờ để vào nơi thanh vắng cầu nguyện và tâm sự với Cha của Ngài sau mỗi lần rao giảng, làm phép lạ. Chúa đã thức thâu đêm cầu nguyện và hỏi ý Chúa Cha trước khi tuyển chọn các môn đệ. Trong ba năm rao giảng, rầy đây mai đó, Chúa Giesu đã dành rất nhiều thời giờ để trò chuyện, thân tình tâm sự với Thiên Chúa Cha bằng lời cầu nguyện. Các môn đệ đã chứng kiến Thầy mình luôn yêu thích cầu nguyện, luôn tỏ ra việc tối quan trọng trong đời sống là cầu nguyện. Chính vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay các ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu dậy các ông cầu nguyện.

  1. Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ kinh lạy Cha. Chúa không ngần ngừ và không dậy bất cứ một lời kinh cầu nguyện nào nữa ngọai trừ kinh lạy Cha. Trong kinh lạy Cha, Chúa dậy các môn đệ thưa với Thiên Chúa là Cha của mình. Lời thưa với Thiên Chúa “Abba” là Cha chứng tỏ Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương.

Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”. Mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết. Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương, rất thân mật, rất gần gũi của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha. Nhờ Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là cha ơi. Tiếng xưng hô: cha ơi, thật đẹp làm sao. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha lại càng ý nhị và thân tình biết mấy.

Khi dạy các môn đệ gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu cho thấy tất cả sự chân thành âu yếm, sự gần gũi của Thiên Chúa đối với con người. Ðấng cao cả ngàn trùng bỗng trở nên thật gần, khiến con người có thể dễ dàng tỏ bày tâm can. Ðồng thời, Chúa Giêsu cũng cho thấy chúng ta chỉ có thể đến với Thiên Chúa Cha với tư cách người con nhờ Người, cùng Người và trong Người. Ðiều đó có nghĩa cầu nguyện là sống lại cuộc sống của Chúa Giêsu, là đi vào tâm tình của Người. Bởi vì chỉ có Chúa Giêsu mới biết rõ Chúa Cha và chỉ có Chúa Giêsu mới cho chúng ta biết phải đi vào quan hệ với Thiên Chúa Cha như thế nào cho phải đạo. Khi chú giải “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu”, thánh Cyprianô nói: “Khi chúng ta cầu nguyện, ước gì Chúa Cha nhận ra lời của Chúa Con”.

Abba!  Ðây có thể là tiếng trẻ thơ gọi Cha trong tình yêu thương quí mến, tương tự như tiếng gọi “Ba ơi! Bố ơi!”.  Người Do Thái khi cầu nguyện chẳng ai dám gọi Thiên Chúa cao cả bằng lối gọi quá đỗi thân mật như thế.  Nếu chúng ta “dám” gọi Thiên Chúa là Abba, thì lý do là vì chính Ðức Giêsu đã dạy và vì Thần Khí của Ðức Giêsu ở trong lòng chúng ta vẫn kêu lên “Abba” (Gl 4,6).  Ðược gọi Thiên Chúa bằng tiếng gọi bập bẹ của trẻ thơ, điều đó là một hồng ân.  Từ “Abba” vẫn luôn ở trên môi Ðức Giêsu trong từng lời kinh nguyện.  Chúng ta được chia sẻ với Ðức Giêsu cùng một tương quan với Cha, khi ta gọi tên Cha trong lúc cầu nguyện.  Theo Giáo Lý Công Giáo, mỗi khi cầu nguyện chúng ta được ở trong mối tương quan sống động và thân tình với Thiên Chúa. Vấn đề là sống tình con thảo, là thực sự để Cha là Cha của mình, và tin cậy vào tình thương của Ngài như tổ phụ Abraham đã nài nỉ, mặc cả với Chúa. Cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Cha.

Kinh Lạy Cha là “khuôn mẫu” cho mọi lời cầu nguyện Kitô giáo. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta rằng: Thiên Chúa thực sự là Cha của chúng ta và trong tình con thảo trước hết chúng ta phải biết quan tâm tới những gì liên quan tới Người và cầu nguyện cho những điều ấy được thực hiện. Rồi sau đó, chúng ta mới quan tâm đến những điều cần thiết cho sự sống (thể lý, tâm linh) của chúng ta và cầu xin Cha ban cho chúng ta những ơn cần thiết ấy, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Tiên vàn anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước. Mọi ơn sẽ được Thiên Chúa ban cho sau”

 

  1. Không giống như Tin mừng Mátthêu, kinh Lạy Cha trong Tin mừng Luca ngắn hơn, rõ ràng, bao gồm một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin (Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện):

a/ Đối với Chúa: sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”); sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”). Ta thấy lời kinh ấy bắt đầu bằng cách dành cho Thiên Chúa vị trí riêng rẽ, thích đáng của Người. Thực vậy, ba lời xin đầu là xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chỉ sau đó, lời kinh mới quay qua các nhu cầu và thỉnh cầu của ta. Sai lầm lớn nhất của cầu nguyện là lấy mình làm trung tâm, là đi tìm chính mình.

Cả đời Chúa Giêsu chỉ xoay quanh một nguyên tắc này: “Ta đến để làm theo ý Cha Ta”. Chúng ta hãy thử xem chúng ta có để cho ý Chúa được nên một với chúng ta không? Chúng ta có cố tình lầm lẫn ý của chúng ta thay cho ý Chúa không?

b/ Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày (cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa), được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ. Lời đầu xin cho nhu cầu hiện tại. Lời hai xin vì tội lỗi quá khứ. Lời ba xin cho phúc lợi và phúc lành tương lai. Ba lời cầu xin vắn vỏi ấy đem cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai đặt trước Thiên Chúa. Lương thực cho hiện tại, tha thứ cho quá khứ, và giúp đỡ cho tương lai – trọn cuộc đời trải ra trước nhan thánh Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế. Khi ta cầu xin lương thực hàng ngày, là ta nghĩ đến Thiên Chúa Ngôi Cha, Đấng dựng nên và duy trì mọi sự sống. Khi ta xin tha thứ, là ta nghĩ đến Thiên Chúa Ngôi Con, Đấng cứu rỗi và cứu chuộc toàn thể nhân loại và tất cả chúng ta. Khi ta xin trợ giúp tương lai để sống không tội lỗi, là ta nghĩ đến Thiên Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn, Đấng trợ giúp và Đấng che chở mọi sự sống. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Ba lời xin vắn vỏi ấy đem ta diện đối diện với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Bên trong cái la bàn nhỏ hẹp, và với tính kinh tế ít lời đến ngạc nhiên của chúng, ba lời cầu vắn vỏi này đã đem toàn bộ cuộc đời tới trước Thiên Chúa.

Cuộc sống của người con ở trần gian này là cuộc lữ hành đi về với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con không tìm vinh danh trần thế này, cũng chẳng mong tích lũy của cải chóng qua nhưng là tìm vinh danh Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Do đó, người con không xin sang giàu, cũng chẳng ước ao chức tước trần thế, nhưng xin đủ lương thực hằng ngày để có thể chu toàn bổ phận là con cái của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc.

Kinh Lạy Cha tóm lược rõ ràng những điều cần thiết mà người con phải xin cùng cha, đó là mong cho mọi người khác biết và yêu mến Cha; kế đó là xin cho đời sống vật chất và tinh thần của con được đầy đủ và bình an.

  1. CN để củng cố đức tin

Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy,…

Cầu nguyện Kitô giáo không chỉ là xin ơn mà còn là thờ phượng, chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ, thống hối, cầu xin và hiến dâng. Một thiếu sót khác trong đời sống đức tin của giáo dân Việt Nam là mỗi khi cầu nguyện, chúng ta thường chỉ biết xin Thiên Chúa ban ơn cho mình, chỉ biết xin hết ơn này đến ơn nọ. Thật ra thì trong cầu nguyện có việc xin ơn vì ơn thánh rất cần thiết cho chúng ta. Nhưng cầu nguyện thường được định nghĩa là nói chuyện với Chúa tức là chúng ta nói với Chúa và chúng ta nghe Chúa nói với chúng ta. Như thế cầu nguyện là một cuộc đối thoại, một buổi đàm đạo giữa Chúa và chúng ta. Do đó, nội dung và tâm tình của buổi cầu nguyện không chỉ là xin Chúa ban ơn cho mình, mà còn là chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho chúng ta và cho nhân loại. Cầu nguyện còn là xin Chúa thứ lỗi cho chúng ta vì chúng ta đã không sống như Chúa mong muốn. Cầu nguyện cũng còn là chúng ta quyết tâm thay đổi đời sống của mình, và dâng quyết tâm ấy lên Chúa để xin Người chứng giám và ban ơn phù trợ. Chúng ta tôn thờ Chúa khi đọc, “Lạy Cha chúng con ở trên trời; chúng con nguyện danh Cha cả sáng…” Chúng ta bày tỏ lòng thống hối khi đọc, “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Sau cùng, sự nài van là xin Thiên Chúa những gì chúng ta cần. Vì vậy chúng ta đọc trong kinh Lạy Cha, “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.” Nhưng lạ một điều là Kinh Lạy Cha không có câu cám ơn Chúa rõ ràng. Tôn thờ cũng bao gồm cảm tạ, vì khi tôn thờ chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, che chở, ban ơn… cho chúng ta. Khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.

  1. Chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưng với Chúa Cha bằng đại từ số nhiều chứ không phải số ít: chúng con. Ðiều này cho thấy con người không chỉ có Thiên Chúa là Cha mà còn được mời gọi liên kết với nhau trong mối dây huynh đệ. Ðược ngẩng cao đầu nhìn trời, con người cũng phải vươn cái nhìn của mình để nhận ra hình ảnh của Cha đang ẩn giấu trong những người chung quanh. Khi thưa “Lạy Cha” mỗi người cần phải ý thức rằng “người trong bốn bể đều là anh em”, vì họ cũng là con cái Thiên Chúa. Toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau. Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Tổ phụ Abraham như là lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống cầu nguyện: kiên tâm bền chí, khiêm nhường cậy trông và mở lòng với tha nhân (anh chị em). Thiên Chúa không chỉ là Cha của riêng ta, mà là Cha chung của mọi người, nên chúng ta là anh chị em cùng 1 Cha như tổ phụ Abraham đã cầu nguyện cho Sôđôma và Gômôra. Cầu nguyện là tâm tình giữa cha và con, là lời xin lỗi khi chúng ta không chu toàn bổn phận, là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa để thông cảm với những ưu tư của một người Cha, lúc nào cũng mong muốn tất cả các con cái của mình thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau và tha thứ cho nhau.

Cầu nguyện cá nhân hay cầu nguyện chung với cộng đoàn. Cầu nguyện cho mình và cầu nguyện cho người khác. ông Gióp suốt thời gian bị ma quỷ quấy phá, làm ông quá khổ, những ngày đầu ông còn chịu đựng, vẫn dâng lời tạ ơn: “Chúa đã ban cho Ngài lại lấy đi, xin tạ ơn Chúa” (G 1,21b). Nhưng thời gian sau, vì sự chịu đựng con người có giới hạn, ông lại cất tiếng than: “Tại sao tôi không chết đi vừa lúc chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ” (G 3,11). Sau những ngày dài Chúa huấn luyện ông qua gian khổ, ông biết mở rộng tầm mắt, ông đã biết cầu nguyện cho các bạn hữu của mình, nên được Chúa ban gấp đôi những gì ông đã mất về tài sản, và Chúa cho ông sinh thêm bảy trai ba gái xinh đẹp, khỏe mạnh thông minh hơn trước (x G 42,10t). Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời.

  1. Thường chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào. Chúng ta để cho những giờ phút cầu nguyện qua đi vô ích, ngủ gà ngủ gật hay chỉ biết xin xỏ với Chúa. Hãy bắt chước Mẹ Maria trong kinh Magnificat: nhớ lại những việc Chúa đã làm cho mình và dân tộc mình mà ca tụng ngợi khen Chúa. Nhớ đến những người đã xây dựng nên cuộc sống chúng ta hôm nay: ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thày cô, những người quen biết…. Họ đã có công sinh thành, giáo dục, nuôi nấng, che chở, giúp đỡ ta…. tạ ơn Chúa, cầu nguyện cho họ… Nhớ đến những biến cố xảy đến trong cuộc đời ta: những lần bị bệnh, bị tai nạn, thi đậu, được thăng chức, …., những lần tưởng như đã chết, … tạ ơn chúa. Nhớ đến những việc ta đã làm, những điều tốt, điều xấu,… tạ ơn, xin lỗi Chúa,…. Thiên Chúa không phải là ông chủ giầu có ngồi chờ chúng ta đến xin để phân phát. Hào bao của Thiên Chúa luôn rộng mở. Tùy thuộc chúng ta có xứng đáng lãnh nhận hay không. Nếu tâm hồn của chúng ta không rộng mở thì ơn Chúa không thể tuôn đổ.
  1. Một thách đố lớn đối với đức tin của người tín hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Những con người khốn cùng, đau khổ, dường như Ngài không biết, không thấy; khi con người kêu cầu Ngài dường như Ngài không nghe không đáp lại. Thiên Chúa ở đâu? Ngài có nghe tôi nài xin không? Ngài có thấy nỗi khổ của tôi không? Tin rằng Chúa yêu tôi:  điều đó nhiều khi chẳng dễ dàng chút nào.  Ðau khổ làm chúng ta muốn nổi loạn, chống lại Thiên Chúa.  Chính vì biết rõ thách đố lớn lao đó, Chúa Giê-su không ngừng nhắc đi nhắc lại cho chúng ta cần phải kiên trì cầu xin, không nản lòng thất vọng. Điều bảo đảm lời cầu xin của chúng ta sẽ được Chúa đón nhận đó là bởi vì Ngài chính là Cha nhân từ chắc chắn “sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài.” (Lc 11,13). Thiên Chúa là người Cha tốt lành sẽ ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, đặc biệt Ngài sẽ ban cho chúng ta món quà tuyệt hảo là Thánh Thần, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. “Xin cho Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thiên Chúa là Cha, Ngài khôn ngoan thấu suốt những nhu cầu của chúng ta và sẽ ban cho những gì lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Ðiều cần thiết là phải kiên trì trong niềm tin và xác tín Thiên Chúa yêu thương và ban cho những điều vượt quá sự mong ước của chúng ta.

“Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?”  Ðó là tiếng kêu của Ðức Giêsu trên thập giá.  Tiếng kêu ấy vẫn vang vọng cho đến ngày tận thế.  Cần nhìn ngắm Ðức Giêsu trên thập giá để lấy lại niềm tin, để hiểu được phần nào mầu nhiệm đau khổ. Đức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. “Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?” Như ta, Ngài cũng bước đi trong thử thách nhưng vẫn một niềm tín thác: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.” Cha thương Con, nhưng Cha vẫn thinh lặng, vẫn không cứu Con khỏi chết. Cha muốn Con đi ngang qua con đường mà bao người đã đi và sẽ đi, con đường tối tăm của niềm tin.  Tình yêu của Cha chỉ bừng sáng khi Cha cho Con phục sinh.  Ngài không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều. Cuối đường hầm là ánh sáng.  Phải đi hết đường hầm mới thấy ánh sáng. Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.

Ta cứ xem gương đời sống cầu nguyện của bà Monica cho con là Augustin được theo đạo Công giáo, bà đã cầu nguyện ròng rã suốt 30 năm, đến khi gần chết, bà mới thấy Chúa cho người con được lãnh Phép Rửa! Sau ông Augustin làm Linh mục, rồi Giám mục, cuối cùng trở thành thánh Tiến sĩ của Hội Thánh, và cả người mẹ cũng được phong thánh! Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.

Phải kiên tâm nhẫn nại và chờ đợi, đừng có nản lòng, đừng có nóng nảy bắt Chúa phải nhận lời ngay… Trước hết, chúng ta cần phải xác định rằng sự kiên trì cầu xin không có nghĩa là cứ lải nhãi mãi rồi Chúa cũng sẽ nhận lời, bởi vì Chúa Giêsu có nói, “Khi cầu nguyện, anh chị em đừng lải nhải như dân ngoại, họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời”! (Mt 6:7) Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Đức Giêsu luôn luôn tìm kiếm thánh ý của Chúa Cha và thi hành, do đó Đức Giêsu đã đưa lời cầu xin này vào kinh Lậy Cha, “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”

Chúng ta cũng đừng quên rằng: có nhiều khi chúng ta xin Chúa ơn này thì Người lại không ban cho chúng ta ơn ấy, nhưng lại ban cho chúng ta ơn khác, còn lớn lao cao trọng hơn ơn chúng ta ước ao cầu xin bội phần. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả, nên Người biết chúng ta cần gì, thiếu gì, biết ơn nào ích lợi cho chúng ta hơn. Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương. Chúng ta chỉ cần vững lòng tin vào Người, kiên nhẫn chờ đợi và thanh luyện động cơ trong đời sống cầu nguyện của chúng ta.

  1. Khởi đi từ hình ảnh của người cha trần thế, Ngài cho ta thấy hình ảnh Cha trên trời. Người Cha trần thế, tuy bất toàn, nhưng vẫn cho con mình “những điều tốt lành” như cá và trứng, và không cho con mình những gì nguy hiểm như rắn hay bọ cạp. Cha trên trời còn nhân hậu hơn vạn bội. Ngài chỉ ban cho chúng ta những điều tốt lành (Mt 7,11).  Ðiều tốt hơn cả là Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống. Tại sao ta xin ơn này ơn kia mà lại chỉ được Thánh Thần? Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi cách nghĩ, cách sống của chúng ta, giúp chúng ta biết lựa chọn và dâng lên những ước nguyện phù hợp với ý định của Thiên Chúa, và nhận ra tất cả những gì ta đang có từ bát cơm, tấm áo đến cây viết, quyển tập… đều là quí báu vì do Cha ban tặng, để rồi biết sống hoàn toàn phó thác theo thánh ý Người. “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Đó là lý do Đức Giêsu nói: “Chúa sẽ ban Thánh Thần cho những ai hằng kêu xin Người” (Lc 11,13).

Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Abba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,14-17).

  1. Như chúng con cũng tha… Cha trên trời sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho những ai biết sám hối và xin Chúa thương xót. Nhưng Ngài dứt khoát không tha một lỗi nào (đồng xu: x. Mt 5,26) cho kẻ không biết tha thứ cho đồng loại! (x. Lc 11,4). Mà kẻ không được Cha tha tội, thì họ không thể được ơn cứu độ. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho ta, sổ nợ mà các Giới Luật xưa chống lại chúng ta. Người hủy bỏ nó đi bằng cách đóng đinh vào thập gia. Ơn này ta được lãnh nhận từ khi lãnh Bí tích Thánh Tẩy là ta đã được cùng mai táng với Đức Kitô. Trước kia ta là kẻ đáng chết vì tội sa ngã, nhưng nay Thiên Chúa đã cho ta cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2,12-14 : Bài đọc II). Khi không tha thứ cho người khác, tâm hồn chúng ta chứa đầy ghen ghét, hận thù thì chúng ta không thể cầu nguyện với Thiên Chúa được.

CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN C (x. CN 28 năm B; 19, 33 năm C)

Nếu đêm nay Ta đòi lại mạng ngươi…

Bài đọc 1: Gv 1,2; 2,21-23. “Tất cả chỉ là phù vân”. Ông Co-he-lét nói:” Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân…” Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. Chuyện gì sẽ xảy ra cho con người qua bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời? Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!

Bài đọc 2: Cl 3, 1-5. 9-11. Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã đoạn tuyệt với con người cũ, nô lệ của tội lỗi, để sống một cuộc đời của con người mới: Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Thuộc về thượng giới là không còn lòng tham lam của cải ở đời, nhưng có lòng khát khao những điều thiện hảo, không tham lam những gì chóng vánh tiêu tan, nhưng khát khao những gì là bền vững, vĩnh cửu.

Bài TIN MỪNG. Lc 12, 13-21.

  1. “Tất cả chỉ là phù vân”. Ý thức được điều này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Rồi đến lượt Đức Giê-su khuyên chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12, 15).

Nhạc sỹ Lê Dinh đã viết trong bài ” Trở Về Cát Bụi” như sau: Sống trên đời này người giàu sang cũng như người nghèo khó. Trời đã ban cho ta cám ơn trời dù sống thương đau. Mai kia mốt nọ, trở về cát bụi giàu khó như nhau. Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao. Sống trên đời này tựa phù du có đây rồi lại mất. Cuộc sống mong manh xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen. Nào người sang giàu đừng vì tham tiền bỏ nghĩa anh em.
Người ơi nên nhớ cát bụi là ta mai này chóng phai. Người nhớ cho, ta là cát bụi trở về cát bụi. Xin người nhớ cho.

“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, / Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười…” (Nguyễn Công Trứ). Vậy mà của phù vân có sức mạnh kinh khủng đến độ con người ta phải làm nô lệ cho nó cho tới chết.

  1. Có sự mâu thuẫn giữa Lời khuyên của Chúa Giêsu và cuộc sống thực tế cần vật chất của chúng ta?”… Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè… Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó… Tóm lại câu nói “có tiền mua tiên cũng được” có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, đương nhiên phải có tiền để sống, nhưng phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc của cải. Con người đây là chính nhân vị của mình, tha nhân và Thiên Chúa nữa. Tiền bạc rồi sẽ hết. chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với anh chị em chúng ta nơi trần thế này để trở nên “giầu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16,26).

Vì khi chết, của cải cả đời tích lũy phải để lại cho người khác còn bản thân lại chẳng có gì mang theo. Tiền bạc không thể kéo dài sự sống cho dù nhờ có tiền. Vì tới giờ Chúa gọi thì làm sao trì hoãn được. Tiền bạc vật chất tự nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là phương tiện mà thôi. Nếu không biết khôn ngoan sử dụng thì ta sẽ trở thành nô lệ cho nó, đó chính là sự khờ dại. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là một sự cho đi, quảng đại, chia sẻ của cải tiền bạc của mình cho anh chị em còn nghèo khổ ở chung quanh. Chỉ có lòng nhân ái tồn tại và theo ta tới cuộc sống mai sau. Đây mới chính là của cải đích thực mà mỗi Kitô hữu cần phải tích lũy và làm giàu. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan, biết sử dụng đồng tiền để mưu cầu hạnh phúc cho mình và tha nhân. “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1Ga 3,17). “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ, hãy đi bình an mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì?’’(Gc 2:15-16)

  1. Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam (Lc 12, 15a). Tham lam là vơ vét, tích lũy của cải về chỉ cho riêng mình, cho đất nuớc và dân tộc mình. Hãy tạo cho mọi người được quyền hưởng lợi từ quả đất là mái nhà chung. Khi từ chối xét xử việc phân chia gia tài, Chúa Giêsu khẳng định: chính bởi lòng tham mà có sự chia rẽ, nếu hai anh em nhà kia thực lòng yêu thương nhau, không tham lam của cải thì đâu đến nỗi phải tranh giành, nhờ đến người khác phân xử. Cuộc sống thực tế hôm nay cũng vậy nhiều gia đình ly tán, con cái bất hiếu từ bỏ cha mẹ, anh chị em chia rẽ bất hòa chỉ vì lòng tham một vài tấc đất, một ít gia tài của cha mẹ… là nguyên nhân đưa đến sự mê muội trong đời sống tâm linh, khiến cho con người không còn khả năng nhận định đâu mới là điều bảo đảm cho cuộc sống.

Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội. Người ta vì tham tiền mà phản bội nhau, lừa dối nhau và giết hại lẫn nhau. Vì tiền mà con người đánh mất tình người và đôi khi đánh mất chính bản thân mình đến nỗi vì tiền mà sống hèn hạ, mất danh dự nhân phẩm của một con người. “Nhưng cội rễ sinh ra mọi điều ác lại chính là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10).

Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù qaung, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả chính đời sống nữa.

  1. Những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Chúa cũng biết tiền bạc vật chất đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói “ Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào Nước Thiên Chúa (Mt 19,24 ). “Trước hết hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Chúa sẽ thêm cho”. “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh chê chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được’’(Lc 16,13) “Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó”.
  2. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi quá mức trên sức lao động của kẻ khác.Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như ném tiền qua cửa sổ.Thánh Basilio không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.

 

CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN C (x. CN 33 năm B; 18, 33 năm C)

Hãy tỉnh thức

Kn 18,6-9: Việc được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập luôn là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do Thái mọi thời và mọi nơi. Trong đoạn trích này, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy luôn sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách luôn tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.

Dt 11,1-2.8-19: Tác giả thư Do Thái ca tụng đức tin của tổ phụ Abraham: do tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê hương xứ sở ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu; do đức tin, ông đã dám đem đứa con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già để giết làm lễ vật dâng lên cho Chúa.

 

Tin Mừng (Lc 12, 32-48) Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức.

  1. Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức: Tỉnh thức để làm gì?

a/ Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở Do Thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy. Thật ra, Chúa không đến bất ngờ. Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức. Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này. Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
– Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.

“Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng”. Thắt lưng cho gọn, động tác của một người luôn biết sẵn sàng, biết chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết và gọn gàng để bất cứ lúc nào, cũng sẵn sàng theo lệnh xuất phát. Không cồng kềnh, rườm rà, xa tránh những đam mê thấp hèn, con người chúng ta dễ sống thanh thoát và trở thành con người tự do. Thắp đèn cho sáng, cũng còn là người sống “thanh liêm và thực thi công chính, trong lòng chỉ nghĩ đến điều ngay và không không vướng bận những điều gian dối”.

b/ Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người ấy sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm, rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.

Mỗi người chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao…  Mỗi người có một số tài sản được Chúa giao quản lý: tài sản ấy là đoàn chiên đối với các chủ chiên, là con cái đối với những người làm cha mẹ, là học trò đối với những người làm thầy cô giáo, là bệnh nhân đối với các bác sĩ…. Tài sản ấy còn là thân xác, sự sống, khả năng, tiền bạc, sự nghiệp của mỗi người mà Chúa đã ban tặng để quản lý và làm cho sinh lợi hoa trái. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc?… Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh… cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngông ngữ Trịnh Công Sơn, tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.

 Con chim ở trọ cành tre,

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…

Môi xinh ở trọ người xinh,

Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…

Tôi nay ở trọ trần gian

Mai sau về chốn xa xăm với Người.

Khi Chúa đến, hẳn là mỗi người sẽ phải trả lời về tài sản mà Chúa giao đã sinh lợi như thế nào, hẳn là Chúa sẽ không hỏi về những tài sản mà Chúa không giao phó. Chu toàn bổn phận Chúa giao phó vừa là tỉnh thức vừa là một lẽ công bằng đối với hồng ân Chúa ban. “Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn”. (Lc 12, 48) Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.

Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú. Là người quản lý, đầy tớ, chúng ta đón chờ Đức Giêsu trở lại, đồng thời phục vụ tức là chia sẻ cơm áo cho những người nghèo: ai cho người nghèo khổ, bé mọn dù chỉ một ly nước, là làm cho chính Chúa… Bán tài sản để bố thí (phần đầu bài TM): Ý muốn của Thiên Chúa là ta phải yêu thương (x. Rm 13,8-10).  Ai yêu thương, người đó tỉnh thức.  Cách tốt nhất để tỉnh thức là biết yêu thương và cho đi. Chúng ta hãy đọc chính Lời Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay: “Hỡi các con yêu quý, các con đừng sợ! Cha các con luôn vui lòng ban Nước Trời cho chúng con. Hãy ‘bán đi’ những của cải mình có mà làm việc từ thiện. Hãy sắm sẵn những ‘túi tiền’ không bao giờ hư nát, một ‘kho tàng’ không bao giờ hao mòn ở trên trời….

Đầy tớ thất trung đã lạm quyền và cậy thế, thay vì trong vai trò là người quản gia thì đã hành xử với các người khác như là một ông chủ. Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Quyền bính là phương tiện để phục vụ tha nhân. Người ta có thể lạm dụng quyền bính để phục vụ bản thân và làm khổ kẻ khác như tên quản lý trong bài Tin mừng đã “Đánh đập tôi trai tớ gái”, “chè chén say sưa” vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về. Người quản lý sẽ bị phạt nặng hơn vì đã biết ý Chúa mà còn cố tình bỏ việc bổn phận của mình.

  1. Nếu Chúa gọi chúng ta ngay hôm nay thì chắc chúng ta không kịp chuẩn bị, và do đó số phận đời đời của chúng ta rất đáng sợ. Chúa đến bất ngờ hay không là do lối sống của chúng ta. Không tỉnh thức, chúng ta có thể đánh mất sự sống đời đời.

Tuần trước Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15). Vì con người chúng ta thường dễ bị cám dỗ để gắn bó quá nhiều với những gì thuộc thế giới này – vào của cải vật chất. Cũng trong những lời nhắc nhở đó, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy sống thức tỉnh như thái độ của người đầy tớ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón chủ đi ăn cưới về.

Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta. “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” (Lc 12,35): Hãy sống trong ơn nghĩa Chúa, sống trong tình trạng ân sủng.

Đặc biệt hơn nữa, Chúa Giêsu đã cảnh giác những người có đức tin nếu họ cứ bám víu lấy đời này. Với những người có đức tin, Chúa nói, “Tôi tớ nào đã biết ý của chủ mà không chuẩn bị hoặc không làm theo ý của chủ thì họ sẽ bị đánh đòn nhiều.” Và với những người không có đức tin, Chúa nói, “Còn tôi tớ nào làm những chuyện đáng bị phạt nặng nhưng không biết ý của chủ thì sẽ bị đòn ít.” Nếu đã biết lời Chúa cảnh giác mà chúng ta không chịu nghe, cứ bám víu vào của cải, danh vọng, quyền thế ở đời này thì chúng ta lại càng tuyệt vọng khi đối diện với sự chết.

  1. Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai… Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát. Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra như các vụ khủng bố, tàn sát tập thể, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt, sóng thần, đất động. Người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do. Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian. Nhưng thử hỏi: “Rời thế gian để đi đâu?” Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm? Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác? Hay chết là hết? Nếu chết là tận tuyệt thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái? Nếu chết là hết thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật cho vất vả?

Con người luôn biết lo xa, chuẩn bị cho cuộc sống của mình…, vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời? Chuẩn bị sẵn sàng là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận. Ai cũng sợ chết, nhưng không mấy người sợ phải chết đời đời. Con người nhiều khi dám đánh đổi cả mạng sống mình vì tiền nhưng họ lại ngại hy sinh, ngại tích đức cho đời sau!

Thiên Chúa như một ông chủ đã sắm sẵn cho chúng ta, những tôi tớ Người, một gia sản rất lớn mua bằng giá Máu Cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô: “Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta sẽ hưởng gia tài đó hay sẽ bị mất: điều đó sẽ được định đoạt dứt khoát vào giờ chúng ta chết. Sự định đoạt này lại hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống lành thánh hay bê tha của chúng ta hãy lo làm việc lành phúc đức: hãy lo sắm cho mình những kho tàng trên trời”, “hãy lo thắt lưng” hãy biết hy sinh chịu khó tuân giữ luật Chúa, “hãy cầm đèn sáng”, hãy giơ cao ngọn nến Đức Tin ấy chiếu sáng và chỉ lối cho mọi hành động của cuộc sống. Sau hết, điều quan trọng nhất là hãy cứ sống như vậy trong tư thế sẵn sàng “chờ ngày Chúa đến” vì: “phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức… chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình” (Lc 12, 36-44). Tỉnh táo đề phòng trong tư thế sẵn sàng. Thiếu tỉnh thức con người có thể bị mê hoặc bởi các thú vui trần thế mà quên đi nhiệm vụ, ích kỷ,… Hãy tỉnh thức cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ vì hồn thì sẵn sàng nhưng xác thì yếu đuối. Kẻ biết chuẩn bị cho đời sau thì sẽ chuẩn bị ngay từ bây giờ. Còn kẻ không chuẩn bị bây giờ thì dù họ có sống hết cả trăm năm, cuối cùng đến lúc chết họ cũng chưa hề chuẩn bị. Và như thế thì thật là… bất hạnh! Chúng ta thường muốn làm vui lòng những ông chủ trần gian, tại sao chúng ta không cố gắng để làm vui lòng ông chủ thật là Thiên Chúa? Chúng ta thường canh giữ cẩn mật không để thất thoát những đồ vật xem ra quý giá hay tiền bạc dù những thứ đó chỉ là tạm bợ, mà lại dửng dưng với mạng sống thật, đó là linh hồn (x. Mc 8,36)? Chúng ta thường cố gắng chu toàn bổn phận nhiệm vụ trần thế, tại sao chúng ta không cố gắng chu toàn bổn phận công dân Nước Trời?

  1. Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Cuộc hành trình của Abraham là một cuộc hành trình đức tin (Dt 11,12-16). Giống như Abraham, cuộc đời của chúng ta cũng là một cuộc hành trình của niềm tin đi về Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa hôm nay: “Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12, 32). Ngài đòi hỏi chúng ta phải tin, phải lên đường ngay. Phải có đối tượng và mục đích rõ ràng. Phải dự trù hành trang cần thiết cho cuộc hành trình dài.
  1. Với Chúa Giêsu, mục đích đời người là gia nhập Nước Thiên Chúa, để được đồng bàn cùng Thiên Chúa và được Thiên Chúa phục vụ: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” (c.37). Ðó là hình ảnh Nước Thiên Chúa, tức là: được ở bên Chúa, được ngồi ăn với Người. Ông chủ mà lại phục vụ đầy tớ ư? Chuyện thật khó tin nhưng đã xảy ra, bởi chính Ông Chủ ấy đã từng quỳ xuống rửa chân cho đầy tớ, đã từng phục vụ và hiến dâng cả mạng sống làm giá chuộc muôn người. Mục đích đời sống chúng ta là được ở trong vương quốc của Thiên Chúa, được kết hợp với Thiên Chúa ở đời sau. Cuộc sống đời này là để chuẩn bị cho đời sau, và người tín hữu Kitô phải thấy rằng thật hạnh phúc dường nào khi chúng ta theo Chúa Kitô, bởi vì, chúng ta sẽ không còn sợ hãi khi bước qua ngưỡng cửa sự chết, vì Người mà chúng ta sẽ gặp sau cánh cửa sự chết ấy cũng chính là Người mà chúng ta từng gặp gỡ ngay tự bây giờ-nếu chúng ta muốn. Đây là một đặc điểm vô cùng an ủi của Kitô Giáo mà không tìm thấy ở các tôn giáo khác. Người mà chúng ta gặp gỡ bây giờ cũng chính là Người mà chúng ta sẽ gặp ở đời sau. Chúa Kitô mà chúng ta gặp gỡ trong bẩy bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, cũng chính là Người phán xét chúng ta sau khi chết. Bài phúc âm hôm nay phải là một tin vui cho chúng ta, những người theo Chúa Kitô, vì chúng ta đã được chuẩn bị từ lâu để đối diện với sự chết. Qua các bí tích, chúng ta đã từng gặp gỡ với Chủ Nhân của sự sống, đã từng được tâm sự với Người mỗi khi rước Thánh Thể, bởi đó, sau khi chết, chúng ta sẽ vui mừng, không phải vì nơi chốn chúng ta đến là nơi thanh bình, hạnh phúc, nhưng vì Người mà chúng ta sẽ gặp lại đó là Chúa Giêsu Kitô, một Người Bạn và cũng là người Cha nhân từ của chúng ta.

Chúng ta ý thức cuộc sống là một hồng ân Chúa ban, nên nó thật quí giá, thật đáng sống. Vì thế chúng ta sống và hưởng dùng như một người quản lý trung tín và khôn ngoan. Chúng ta sống trọn ý nghĩa đời này là một con người, con người Kitô hữu có niềm tin và hy vọng. Người Ki-tô hữu tỉnh thức không phải chỉ để đợi chờ Thiên Chúa vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng là nhận ra Người vẫn đang đến, vẫn hoạt động, vẫn cứu độ trong từng giây phút, từng biến cố. Người Ki-tô hữu tỉnh thức là người đọc được ý nghĩa của biến cố, của sự việc; họ coi đó là những dấu chỉ về sự hiện diện sâu xa của Thiên Chúa. Đối với người không tỉnh thức, thì sự xuất hiện của Người thật là bất ngờ, và cũng thật đáng sợ. Còn đối với chúng ta, những người “cầm đèn sáng trong tay”, thì sự xuất hiện của Người là một niềm vui mừng lớn lao, vì chúng ta vẫn chờ đợi, và Người chính là kho tàng của chúng ta, chúng ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để có được sự hiện diện của Người.

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN C

Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất. Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình… sự chia rẽ

Bài đọc I (Gr 38, 4-6. 8-10) Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục phạm tội và cậy vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia vạch rõ những sai lầm ấy và đe dọa rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày. Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu. Nhưng Chúa đã cho người cứu ông lên.

Bài đọc II (Dt 12, 1-4) Hoàn cảnh: Các kitô hữu gốc Do Thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do Thái cũ thù ghét vì coi họ là những người phản đạo. Mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma. Tác giả thư Do Thái đã nêu gương Chúa Giêsu để an ủi và khuyến khích họ: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu. Ngài cũng gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.

Tin Mừng (Lc 12, 49-53)

  1. Đoạn này có hai ý:

a/ Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):

– “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.

– “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10,38). Vậy phép rửa nói đây cũng như chén Thầy sắp uống là kiểu nói bóng để chỉ biến cố Đức Giêsu chìm ngập hoàn toàn trong đau khổ mà chính Người khắc khoải muốn hoàn tất ở cuối cuộc hành trình lên Giêrusalem. Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Lòng Chúa Giêsu cũng khắc khoải, cũng nôn nóng, cũng bồn chồn khi chương trình cứu độ thế gian chưa đến giờ đã định. Có nghĩa là Thánh Tâm Chúa Giêsu hằng khát khao ước ao cứu rỗi các linh hồn.

Đó là phép rửa bằng máu và nước từ trái tim của Ngài.  Chính vì tình yêu kể trên mà Ngài can tâm chịu nạn chịu chết trên thánh giá để chuộc tội cho chúng ta.  Chỉ vì mục đích này mà Ngài khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất! 

Phép rửa thì phải có nước, nước ở phép rửa mà Đức Giê-su sắp phải chịu chính là Máu Người đổ ra rửa sạch tội lỗi cho nhân loại. Như vậy thì cùng lúc Đức Giê-su dạy cả về Lửa và Nước (là 2 trong số 8 biểu tượng Chúa Thánh Thần: “Nước, Xức dầu, Lửa, Áng mây và Ánh sáng, Ấn tín, Bàn tay, Ngón tay, Chim bồ câu” – x. Giáo lý HTCG, từ điều 694 đến 701).

b/ Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (John 14:27). Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).

  1. Người là Vua Bình An, bình an mà Người đem đến là bình an thật sự, bình an trên hết tất cả mọi bình an chúng ta có thể quan niệm được. Vì ở thế gian, những người bất chính cũng có thể chung sống với nhau, những người trộm cướp, họ cũng có thể đoàn kết với nhau. Còn đối với Chúa, theo Chúa thì phải chống lại bất công, chống lại sự giả hình, chống lại những điều xấu xa. Và khi chống lại những điều xấu này, chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ. … Cả trong gia đình cũng vậy, nếu 1 gia đình nào đó làm ăn bất chính mà có 1 người chống lại, chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ, và có khi cha mẹ chống lại con cái, anh em chống lại nhau.

Tục ngữ Việt Nam đã nói: “Sự Thật thì bao giờ cũng mất lòng”. Bài đọc 1: Gr 38,4-6.8-10: Vì trung thành với sứ mạng truyền đạt Lời Chúa mà ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân chúng đối xử tệ bạc. Ông đã lên án cách sống bất công, giả hình, vạch trần các thói hư nết xấu của dân chúng, sự lật lọng giả hình của hàng tư tế, thói bội phản thất ước của hạng quan quyền … Bởi đó, người ta tìm cách ném ông xuống một giếng bùn cho lún sâu đến chết, hầu không còn tuyên sấm những lời của Thiên Chúa nữa.  Chúa Giêsu cũng vậy. Lời ông Simêon nơi Đền thờ đã được xác nhận: “Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người té nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối” (Lc 2:34).

Chính Chúa Giêsu cũng đã nói lên sự thật và đã làm mất lòng các tư tế, kinh sư, biệt phái của đạo Do thái. Ngài đã lên án họ là kiêu căng tự phụ, giả hình, giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ còn bên trong thì thối tha. Chính vì vậy mà họ tìm cách giết Ngài. Chúa Kitô còn chấp nhận chính cái chết, một cái chết nhục nhã nhất để làm chứng cho Sự Thật. Vì chính Ngài cũng là Sự Sống và là Đường cho chúng ta nối gót theo Ngài.

Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta cũng đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Các Tông đồ và những Ki-tô hữu tiên khởi theo Chúa cũng bị vua chúa quan quyền và những người đồng hương bách hại. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Ngày nay cũng vậy, nhất là trong những nước Hồi giáo, nếu một người cải đạo sang Kito giáo,…. Ngay trong một gia đình công giáo cũng thế, ….. Khi người Kitô hữu muốn cải cách Giáo hội, muốn đem lửa Kitô giáo làm bừng cháy trong lòng thế giới (Lc 12:49), tẩy chay và chống đối sẽ đến ngay cả trong lòng Giáo hội. Ðó là trường hợp thánh Têrêsa thành Avila, thánh Jean d’Arc, thánh I-nha-xi-ô đã bị lên án và chống đối chỉ vì chỉ muốn cải cách Giáo hội. Nếu trong gia đình bạn, chỉ có một mình bạn là người tin vào Chúa Giê-su, chắc chắn bạn sẽ bị đối xử cách thiên vị hơn, và bạn sẽ thấy mình bị cô lập.

Sự Thật thì muôn đời vẫn chiến thắng và tồn tại, còn sự gian trá hay những tay sai của sự gian trá chống lại sự thật… thì dù có quyền phép có khôn ngoan như Luccifer, như Lênin, như Hitler… cũng rất chóng bị tan rã.

Trong một gia đình, cộng đoàn, hay dân tộc, sẽ có người tin nhận và có người chống cự, có người tìm được bình an đích thực, nhưng cũng có người tự ru mình bằng thứ bình an giả tạo. Bình an là nỗi khát khao trầm lặng của nhiều tâm hồn. Nhưng để có bình an đích thật lắm khi tôi phải trả giá bằng chiến đấu và hy sinh. Đây là một trong những điểm “nghịch lý” của Tin Mừng, nơi mà người ta thường bắt gặp những giá trị “trái ngược” như: cho chính là nhận, thu tích là mất đi, ai tìm sự sống sẽ phải chết, ai đành chết thì lại có sự sống…

Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ mà Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.

Theo tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải sống cao thượng, anh hùng… nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách. Trước sự đòi hỏi của Đức Giê-su, của tiếng lương tâm, con người sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại, gây chia rẽ…

Sự chia rẽ và xung đột bắt đầu bên trong chúng ta. Phaolo đã minh họa điều này cách rất kỳ lạ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt; đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Galatians 5:17). Sự xâu xé trong tâm hồn luôn có đó khi chúng ta phải chọn lựa giữa điều lành và điều dữ, giữa một điều tốt và một điều tốt hơn, giữa hạnh phúc nhất thời và hạnh phúc vĩnh cửu. Bị giằng co, bị xâu xé là một lẽ rất tự nhiên vì điều tốt hơn chưa thực sự ở trong tầm tay và hạnh phúc vĩnh cửu vẫn đang còn ở phía chân trời xa. Đây chính là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn đề cập.

Chiến đấu đem bình an cho đồng loại chưa đủ, còn phải chiến đấu đem bình an cho bản thân mình mới cam go! “Điều tôi muốn, tôi không thi hành, chính tôi lại làm điều tôi ghét! Tôi biết rằng: trong xác thịt tôi chẳng có sự lành cư ngụ: muốn thì vừa tầm cho tôi, mà làm ra sự thiện thì không” (x Rm 7,15.18-19).

Ánh lửa xóa tan bóng tối và bóng tối không chấp nhận ánh sáng; và từ đó, đã phát sinh một cuộc chiến đấu giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa Thiên Chúa và Satan, và cũng từ đó, đã nẩy sinh chia rẽ.

  1. Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất. Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng. Ðức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Ðừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra. “Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
    Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp,
    đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau. Đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu…

Nói đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Trong Cựu ước, lửa được dùng để chỉ Thiên Chúa hiện diện, chỉ sự tinh luyện xấu xa tội lỗi, và cũng ám chỉ hình phạt của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ đó là tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài đối với loài người là ngọn lửa không bao giờ tắt, như trong kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu có câu: “Trái Tim Đức Chúa Giêsu là lò lửa yêu mến hằng cháy”. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đem lửa tình yêu xuống thế gian.

Lửa ấy còn là một thứ lửa của Thánh Thần, một thứ lửa chân thật, nhưng đồng thời thiêu đốt mọi sự dối trá của thế gian, vì thế gian không có thứ lửa ấy. Ném lửa vào thế gian không phải để hủy diệt thế gian, mà để thánh hóa thế gian. Như vậy, lửa mà Chúa Giêsu nói đến ở đây chính là muối để ướp thế gian. Có nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa cảm hóa thế gian, thanh tẩy thế gian. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Ánh lửa thiêng ấy phải thay đổi, biến chúng ta trở thành các chứng nhân của Tin Mừng. Trong đêm thánh vọng Phục sinh, lửa mới được làm phép và thắp vào cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Ngọn Lửa của Thánh Thần soi dẫn con người tìm gặp Thiên Chúa. Lửa ấy sưởi ấm lòng con người khi con tim đã bị giá lạnh, vô cảm hay chai sạn, đóng băng trước người khác, nhất là những con người bất hạnh, những hòan cảnh thương tâm đang diễn ra trong cuộc đời. Lửa ấy cần được con góp sức cho cháy bùng lên, cho hơi ấm tỏa lan, cho ánh sáng chiếu rọi, cho sáng ngọn đèn soi bước, hầu con người nhận ra Chúa hiện diện trên trái đất này. 

Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh.

Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.

Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân nhất của mình cản trở, như trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Ngài dám từ bỏ đời sống giàu sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và phục vụ những người khốn khổ. Ngài đã bị chính cha mẹ mình cản trở. Cản không được, hai ông bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà. Và còn nhiều… còn nhiều lắm các mẫu gương hào hùng của những con người đang tiếp nối việc thực hiện nỗi mong của Chúa Giêsu.

Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ. Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn. Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”. (TP) Để cho “Tình thương của Chúa chan hòa mặt đất” (Tv 33/32,5b).

Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi. Là người Kitô hữu, tôi cũng được mời gọi dấn bước không ngừng trên hành trình loan báo các giá trị Tin mừng, để lửa yêu thương và bình an được bừng sáng khắp nơi trên thế trần.

  1. Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Thực tế, có biết bao chân lý của Tin mừng đã không được nói ra vì sợ gia đình bất thuận, có bao sự thoả hiệp nghịch luân đã không được nhắc tới vì sợ cộng đoàn bớt người, và có biết bao nhập nhằng tội lỗi xấu xa vì sợ phải mang một vết thương rướm máu trong tâm hồn. Tất cả đều là những nguỵ trang giả dối và bình an trá hình. Bình an thật sự chỉ có được khi con người biết “đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu” và “nêu cao những liên lạc mật thiết mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa”.

Một thứ hoà bình dựa trên những giả dối và bất công được thoả thuận với nhau chỉ là thứ hòa bình dỏm. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để mang lại thứ hoà bình dỏm này. Thứ hoà bình thật Chúa Giêsu mang đến là thứ hòa bình mà trong đó sự thật được tôn trọng, mọi quyền lợi của con người được tôn trọng. Những người cố gắng xây dựng nền hòa bình của Thiên Chúa có thể bị người đời cho là những kẻ quấy rối, nhưng họ được Thiên Chúa gọi là “Con” của Ngài: Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Người yêu thương an ủi những số phận nghèo hèn, nhưng không khoan nhượng não trạng pharisêu, kinh sư, tư tế. Gọi họ là xương thối, mồ mả tô vôi, giả hình, kẻ dẫn đường mù quáng, và họ đã trả đũa gọi ngài là tay bợm nhậu, lê la với phường tội lỗi, phá huỷ lề luật, người bị quỷ ám, quấy rối trị an …

  1. Sứ mạng ngôn sứ. Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa. Mà lời Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thuận tai loài người. Cho nên ngôn sứ thường bị coi là những người quấy rối, và bị ghét bỏ. “Xin hãy giết con người ấy đi, vì… con người ấy chẳng mưu cầu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa”. (Gr 38,4). Nhưng kitô hữu chúng ta có sứ mạng ngôn sứ. Chúng ta có sứ mạng nói lên sự thật để vạch trần sự gian dối; chúng ta có sứ mạng đòi hỏi công bình mỗi khi gặp bất công. Kinh nghiệm cho thấy không có gì khiến người ta khó chịu cho bằng đòi hỏi sự thật và công bình. Vì thế sứ mạng của kitô hữu càng khó khăn hơn. Trước chúng ta, đã có nhiều kitô hữu can đảm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: Martin Luther King rao giảng cho hòa bình và cho quyền tự do của người da đen. Ông đã bị ám sát chết. Đức Giám mục Helder Camara tranh đấu cho người nghèo và cũng bị bắn gục. Xã hội ngày nay có nhiều điều xấu, và những điều xấu ấy vẫn tồn tại lâu dài. Phải chăng vì Kitô hữu đã bỏ quên hay đã hèn nhát không thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình?
  1. Chấp nhận bị ghét

Lòng ganh ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà v. v. Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyến cáo các kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị ghét bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…”Đó là những sự ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin Mừng của mình.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN C

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào- Ta không biết các anh từ đâu đến

Bài đọc I (Is 66, 18-21) Đây là đoạn kết của sách Isaia, qua đó Thiên Chúa tỏ cho biết giai đoạn cuối của chương trình cứu độ của Ngài là tất cả mọi dân tộc (chứ không riêng gì dân do thái) sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Dân Do Thái nghĩ rằng ơn cứu rỗi được dành riêng cho dân tộc họ mà thôi.

Bài đọc II (Dt 12, 5-7. 11-13) Đoạn thư Do Thái này bàn đến những gian truân khốn khó. Như chúng ta đã biết, các kitô hữu gốc Do Thái phải chịu nhiều khốn khó từ phía đế quốc Rôma lẫn phía Do thái giáo. Tác giả cho họ biết rằng những gian nan khốn khó đó là những việc Chúa cho phép xảy ra để thử thách và sửa dạy họ. Mà Chúa thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế, họ đừng ngả lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng. Chúa sửa dậy chúng ta qua những đau khổ chúng ta gặp trong suốt cuộc đời

Tin Mừng (Lc 13, 22-30)

  1. Thời Chúa Giêsu nhiều người Do Thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?” thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “Phải” để xác nhận quan điểm của họ. Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được cứu độ thì người ta sẽ sống buông thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ thì người ta sẽ thất vọng buông xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái thôi.

“Ai sẽ được cứu rỗi?” Thưa: tất cả mọi người: “Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc sẽ đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Vì thế, đừng ai nghĩ rằng bởi vì mình thuộc thành phần ưu tiên nên chắc chắn sẽ được cứu rỗi, bởi vì rất có thể khi đó họ phải ngỡ ngàng nghe Chúa nói “Ta không biết các ngươi từ đâu tới. Hãy cút đi cho khỏi mắt Ta”.

  1. “Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?” Thưa “hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”. “Qua cửa hẹp” nghĩa là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho chúng ta thấy chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách. Thánh Phaolô khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
  1. Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do Thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo Lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo Lời Chúa. Chúa còn nói:”Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do Thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo Lời Chúa.

Như thế, Chúa Giêsu không hề có chế độ ưu đãi nào trong việc tham dự bàn tiệc Cánh chung. Con đường hẹp và đàng sau đó là phòng tiệc cánh chung không dành cho những ai “hữu danh vô thực”. Tức là không phải cứ mang danh Kytô hữu, là con cháu Apraham thì đương nhiên được chủ nhà Giêsu mở cửa mời vào. Cuối con đường hẹp là căn phòng dự tiệc nước Thiên Chúa chỉ mời đón những ai biết đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và đem ra thực hành, những con người không ngừng hoán cải, không ngừng cải thiện đời sống mình theo gương Thầy Chí Thánh. Không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng, v.v. thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo Lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo Lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy.

Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, cho dù người đó chưa nhận biết Ngài. Bàn tiệc của Thiên Chúa là bàn tiệc mở ra cho muôn dân, nghĩa là nước trời được mở ra đón nhận mọi người. Chúa đến trần gian, chịu nạn chịu chết cho mọi người, cứu chuộc mọi người, chứ không phải chỉ một số người nào thôi. Trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù… Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên.

  1. “Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi quân làm điều gian ác”. Lời chối từ thật nặng nề, nếu không muốn nói là sự “tủi nhục” cho những người “đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên đường phố của chúng tôi”. Thực chất của vấn đề chính là “họ chỉ thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta”, hoặc họ chỉ là “chiếc mồ bên ngoài tô vôi trét phấn, nhưng bên trong chỉ là xương xẩu thối tha”. Lời xua đuổi thật thê thảm, khi chúng ta trở thành kẻ xa lạ, mặc dầu bề ngoài chúng ta xem ra thật đạo đức, “con nhà nòi, đạo gốc!”, hoặc trên thân mình đeo đầy thánh gía. Đừng nghĩ rằng chỉ với dáng vẻ bên ngoài, chỉ với những mẫu mã “bắt mắt và sành điệu” mà chúng ta qua được mắt Chúa. Ngài chẳng nhìn, chẳng xét chúng ta qua những cái bề ngoài. Ngài thấu rõ và nhìn thấy chúng ta tận tâm can, để phán xử, để chia tách chúng ta ra khỏi đàn chiên của Ngài.

“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: “Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát”.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hễ mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Mang ấn tích của Chúa khi chịu phép rửa và thêm sức, thường xuyên nghe và đọc Lời Chúa, thường xuyên rước Chúa vào lòng mà ra trước mặt Chúa, Chúa lại bảo Ta không biết ngươi là ai. Thật là bất hạnh và tủi nhục cho chúng ta khi chúng ra rơi vào trong tình huống đó. Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.  Chúng ta đi lễ, đọc kinh,… nhưng chúng ta làm những việc ấy có phải vì yêu mến Chúa không hay là chỉ vì luật lệ, làm cho có làm. Chúng ta có sống đạo hay không hay là chúng ta chỉ giữ đạo. Và coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi đầy «mầu mè thánh thiện» này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Đạo Chúa là đạo tình thương, đạo trong cuộc đời: yêu thương và phục vụ như Chúa. Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận. Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên: “Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”

  1. Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong bài đọc II thì dùng chữ “rèn luyện”: Có trải qua rèn luyện, có đi vào cửa hẹp thì mới tìm được sự sống. Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người? Vì nó thanh luyện tâm hồn. Vì nó rèn luyện đức tính. Và vì nó sinh hoa trái tốt là bình an và công chính. Chẳng những giúp ra nên người, gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt: Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại, nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta. Nó khiến ta tìm đến Chúa. Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền phép Chúa. Nó giúp ta cảm nhận được tình thương của Chúa. Và nó khiến ta biết thương xót những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.

Thiên Chúa là Cha giầu lòng nhân từ, Ngài thường dùng những thử thách để giáo dục con người, như người cha ân cần uốn nắn, sửa dạy con yêu dấu của mình, làm cho vững mạnh, can đảm và thánh thiện. Nếu hiểu rằng chỉ vì yêu thương chúng ta, chỉ vì muốn tốt cho chúng ta mà Thiên Chúa sửa dạy thì chúng ta sẽ đón nhận sự sửa dạy và khiển trách của Thiên Chúa một cách ngoan ngoãn và biết ơn. Đón nhận và làm theo lời chỉ dạy và khiển trách ấy, chúng ta nên người!  Đi theo Chúa là đi ngược dòng, nên phải từ bỏ rất nhiều và phải chiến đấu quyết liệt với các thế lực bên trong cũng như bên ngoài. Các thế lực bên trong là các xu hướng hưởng thụ, ích kỷ, chiếm đoạt và thống trị của mỗi con người. Còn các thế lực bên ngoài là môi trường phi Ki-tô giáo, thậm chí ngược/chống Ki-tô giáo của xã hội xung quanh và của ma quỷ luôn rình rập.

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào: chiến đấu với bản thân, với ma quỷ,… chiến đấu với tham-sân-si trong lòng mình. Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Ai trong chúng ta cũng biết câu nói thời danh, “Kẻ thù tệ hại nhất của tôi là chính tôi.” Có lẽ do nhận thức được như thế nên bình thường chúng ta đã không dám đối diện với chính mình. Chúng ta không dám chân thành đối diện với chính mình. Chúng ta có thể nói người này, người kia như thế nào, nhưng khi tự trả lời câu hỏi, “Mình là ai, thế nào, xấu tốt ra sao” thì đều tự tưởng tượng để khỏa lấp. Có lẽ chúng ta nhìn thấy quá nhiều điều không nên nơi mình do đó không dám nhắc nhở, đối diện để đặt lại vấn đề. Chúng ta cũng không dám thực sự đối diện với nỗi khát khao tự biết mình để giải quyết. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã nói nhiều và rất rõ ràng về con đường thập giá, từ bỏ chính mình, con đường mà ai muốn theo Người luôn phải đi vào. Vì thế, qua cửa hẹp cũng là một cách nói về con đường thập giá của Chúa Giêsu. Cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến sự hư mất.

  1. Tuy nhiên, như Thánh Phaolô xác quyết, “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu rỗi” (1 Tim 2:4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các ngươi Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này” (Mt 18:14). Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại họ luôn có tự do để đón nhận hay từ khước. Một chiếc ly không thể chứa được những giọt nước tươi mát của trời cao nếu như chẳng bao giờ ngữa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để hưởng được thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa. Tuy cánh cửa chật hẹp, nhưng Thiên Chúa không chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngài luôn luôn rộng tay chúc phúc và đón chờ chúng ta. Một khi chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, sẵn sàng yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình thì chúng ta tin rằng, hạnh phúc lớn lao đang chờ đợi chúng ta ở cuối chân trời bên kia.

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN C

Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ cỗ nhất

Hc 3,17-18.20.28-29: Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.

Dt 12,18-19.22-24a: Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.

Lc 14,1.7-14

  1. Tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu: Thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo. Vì khi kiêu ngạo chúng ta coi mình là quan trọng, tự cho mình là hơn người, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, thấy người khác hơn mình thì khó chịu, hậm hực, nói xấu, dèm pha, dè bỉu, chê bai khích bác, tìm cách hạ uy tín của họ. Chính vì vậy mà gây ra sự chia rẽ, chống đối lẫn nhau, giành giựt địa vị, …

Kiêu ngạo còn là một tội nặng chống lại Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất kiêu ngạo muốn hơn Thiên Chúa đã chống lại Ngài nên đã trở thành ma quỷ (satan); tổ tông loài người muốn bằng Thiên Chúa đã phạm tội bất tuân lệnh Chúa truyền nên loài người đã phải làm nô lệ cho ma quỷ. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài.

 

  1. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại, phải phấn đấu để hạ mình xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15). Chỉ khi chúng ta khiêm nhường, chúng ta mới phục vụ người khác một cách vô vị lợi.

Thiên Chúa luôn “hạ kẻ kiêu ngạo xuống mà tôn kẻ khiêm nhường lên”. Nếu suy nghĩ kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng mình chẳng có gì để mà kiêu căng! Mọi sự chúng ta có, chúng ta đều nhận được từ Thiên Chúa, từ Giáo hội và xã hội cả mà! Nên thái độ thích hợp nhất là thái độ khiêm cung và biết ơn.

 Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình. Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.

  1. Muốn học sống khiêm nhường, chúng ta phải chạy đến với Đức Giêsu là Đấng đã tự hạ tự hủy hoàn toàn, dù rằng Người là Ngôi Lời nhập thể làm người, là Thiên Chúa. Chính Người đã chẳng mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” Ngài đã hủy mình ra không, không coi mình ngang hàng với Thiên Chúa để có thể vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2, 6-10). Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Ðức Giê-su. Thế mà Người đã quì gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quì trước mặt nhân loại. Thiên Chúa đã rửa chân nhân loại. Thiên Chúa đã lau những bàn chân nhơ nhớp của nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quí, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn. Khiêm tốn như Ðức Giê-su không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Ðức Giê-su không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quí.

Và hiện giờ cho đến tận thế, trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu sống khiêm nhượng một cách lạ lùng trong các Nhà Tạm trên khắp hoàn cầu: sống triền miên thinh lặng, hoàn toàn giấu ẩn tính cao sang huy hoàng của Con Thiên Chúa, chịu đựng mọi sĩ nhục lăng mạ của loài người tội lỗi, chịu đựng những sự thờ ơ của ngay những người tin Ngài, luôn chờ đợi, không ép buộc ai, chỉ biết mời mọc: “Hãy đến với Ta, Ta bổ sức lại cho”. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người trên thập tự. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên. Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (x. Ph 2, 3).

Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất. Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người. Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời. Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh chị em, để sống hoà hợp và phục vụ anh chị em. Qua sự khiêm hạ, chúng ta có thể đến với mọi người và mọi nơi.

Hãy suy niệm về sự khiêm tốn qua những lời trong bài Huấn Ca hôm nay: “Con ơi, hãy khiêm tốn trong mọi việc con làm, và người ta sẽ quý trọng điều đó hơn cả quà cáp. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ đẹp lòng Đức Chúa.

Kinh magnificat: Mẹ tạ ơn Chúa vì những việc trọng đại Chúa làm nơi Mẹ, chứ không phải Mẹ làm (Lc 1, 46-48). Đức Maria “đầy ơn phúc”, vì Mẹ đã khiêm nhường tự hạ trước Đấng đổ tràn ơn phúc xuống cho Mẹ.

  1. ‘Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’. Có đi có lại mới toại lòng nhau, nhưng Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống vô vị lợi. “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Làm ơn thì thường chúng ta mong được người ta báo đáp đền ơn. Đó cũng là điều bình thường trong đời sống con người. Nhưng nếu làm ơn mà chúng ta không mong, không chờ báo đáp đền ơn, là chúng ta có tinh thần vô vị lợi. Sống vô vị lợi là chúng ta lấy hạnh phúc của tha nhân làm mục tiêu hành động của chúng ta. Muốn sống vô vị lợi chúng ta cũng phải chạy đến với Thiên Chúa để học với Ngài vì Ngài là Đấng làm mưa làm nắng cho hết mọi người, không phân biệt người tốt lành hay kẻ gian ác. Người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Con người vốn dĩ chỉ chơi, chỉ thân với những người có cùng địa vị với mình còn những người nghèo hèn khốn khổ thì không có chỗ trong lòng của mình. Con người thường loại trừ những người nghèo hèn, cô thế cô thân. Lối sống, cách hành xử như thế này là một thứ tìm kiếm cái tôi, bao bọc cái tôi, tô vẻ cái bên ngoài. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động). Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
  1. Kẻ kiêu ngạo là “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), khi “sự thiện không có ở trong người ấy” (x. Rm 7, 18). Họ “tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét” (Tv 36, 3). Như người pharisiêu tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác” (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.

Ai cũng có thói kiêu căng, tự phụ. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình. Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Đúng như sách Huấn Ca đã nói: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”. Thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.

Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình. “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” (Ga 13, 1-15).

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN C (X. CN 13, 22 năm A; 12 năm C; 24,25,29 năm B)

Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em… và cả mạng sống của mình thì không đáng làm môn đệ của Ta

Bài đọc I (Kn 9, 13-18) con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ. Ý định của Chúa nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi Thần khí thánh” (Kn 9,17). Con người luôn phải mang tính xác thịt nặng nề, hướng về tội lỗi mất lòng Chúa và xúc phạm đến tha nhân; vì thế phải nhờ sự khôn ngoan do Thánh Thần Chúa hướng dẫn và sửa đổi, chúng ta mới có thể đạt tới ơn cứu độ.

Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon. Philêmon là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là “người bạn yêu quý và cộng sự viên”. Không hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon, tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. “Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi.”

Sự Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em của chủ, “cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả anh lẫn tôi”. Sự thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa để kết hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28). Xã hội tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).

Mối tương quan giữa chủ và người giúp việc, chủ và tớ đã trở thành tương quan mới, tương quan huynh đệ anh em trong đức tin, trong Chúa Giêsu Kitô. Đây là một điều mới mẻ trong xã hội thời các thánh tông đồ, một xã hội còn duy trì tập tục nô lệ. Đây là điều khó có thể thực hiện một cách cụ thể đối với ông Philêmôn, bởi vì ông phải nhận lại một người giúp việc đã bỏ ông ra đi, rồi bây giờ nhận lại không phải như người giúp việc nữa mà như anh em trong Chúa. Không những ông phải tha thứ những lỗi lầm, phiền phức của người giúp việc gây nên khi bỏ ông ra đi, nhưng còn phải vui vẻ tiếp đón như một người ngang hàng, một người anh em cùng một phẩm vị con người như mình. Philêmôn đứng trước một thách thức, một lời mời gọi hãy kính trọng nhân quyền, kính trọng phẩm giá con người. Nếu không có sức mạnh và ơn gọi soi sáng của Chúa thì có thể ông Philêmôn sẽ không thực hiện được.

Tin Mừng (Lc 14, 25-33)

  1. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (“đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”- Kiểu nói Híp-ri có nghĩa là “thương ít hơn”, “yêu ít hơn”, “không thương hơn”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Ý nghĩa của từ “ghét” ở đây nhờ Mt 10,37 đã được làm sáng tỏ: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Bởi theo Chúa là phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, yêu Chúa trên hết mọi sự, ngoài ra tất cả đều là thứ yếu. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Ðấng Tuyệt Ðối.Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình. Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Khi có sự xung đột giữa việc theo Ngài và bổn phận thảo hiếu hay tình nghĩa anh em, khiến ta chỉ có thể chọn một trong hai, thì phải ưu tiên cho việc của Ngài hơn. Còn nếu không có sự xung đột ấy, thì người theo Chúa phải sống có tình có nghĩa hơn ai hết, nhất là đối với cha mẹ, vợ con, anh chị em mình. Không phải cứ theo Chúa thì có quyền vô trách nhiệm đối với cha mẹ như những người Pharisêu xưa từng chủ trương (x. Mt 15, 5-6).

Tổ Phụ Abraham đã sống theo tinh thần này khi ông từ bỏ tất cả để theo mệnh lệnh của Chúa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:1). 

Khi Đức Giê-su đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là những kẻ theo Ngài luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như người không có gì. Hiểu theo nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng chỉ đúng với ơn gọi của một số ít người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự khác, nên sẵn sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng khi thực tế đòi buộc như vậy. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí to. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa.

Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa: những nhà khoa học, nhà cách mạng, bác sỹ,…  Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.

  1. Phần cuối của bài Tin Mừng, Chúa nhắc lại việc dùng sự khôn ngoan một lần nữa với hai thí dụ “Người xây tháp” và “Ông vua xông mình ra chiến trận.” Khi làm một việc gì có lợi và hợp ý thích, chúng ta thường để ý, sửa soạn, tính toán coi việc nào cần, việc nào ít cần, và việc nào không cần trước khi quyết định làm. Như thế kết quả chắc chắn sẽ khả quan, mỹ mãn.  Sử dụng sự khôn ngoan đích thực là hành động chấp nhận giới hạn của mình, từ bỏ danh vọng hay vinh quang nơi tiền tài của cải vật chất để chỉ tìm kiếm ý định của Thiên Chúa một cách vô điều kiện.

Phải khôn ngoan và kiên trì: Khôn ngoan suy tính xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi để theo Đức Giê-su hay không. Giống như một người muốn xây một cây tháp phải khôn ngoan suy nghĩ về khả năng tài chính của mình. Hoặc như một ông vua trước khi xuất chinh phải biết đánh giá tình hình để có quyết định xứng hợp. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ. Nếu thấy mình theo nổi thì hãy quyết định theo, để một khi đã theo thì theo một cách triệt để, không luyến tiếc, không theo cách lưng chừng. Tự sức mình, chẳng ai có khả năng chấp nhận từ bỏ tất cả, nhưng với ơn Chúa cộng với sức riêng mình, ta có thể làm được tất cả: «Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi làm được tất cả» (Pl 4, 13). Vậy, vấn đề còn lại là có trông cậy vào ơn Chúa và có trung thành cố gắng mỗi ngày không. Nếu thấy mình theo không nổi, thì nên rút lui sớm. Quả thật, có nhiều người quyết định theo Ngài cả cuộc đời, nhưng chỉ theo Ngài được một thời gian, sau đó bỏ Ngài luôn, hoặc công khai hoặc âm thầm. Những người theo không nổi mà lại không muốn mang tiếng bỏ Ngài, nên vẫn tiếp tục mang danh theo Ngài, nhưng trong thực tế thì đã bỏ Ngài từ lâu.

Vì vậy, ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giúp chúng ta can đảm từ bỏ của cải, danh lợi trần gian để thuộc trọn về Chúa. Có Chúa là có tất cả, vì Chúa là nguồn hạnh phúc vô biên, không có gì ở trần gian này có thể sánh bằng.

  1. Có thể sau khi đi theo Chúa nhiều người vẫn bị nản lòng bỏ Chúa khi găp hoàn cảnh khó khăn. Khi đó hãy nhìn gương của các tông đồ: ban đầu các ông theo Đức Giê-su là để hy vọng sẽ được chia sẻ quyền lực địa vị trong nước Người sắp thiết lập. Nhưng Đức Giê-su đã dần dần thanh luyện suy nghĩ của các ông, và phải đến sau khi Đức Giê-su phục sinh, nhờ ơn Thánh Thần, các ông mới hiểu rõ thế nào là đi theo Chúa; và đã can đảm từ bỏ mọi sự để theo làm môn đệ của Người.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng. Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.

  1. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Chúa Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”. Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Đức Giêsu đã vác thập giá và chịu đóng đinh trên thập giá là để hy sinh, chịu đau khổ hầu cho nhân loại được sống và sống hạnh phúc. Đó cũng chính là mục đích của Ngài khi đến trần gian.

Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa. Một trong những điều kiện căn bản để theo Chúa là phải chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, vừa để đền tội cho chính mình và người khác, vừa để chu toàn bổn phận trong đấng bậc mình, vừa để hy sinh cho việc xây dựng Nước Trời, tạo hạnh phúc hay giảm bớt đau khổ cho tha nhân. Tiếng gọi của tình yêu đòi hỏi một cuộc trao đổi đến tuyệt đỉnh, vô điều kiện, để nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa.

Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9). “Tôi bổ túc nơi thân xác tôi những gì còn thiếu nơi mầu nhiệm thập giá của Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và chịu chết vì tôi. Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. (Cl 1,24)

  1. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ, gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”. Yêu ta, Chúa hy sinh cho ta; Yêu Chúa, ta cũng phải hy vinh vì Chúa. Một điểm nữa rất rõ trong lời mời gọi của Chúa Giêsu là “Hãy vác thập giá hằng ngày”. Vác thập giá không phải chỉ là một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, hoặc chỉ vác thập giá của hôm qua hay hôm nay, mà là hằng ngày, mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Ngày nào cũng có thập giá, không nặng thì nhẹ, như lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó”.

Đức Kitô liên kết việc từ bỏ chính mình với thập giá. Từ bỏ chính mình để nhận lấy thập giá bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn hiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ con người vướng bận nhiều thứ nào là cái tôi, tự ái, ích kỉ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Những giây nhợ đó như chiếc màng nhện cuốn chân, như xiềng xích gông cổ con người đi theo Chúa. Muốn thong dong trong việc đi theo phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt hết niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài…” (2Tim 2,11) Chúa là nguồn tình yêu, là hạnh phúc. Có Chúa là có tất cả. Một khi đã gắn bó mật thiết với Chúa Kitô thì hẳn nhiên chúng ta sẽ có một thái độ khác đối với các liên hệ gia đình, bạn bè và xã hội, đối với của cải vật chất và đối với chính mạnh sống của mình.

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn. Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa. Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

 Cuộc sống không có vinh quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế. Là người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Và chúng ta chưa hạnh phúc cũng vì chúng ta không chấp nhận đau khổ: hơi khổ một chút là ta kêu van, bực bội, khó chịu, và tìm cách trút đau khổ cho người khác nếu được. Chính vì chúng ta sống như vậy, mà chúng ta mới đau khổ, đồng thời gây đau khổ cho bao người khác. Điều nghịch lý nhưng luôn luôn đúng, đó là: chỉ những ai thật sự «từ bỏ mình» và dám chấp nhận đau khổ mới có được tự do và hạnh phúc thật sự!

Mặt khác, từ bỏ chính mình vì “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô”(Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô là bỏ đi con người cũ, vốn đầy đam mê những phù phiếm thế gian, vốn sa đọa tội lỗi, mà sống Lời Chúa thật sự, tin yêu và phục vụ. Vì thế, sách Khôn Ngoan, trong Bài Đọc I hôm nay, đã nhắc nhở chúng ta “tính xác thịt nặng nề làm tâm hồn hư đốn và lý trí tối tăm” không thể nhận ra “đường ngay, nẻo chính,” nên dễ đi đến chỗ sai lạc và đi vào con đường đưa đến diệt vong.

Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng, quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”. Đó cũng là biện chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là sống, tử nạn là phục sinh muôn đời. Rõ ràng sự từ bỏ của Chúa đã được liên kết với tình yêu, một tình yêu luôn muốn sự tốt lành cho người khác. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu. Ngài tự hạ để chúng ta được nâng lên. Ngài đã chết để chúng ta được sống. Đó là một nghịch lý, một nghịch lý hồng phúc như thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả: Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

  1. «Cái tôi» hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có «cái tôi». Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một «cái tôi». Vì thế, «cái tôi» là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay «cái tôi» thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có «cái tôi» như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.

Tuy nhiên, «cái tôi» vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng «cái tôi» ấy có thể làm con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.

Thánh thiện là khi «cái tôi» của ta biết tự xóa mình đi trước «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình. Chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8).

– Tội lỗi là khi ta đặt «cái tôi» của ta lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ loài người nằm ở chỗ đã đặt «cái tôi» của mình lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa.

Vì thế, «cái tôi» là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của «cái tôi» của ta đối với «cái tôi» của Thiên Chúa và «cái tôi» của mỗi tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.

Cái trớ trêu của cuộc đời là có những người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên” một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao giờ thấy mình hạnh phúc. Một khi đã từ bỏ «cái tôi» của mình rồi, thì tất cả mọi thứ khác ta đều từ bỏ được cách dễ dàng. Trái lại, dù đã từ bỏ được tất cả mọi thứ, nhưng chưa từ bỏ được «cái tôi», thì rồi «cái tôi» ấy sẽ lại vun vén về cho nó tất cả những gì nó đã từ bỏ. Và cuối cùng hóa ra chẳng từ bỏ điều gì cả.

  1. Trong Phúc Âm nói đến việc tháo xác Chúa và táng trong mồ đá (Mátthêu 27:57-60, Mátcô 15:42-46, Luca 23:50-53, Gioan 19:38-42); nhưng không thấy nói đến Thánh Giá của Chúa để ở đâu. Theo các Sử Gia Công Giáo, thì vào khoảng năm 326, Thánh Nữ Hêlêna (#246-330) là mẹ của Hoàng Đế Constantine Đệ Nhất (272-337), đã sang Giêrusalem để tìm Mồ Chúa và Nơi Chúa bị đóng đanh. Bà đã tìm được cả hai nơi thánh này, và còn tìm thấy 3 cây thập giá cùng ở một chỗ gần nơi Chúa bị đóng đanh và kết luận đó là 3 cây thập giá mà Chúa Giêsu và hai kẻ cướp cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu chết treo trên đó (Mátthêu 27:38, Mátcô 15:27, Luca 22:39-43). Nhưng làm sao có thể biết được là cây thập giá nào là THÁNH  GIÁ THẬT mà Chúa Giêsu đã bị treo trên đó. Cũng theo các tài liệu của các Sử Gia thời đó, là nhờ khi đặt Thánh Giá Thật trên một em nhỏ đã chết lại được hồi sinh, và khi đặt trên người một phụ nữ đau nặng, bà đã được chữa lành. Thánh Giá thật đã làm phép lạ vì trên đó đã treo xác thánh của Chúa Giêsu và có dính máu, mồ hôi, nước mắt của Chúa Giêsu. Cũng theo các sử gia thời đó thì Thánh Giá Thật đã được chia ra, một phần để lại Giêrusalem, một phần ở Constantinople, một phần đưa sang Rôma, và về sau này lại được chia ra làm nhiều phần và đưa đi các nơi khác nữa.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN C

Người Cha Nhân Hậucon chiên lạc- đồng bạc bị mất

Xh 32, 7-11. 13-14: Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa. Thiên Chúa đã nhận lời ông, không giáng phạt mà rộng lòng tha thứ. Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý: Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel. Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu “Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe”.

1Tm 1, 12-17: Thánh Phaolô, một người pharisêu nổi tiếng, tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài: “Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót”. “Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. “Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài”.

TIN MỪNG: Lc 15, 1-10

dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa

  1. Trong bài đọc 1, dân chúng muốn tìm thoả mãn ngay những nhu cầu hạ giới. Họ lo cho sự an toàn cuộc sống, lo cái ăn, cái mặc hiện tại, chứ không nhận biết đường đi nước bước mà Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ. Tâm hồn họ còn bị ảnh hưởng bởi cách sống của dân ngoại. Hình như cũng có phảng phất đâu đây hình bóng của chúng ta. Thiên Chúa đã yêu thương, nâng đỡ và ban cho mỗi người chúng ta “hết ơn này đến ơn khác”. Vậy mà chúng ta cứ năm lần bảy lượt bất trung với Thiên Chúa, mãi chạy theo những cái trước mắt chẳng khác gì dân Chúa khi xưa. Thật đúng như lời Chúa nói với Môise: “Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ”. Sự bất trung của con người còn được thể hiện qua hình ảnh người con thứ, khi anh ta đòi chia gia tài ngay khi người cha còn sống. Giống như người con thứ, chúng ta cũng đã phung phí biết bao nhiêu hồng ân mà Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta, kể cả giá Máu của chính Con Thiên Chúa đổ ra trên thập giá vì chúng ta.

Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được! “Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài. Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, để trả lời cho những người luật sĩ và biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu vì sao lại ngồi chung, và đồng hành với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người con hoang đàng trở về, để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi ăn năn trở lại.

Những người Pharisêu luôn luôn quan tâm giữ những luật lệ về sự «thanh sạch» mà Cựu ước đề cập đến rải rác ở nhiều nơi, đặc biệt ở sách Lêvi các đoạn từ 11 đến 16. Họ xa lánh những vật mà Cựu ước cho là ô uế một cách nhiệm nhặt và chi tiết hơn cả chính luật lệ đòi hỏi nữa. Họ nghĩ rằng càng giữ nhiệm nhặt những luật đó, thì họ càng trở nên thánh thiện trước mặt Thiên Chúa. Vì dân chúng cũng nghĩ như thế, nên khi họ càng giữ luật đó nhiệm nhặt, thì họ càng được mọi người ca tụng là thánh thiện. Và càng được tiếng là thánh thiện thì họ càng phải tránh giao tiếp với những người tội lỗi để giữ được tiếng tốt ấy.

Nhưng Đức Giêsu không suy nghĩ và hành động như họ. Đang khi họ lấy việc giữ luật và việc cử hành những nghi thức tôn giáo bề ngoài làm chuẩn mực quan trọng của sự thánh thiện, thì Đức Giêsu lại rất coi thường chuẩn mực ấy. Ngài coi tình yêu đối với mọi người và lòng khoan dung đối với người tội lỗi mới là chuẩn mực và là cốt yếu của sự thánh thiện. Vì cốt tủy của thánh thiện là nên giống như Thiên Chúa, nguồn mạch thánh thiện. Mà để giống Thiên Chúa thì điều cốt yếu nhất là phải giống bản chất của Ngài là tình yêu. Vì «Thiên Chúa là Tình Yêu» (1Ga 4, 8. 16) chứ không phải là bất kỳ điều gì khác. Ngài vô cùng quyền năng, Ngài vô cùng thanh sạch, v. v… nhưng Ngài không là quyền năng, không là thanh sạch, v. v… mà chỉ là tình yêu. Nên càng yêu nhiều, càng trở nên giống Chúa, càng thánh thiện.

Thật vậy, trước mặt Thiên Chúa, một người thu thuế bị mang tiếng là tội lỗi nhưng có tình yêu và lòng khiêm nhượng vẫn có thể thánh thiện hơn một người Pharisêu hằng được mọi người nể phục vì sống trong sạch và giữ luật hết sức nhiệm nhặt nhưng lại thiếu tình yêu và lòng khiêm nhượng (x. dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: Lc 18, 9-14). Do đó, là người theo Chúa, ta nên biết điều chủ yếu phải bắt chước Thiên Chúa là điều gì. Nếu không, việc theo Chúa của ta chỉ là «công dã tràng». Quan niệm của Đức Giêsu như thế, nên Ngài không ngần ngại đến với những người tội lỗi, hòa mình với họ để có thể cảm hóa họ. Đối với Ngài, dù họ tội lỗi đến đâu, họ cũng là «con cháu tổ phụ Ápraham» cả (Lc 19, 9; x. 13, 16), nên họ cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi ấy.

  1. «Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ hoằn lắm có người dám chết vì một người lương thiện. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5, 7-8). Nếu Thiên Chúa nại vào sự thánh thiện của Ngài mà xa tránh và khinh bỉ những người tội lỗi, thì số phận của loài người chúng ta hiện nay ra sao? Ta thánh thiện được bao nhiêu mà lại tự hào về sự thánh thiện ấy để xa tránh anh chị em tội lỗi của mình? Tình yêu đã khiến Thiên Chúa bất chấp sự thánh thiện của mình để đến hòa mình với nhân loại tội lỗi.

Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”.Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta”.

Thường thì người tội lỗi nào thật sự ăn năn trở lại – nghĩa là quyết định dứt khoát không quay về con đường cũ tội lỗi nữa – thì cũng đều có một giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa mà những người thánh thiện khác ít có được. Họ đã có một quá khứ tội lỗi, nên họ không bao giờ dám tự hào về bản thân mình. Nhờ đó họ dễ khiêm nhường sâu xa hơn, mà khiêm nhường lại chính là nền tảng vững chắc của sự thánh thiện. Họ đã kinh nghiệm được sự yếu đuối và mỏng dòn của con người, nên họ rất dễ thông cảm sâu xa với những người yếu đuối, tội lỗi khác. Sự thông cảm này khiến họ bao dung và yêu thương người tội lỗi hơn. Nên sự cảm thông này là một giá trị lớn trước mặt Thiên Chúa. Và một khi họ đã trở nên thánh thiện, họ cũng dễ dàng cảm hóa được người tội lỗi hơn nhờ kinh nghiệm trở lại của họ. Họ càng phạm tội nhiều thì khi được Thiên Chúa tha tội, họ càng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn, và do đó họ yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn: Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít (x. Lc 7, 36-50).

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giê-su dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ðấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện. Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Ðộng lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó làm sao để được ăn. Nó phải làm một nghề hèn hạ là chăn heo cho dân ngoại, hơn nữa nó còn thấy mình không bằng heo. Cái chết rình rập đâu đây, người con thứ đã xuống tới đáy vực thẳm. Nó cảm thấy phải trở về với cha để tránh cái chết trước mắt.  Ðây chưa phải là một hoán cải sâu xa vì thấy mình xúc phạm đến tình yêu cha.  Nó muốn trở nên đứa làm công cho cha, được cha trả lương.  Nó vẫn muốn tự sống bằng lao động của mình. Với góc nhìn nhân bản, thì đứa con bỏ nhà ra đi, nhất là ra đi đem theo cả gia tài, không hẹn ngày về, vĩnh biệt đối với gia đình, có thể coi là đứa con đã chết!

Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” và ngay tức khắc ra lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng. Ðộng lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.

  1. Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Ðức Giê-su là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả. Thánh Giacôbê: Ai làm cho 1 người tội lỗi trở lại, thì không những cứu được linh hồn của người ấy mà còn khỏa lấp được muôn vàn tội lỗi của mình (x. Gc 5, 20). Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Ðừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù lòa”.

Ai cũng cần trở về.  Không ai trong chúng ta quá hoàn hảo đến nỗi không cần phải trở về.  Có khi là những trục trặc nhỏ cần điều chỉnh lại.  Có khi lại là một thay đổi lớn lao hơn: thay đổi hướng sống, thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa, về tha nhân và về chính mình.

  1. Người con cả tượng trưng cho những người Pharisêu và kinh sư, những người đã phục vụ Chúa và giữ luật một cách tỉ mỉ. Anh có chút tự hào, tự mãn vì mình đã hầu hạ cha ba năm, chưa bao giờ trái lệnh. Anh không hiểu được tại sao cha lại đón tiếp một cách long trọng cái thằng con phung phá và bất hiếu đó. Người Pharisêu cũng không hiểu được tại sao Ðức Giêsu lại tiếp đón người tội lỗi và ăn uống với họ. Người anh cả tưởng mình sống gần cha, nhưng thực sự lại ở xa cha.  Ðiều quan trọng không phải chỉ là ở trong nhà của cha mà còn là ở trong tim của cha nữa.

Người anh cả tự cho mình là người công chính và dĩ nhiên không cần hối cải ăn năn. Không những thế, anh còn khước từ sự trở về của người em, không chấp nhận lòng sám hối ăn năn của người lầm lỗi. Và, tệ hơn, chính anh là người không chấp nhận lòng bao dung và tha thứ của người cha, không chấp nhận tình yêu thương của Thiên Chúa. Anh ở trong nhà, nhưng thực ra, anh đã tự tách lìa mái ấm của tình thương bằng những hận thù, ghen tương. Anh đã tự đánh mất và xa rời tình thương của cha, khi lòng anh chỉ biết coi trọng và đánh gía cao những gia tài vật chất bề ngoài. “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”. Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lại người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha. Anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.

Đọc Tin Mừng, ta chỉ thấy Đức Giê-su kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các tiên tri giả mà thôi! Nhiều khi chúng ta cũng giống như họ, chúng ta đến nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn đầy những ghen ghét, ganh tị, chỉ biết sống cho mình.

  1. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này. Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để 99 con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.

Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người. Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó. Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa”. Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Ðây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa. Bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2). Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừa nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu. Rõ ràng không phải vì của bị mất, tiếc của, mà là “tình thương”, một tình thương vô vị lợi, nên chi rất đau xót, càng đau xót thì càng thương tiếc. Không phải vì kinh tế, mà vì lòng trắc ẩn.

Chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhân lọai sẽ không khỏi xúc động và khám phá ra biết bao điều diệu kỳ của lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu.

Có ai đó đã nói rằng: “con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn. Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.

  1. Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ấy minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào. Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. Ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Quả vậy, Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại chúng ta bằng một tình yêu nhân hậu vô biên. Ngài yêu thương tôn trọng tự do của con người, dẫu biết con người có thể lạm dụng tự do ấy để làm những điều xấu, ngay cả việc chống lại Ngài. Rồi khi con người “đi hoang”, Ngài kiên nhẫn chờ đợi và làm mọi cách để đưa con người lầm lạc trở về, kể cả việc hy sinh chính Con Một của mình, chỉ đơn giản vì: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ez 18, 23). Và rồi một khi con người biết hoán cải trở về, Ngài còn phục hồi cho họ gấp ngàn lần hơn: danh dự, địa vị, phẩm giá, tự do, v,v… Ta có cảm nhận được tình yêu và lòng thương xót của Chúa? Chúa luôn nhớ đến chúng ta khi chúng ta xa cách Chúa, Chúa đi tìm chúng ta, để đưa chúng ta về, Chúa tha thứ hết những lỗi lầm thiếu xót, những yếu đuối, những đam mê lầm lạc của chúng ta. Chúa phục hồi nhân phẩm mà chúng ta đánh mất khi ta phạm tội chạy theo ma quỷ, thế gian và xác thịt. Chúa làm cho chúng ta được giao hoà với Chúa, được làm con Chúa, cho hưởng tình thương dạt dào của Thiên Chúa, được hạnh phúc sống trong nhà Chúa. Lòng thương xót của Chúa thật bao la. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật tuyệt vời, không thể nào nói hết được.

Chúa không chỉ đi tìm những con người bất hạnh, những người lầm đường lạc lối để đưa họ về hưởng hạnh phúc trong nhà Chúa. Hơn nữa, Chúa còn vui mừng khi có một người lầm lạc, tội lỗi, biết lắng nghe lời Chúa từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn sám hối mà quay trở về đường ngay nẻo chính, như người mục tử vui mừng khi tìm được một con chiên lạc: “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15, 5). Vui mừng như người phụ nữ khi tìm thấy một đồng quan bị mất: “Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 9). Vui mừng như người Cha thấy con đi hoang trở về, ông sai đầy tớ “đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng” (Lc 15, 23). Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao và cả thiên đàng hân hoan vui mừng khi có một tội nhân ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, trở về đường ngay nẻo chính, sống thánh thiện.

Đứng trước tình yêu của Thiên Chúa, có lẽ chúng ta chỉ có thể làm một việc là cất tiếng ngợi khen Ngài như lời tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Lạy Chúa, xin mở môi tôi, miệng tôi sẽ loan truyền lời ca khen”. Không chỉ là một lời ca khen, tình yêu Chúa còn đòi chúng ta đáp trả bằng những hành động cụ thể. Vì thế, noi gương Chúa, chúng ta cần phải có thái độ tha thứ và nhận định đúng về người anh chị em của chúng ta. Không ai là xấu hết, cũng như không ai là tốt hết. Đã là con người, ai cũng có những sự bất toàn của mình. Thái độ của chúng ta đôi khi cũng giống như những người Biệt Phái và Kinh Sư khi xưa là tìm cách bắt bẻ anh chị em mình để “bới lông tìm vết” và vạch trần những tội lỗi của anh chị em. Đôi khi lại còn thích thú khi thấy người khác sa ngã, vì đây là cơ hội để mình lên mặt dạy đời, hay có những khi tỏ vẻ nhân từ để sửa lỗi cho anh chị em mà lại vô tình đẩy anh chị em chúng ta vào chỗ chết. Như vậy, nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với chúng ta, mặc dù chúng ta đáng tội chết, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho những người xúc phạm đến ta.

  1. Cho dù chúng ta có nhiều yếu đuối, lỡ lầm, chúng ta cũng đừng nản lòng, tuyệt vọng. Chúa đã không đặt dấu chấm hết cho chúng ta. Chúng ta cũng đừng tự đặt dấu chấm hết cho bản thân mình. Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, noi gương người con thứ trong Tin mừng hôm nay, để mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Thiên Chúa, với anh chị em. Hãy trở về với Thiên Chúa để được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của Ngài.

Đức Giêsu như chủ chiên, mỗi người chúng ta dù chẳng đáng gì, nhưng đều được Người thương yêu đặc biệt nhưng không. Người cứu độ từng người với bất cứ giá nào. Người thương một người tội lỗi như yêu tất cả các thánh. Người đánh giá mạng sống mỗi người hơn tất cả lời lãi thế gian. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” Đức Giêsu còn đặc biệt tôn trọng từng người tội lỗi: người ăn uống với họ, tọa đàm với họ và còn vui mừng vác họ trên vai.

Giáo lý dạy: con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo dụ ngôn này, mỗi người chiếm một địa vị quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa đến chừng nào! Nếu không có bệnh nhân, thì đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, thì đâu có tình thương cứu độ nữa. Một kẻ tội lỗi như Phaolô trở lại, quan trọng đến chừng nào cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã tâm sự với môn đệ Timôthê rằng: “Trước kia, cha đã từng nói phạm thượng, ngược đãi và lăng nhục Người. Thế mà Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà người thứ nhất là cha. Sở dĩ cha được thương xót là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng khoan dung của Người, trước hết nơi cha, mà đặt cha làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời”. “Ôi tội Ađam cần thiết thay, để Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ trần gian.”

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN C (x. CN 26 TN năm C; CN 28 năm B)

Quản gia bất lương đã hành động khôn khéo- Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.

Am 8, 4-7: (Đức Chúa phán:) Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.

Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II)

1Tm 2, 1-8: Thánh Phaolo khuyên tín hữu mình đừng ganh tị tranh chấp với nhau: Nguồn gốc của tranh chấp là lòng tham. Thay vì tranh chấp, hãy tích cực xây dựng hòa bình.

TIN MỪNG: Lc 16, 1-13

  1. Dụ ngôn của bài Tin Mừng khá dí dỏm và linh động, kể chuyện một người quản lý đang đứng trước một tương lai đen tối: sắp bị đuổi việc, nên ông ta đã nghĩ ra một kế hoạch rất khôn khéo, có thể nói là láu cá, mánh mung hay gian xảo để thủ lợi hòng khi thất nghiệp sẽ có người trả ơn mình, giúp đỡ mình. Mấu chốt của câu chuyện là cách xoay sở của anh: anh gọi những người thiếu nợ đến và sửa lại giấy nợ, nghĩa là giảm bớt phần nợ mà họ phải trả. Làm như thế họ sẽ biết ơn anh và sau này sẽ giúp anh để đền ơn. Đức Giêsu chỉ khen cái khôn khéo, chứ không khen cách làm ăn bất trung của anh. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta gian xảo như người quản lý ấy, nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhanh trí khôn, biết ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nhất là tìm được những bảo đảm cho tương lai, mà tương lai quan trọng nhất là cuộc sống đời sau. Chúa ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời. Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng. Vì thế, sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra những giáo huấn của Ngài về vấn đề tiền của:
  1. Dùng tiền của để mua lấy bạn hữu: Con cái đời này biết sử dụng tiền của để có lợi cho mình. Con cái Thiên Chúa sao lại không biết sử dụng tiền của để mua lấy hạnh phúc đời đời? Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù du, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời. Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.

Chúa không bao giờ đồng tình với sự xấu: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Khi gọi người quản lý là “con cái đời này”, Chúa Giêsu đã không để anh đứng chung hàng ngũ với “con cái sự sáng”. Anh chỉ thuộc về đời này, thuộc về thế gian mà thôi. Nếu hiểu khôn ngoan là thái độ tốt lành của người tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì người quản lý trong dụ ngôn không phải là người khôn ngoan, chỉ là người khéo léo. Anh chỉ được khen là khôn khéo vì “biết dùng tiền của bất chính mà mua lấy bạn bè” cho cuộc sống trần gian, chứ không hề được khen là khôn ngoan vì đã tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Dựa vào sự khôn ngoan của viên quản lý bất trung ấy, Đức Giêsu dạy khôn chúng ta: «Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu». «Tiền của bất chính» trong câu này (đối lại với «của cải chân thật» trong câu Kinh Thánh liền sau) chỉ có nghĩa là thứ tiền của không thuộc quyền sở hữu của chúng ta mà của người khác, nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng hầu mưu ích cho chính mình, là đồng tiền chỉ có giá trị chóng qua trong cuộc sống trần gian này mà thôi (có bản dịch tiếng Anh dùng chữ worldly wealth), nên không thể so sánh được với giá trị đích thực (true wealth) của những gì liên quan tới Ơn Cứu Độ, tới Nước Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta có thể dùng những gì chóng qua, nay còn mai mất, mà Chúa ban cho chúng ta ở đời này (tài năng, sức khỏe, thì giờ, tiền bạc…) để đổi lấy thứ của cải không bao giờ hư mất là hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Bằng cách nào? Bằng cách dùng chúng để lo cho Nước Thiên Chúa, lo cho hạnh phúc của tha nhân. Nhờ đó chúng ta có được «những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi được» (Mt 6,20). Nếu ta chỉ dùng những thứ Chúa ban để đổi lấy những của cải chóng qua, thì khi ta chết, ta sẽ phải để lại trần gian tất cả, không mang gì đi được, chỉ ra đi với hai bàn tay trắng.

Ấy, con người khác chi hơi thở
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu
Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng
Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ tiêu dùng. (Tv 38)

Tất cả những tiền của trần gian chỉ là những thứ vô tri giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến mức sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương. Nên tiền của trần gian chỉ là một thứ trung gian, là phương tiện con người phải biết sử dụng cho đúng, hợp tình hợp lý, khôn khéo và hữu ích để được ấm no, hạnh phúc ở đời này và nhất là để đạt tới kho tàng đích thực là Nước Trời.

Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình.

  1. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn. Ai gian dối trong việc nhỏ cũng sẽ gian dối trong việc lớn. Không phải ai trung tín trong việc sử dụng tiền bạc thì cũng luôn luôn trung tín trong mọi việc khác. Tuy nhiên, trong cuộc đời, kinh nghiệm cho ta thấy ai luôn giữ chữ tín trong việc sử dụng tiền bạc, thì cũng thường trung tín trong những chuyện khác. Còn ai không đáng tín nhiệm trong chuyện tiền bạc, thì cũng thường không trung tín trong những chuyện khác. Người ta thường nói: «Lấy lửa thử vàng; lấy vàng thử đàn bà; và lấy đàn bà thử đàn ông». Câu nói ấy thật chí lý, nó là kết tinh những kinh nghiệm trường đời của nhân gian. Tuy nhiên, vàng hay tiền bạc vẫn là thứ cơ bản và thông dụng để thử lương tâm và lòng trung tín của mọi người. Một lương tâm trong sáng thì luôn thể hiện sự trong sáng ấy trong việc sử dụng tiền bạc, nhất là khi sử dụng tiền bạc của người khác. Không thể tin được một người biển thủ tiền bạc của người khác, của công quỹ, đối xử với người khác một cách không công bằng về mặt tiền bạc, lại là người có lương tâm ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Không thể tin được một người được nhờ giao tiền cho người khác mà giữ lấy làm của mình, lại là người đạo đức đích thực. Hiện nay, có rất nhiều người mang danh là đạo cao đức cả, nhưng lại rất bê bối trong chuyện sử dụng tiền bạc của người khác. Quả thật, họ chỉ «có tiếng mà không có miếng» về mặt đạo đức. Chính Đức Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn: «Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?» Thiết tưởng đức công bằng – cụ thể về mặt tiền bạc – là nền tảng của đức bác ái; và đức bác ái là nền tảng của đạo đức Kitô giáo. Do đó, người đạo đức thật sự phải là người luôn luôn không có gì đáng trách về đức công bằng, nhất là về tiền bạc.

Đừng coi nhẹ những điều nhỏ mọn. Hãy tỏ ra đáng tin trong những việc nhỏ. Bạn sẽ được giao phó những việc lớn. Hãy làm cho tốt những gì đã được giao phó cho bạn, dù là việc nhỏ. Dù việc tư hay công, một hành động gian dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian lận to hoặc nhỏ. Sống gian dối là con cái của ma quỷ chứ không phải là con cái của Chúa. Ma quỷ là cha kẻ gian dối.

Người ta không phạm một tội lỗi tày trời ngay trong một sớm một chiều; người ta cũng không làm một việc tốt vĩ đại ngay trong một sớm một chiều. Việc lớn là hậu quả hay kết quả của những việc nho nhỏ mà người ta đã bắt đầu làm từ rất lâu trong quá khứ. Như người quản gia trong dụ ngôn này, có lẽ khi mới được chủ chọn làm người coi sóc tài sản, anh đã làm rất tốt. Dần dần đồng tiền có sẵn trong tay cám dỗ anh ăn bớt ăn xén, khởi sự là một số tiền nhỏ, dần dần lớn hơn… Cho đến một ngày kia, sự việc đổ bể, chủ gọi anh đến và cất chức anh.

Con cái ánh sáng thì khôn ngoan sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thực tâm thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thực trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc nhỏ cho đến việc lớn.

  1. Tiền là nhu cầu tối thiết cho cuộc sống trên đời này nhưng cũng là nguy cơ to lớn nhất  làm tan vỡ gia đình, làm mất tình người và gây ra biết bao tai họa cho con người ở khắp mọi nơi, và ở  mọi thời đại.. Tục ngữ có câu “Túi tham không đáy”. Hằng ngày đọc báo, nghe đài và xem truyền hình, chúng ta thấy nhiều người phải ra tòa rồi vào tù vì tội ăn cắp tài sản của người khác hoặc của công. Đáng chú ý là thủ phạm của những vụ ăn cắp lớn không phải là những người nghèo mà là những người giàu. Họ đâu có túng thiếu, họ còn dư thừa nữa là đàng khác. Nhưng căn bệnh nguy hiểm của họ là tiền bạc họ có thay vì thỏa mãn họ thì lại làm cho họ thèm khát hơn.

Đồng tiền còn làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Hôm nay, Tiên tri Amos cũng đang hét to với chúng ta về tội tôn thờ đồng tiền và tội sử dụng đồng tiền một cách gian ác. Tất đều bắt đầu từ việc bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ tiền bạc như một thứ ngẫu tượng, để tiền bạc khống chế làm sự lành, ra lệnh làm điều dữ. Cách tốt nhất để không bị đồng tiền làm hại là hãy kiếm tiền cách chân chính và đừng bao giờ bắt đầu một hành vi gian tham dù rất nhỏ nhặt.

Cách xử sự khôn khéo trước nhất là hướng về Thiên Chúa, là chủ của mình, mến Chúa là ưu tiên hàng đầu. Làm tôi Chúa mới mong từ bỏ làm tôi tiền của. Làm tôi Chúa bắt đầu bằng lắng nghe lời Chúa và thực thi Lời Ngài.

  1. Không ai có thể làm tôi 2 chủ: vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền bạc được.

Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung sướng nhưng đồng thời cũng là nguyên do những phản bội, tráo trở, thất nhân, thất đức, bôi đen lòng người, đi ngược lại với những điều răn của Chúa. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Kinh nghiệm cho thấy trong gia đình, thường xuyên xảy ra những cãi cọ, xích mích chỉ vì mất mát, hư hỏng, những chia sẽ không đều. Vì tiền bạc, vợ chồng xào xáo lẫn nhau. Vì tiền bạc, anh em xa cách nhau do cha mẹ phân biệt đứa này làm nhiều tiền, đứa kia làm ít tiền. Ra đến xã hội, vấn đề còn phức tạp hơn nhiều. Không lạ gì mà người ta cứ quay cuồng lên vì đồng tiền, sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền. Tiền của đã trở thành một cực hút rất mạnh như một khối nam châm khổng lồ, bề thế như một vị chúa tể dõng dạc ngự trị trên trái tim mù quáng của con người. Thật vậy, khi làm nô lệ cho của cải, tiền bạc, người ta sẽ vô tình hay cố ý tôn thờ những thực tại này như chính Thiên Chúa của lòng mình, một nguy cơ mà Chúa Giêsu đã cảnh cáo, ‘’Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh chê chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được’’(Lc 16,13). Bằng chứng cụ thể của nguy cơ này là thái độ của chàng thanh niên giầu có trong Phúc Âm Thánh Marcô. Anh ‘’ đã buồn rầu bỏ đi’’ sau khi nghe Chúa Giêsu bảo anh ta về bán hết tài sản, bố thí cho người nghèo rồi trở lại theo Chúa! (x. Mc 10:17-22). Anh ta bỏ đi, anh chọn tiền chứ không chọn Chúa. Thánh Phaolô cũng lưu ý chúng ta về nguy hại của sự ham muốn tiền của như sau: “Cội dễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó,nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đau đớn xâu xé’’ (1Tm 6,10) Trong viễn ảnh này, chúng ta hiểu được vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia rằng, “con lac đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn ngươì giầu có vào nước Thiên Chúa ‘’ (Lc 18,25) Thánh Phaolô cũng quả quyết rằng, “không một kẻ gian dâm,ô uế hay tham lam nào-mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng- được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Kitô và của Thiên Chúa’’ (Ep 5,5) Phải lựa chọn một trong hai. Chúng ta không thể tôn thờ đồng tiền đến nỗi để cái quyền của đồng tiền sai khiến chúng ta, và cái quyền do đồng tiền của ta sai khiến người khác cách thiếu bác ái, hoặc yêu cầu người khác vì tiền mà đồng lỏa với sự dữ. Chỉ có Chúa mới là chủ đích thực của đời sống chúng ta. Tiền bạc là do Chúa ban để chúng hưởng dung mà phụng sự Chúa. Thánh Phaolô khuyên rằng: “những người giàu có ở trần gian này, anh em hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm 6,17). Vậy, vấn đề không phải là giàu hay nghèo mà là việc đặt tương quan của ta với của cải vật chất. Ưu tiên của tôi là cái gì: Thiên Chúa và anh em đồng loại hay tiền bạc.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN C (x. CN 25 TN năm C, CN 28 năm B)

người nhà giầu và anh nghèo khó Lazarô

Bài đọc 1 (Am 6,1.4-7)

Ngôn sứ Amos đã cho chúng ta thấy: Có những người chỉ biết an phận, chỉ thấy mình được an toàn là không còn nghĩ đến những người khác, không còn lo lắng đến đất nước. Họ không màng đến những gì đang xẩy ra chung quanh họ, anh em đang đói khát, nghèo khổ, đau đớn hay dân tộc đang lâm nguy họ cũng chẳng màng.

 Ông đã cảnh cáo các vua chúa nếu cứ tiếp tục hưởng thụ một lối sống sa đoạ, sẽ có ngày đền tội bằng một cuộc đời lưu đày vất vả.

 Bài đọc 2 (1Tm 6,11-16) Thánh Phaolô đã khuyên ông Timôthê hãy cố gắng sống công chính, đạo đức, giầu lòng tin và lòng mến. Để được sống đời đời, hãy làm chứng cho Ðức Kitô, chính vì thế mà Thiên Chúa đã kêu gọi ông. Chúng ta cũng đã được kêu gọi để trở thành Kitô hữu, thành chứng nhân của Ngài.

Bài Tin Mừng (Lc 16,19-31) Số phận đời sau

  1. Kiếm tiền và sử dụng tiền là những vấn đề rất quan trọng trong cuộc sống. Bởi thế, hôm Chúa nhựt tuần trước Chúa Giêsu đã đề cập đến tiền bạc rồi, và hôm nay Ngài lại đề cập đến nó một lần nữa. Ngài khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời.

Tại sao người phú hộ lại không biết có Lazaro trước cửa nhà mình? Thưa vì không để ý. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, vô tâm, vô cảm, quá hờ hững. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ đó. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục. Chúng ta vừa khám phá ra một điểm đặc biệt của Tin Mừng: chúng ta không chỉ phạm tội do việc làm, do lời nói, do ý tưởng, mà còn có thể phạm tội do quá hững hờ với người khác nữa, và tội hững hờ này trong những hoàn cảnh quan trọng cũng có thể trở thành tội trọng. Ông nhà giàu có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.  Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.

 

  1. Suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy, nếu chỉ làm những việc phải làm, nếu chỉ dừng lại ở mức độ công bình, mà không tiến tới mức độ bác ái, con người vẫn chưa sống xứng với “đạo làm người”, sẽ đánh mất đi “lòng nhân đạo” và sẽ trở thành ích kỷ. Hiểu như vậy, cha ông chúng ta đã thường dùng những câu châm ngôn để nhắc nhở: “Chia cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”. Về phương diện tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, bác ái không phải có tính cách “nhiệm ý”, nhưng là một điều luật căn bản và quan trọng, như Chúa Giêsu tuyên bố: “Đây là một giới răn mới”. Là một điều luật, một giới răn, bác ái mang tính cách bắt buộc, và mọi Kitô hữu phải tuân giữ. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng thể vào được Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, «xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng». Định mệnh đời sau của mỗi người hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào tinh thần bác ái.
  1. Thiên Chúa tạo dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng dùng. Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa hợp lý, khiến cho xã hội còn nhiều bất công: «kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra». Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai được cơ chế xã hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách rất hợp pháp, phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là những người gặp cảnh cùng quẫn. Bác ái là trả lại cho người nghèo những gì mình đã chiếm đoạt của họ; những gì mình đã nhanh tay chộp lấy, nhiều khi lại lấy quá dư thừa: đó là công bằng

Tại sao Chúa Giêsu lại sống và chết trong cảnh khó nghèo cùng cực như vậy? Chúa muốn chúng ta đi tìm sự sang giầu thực sự trên Vương Quốc của Người, nơi “trộm cắp không bén mảng, mối mọt không đục phá’’(Lc 12:33), hơn là tìm những sự hư vô (vanity) giả tạo ở đời này.

Ðối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được (Mt 19,26). Có nghĩa là, có một sự đối lập rất mạnh giữa một người giàu có và Nước Trời đến nỗi nếu chỉ bằng sức của con người thì dường như vô vọng ; nhưng nếu ta kể đến ơn trợ giúp của Thiên Chúa hằng ban liên tục và dồi dào cho nhân loại thì nó không còn là vấn đề nữa.

  1. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo. Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi. Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn. Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống. Thực trạng của thế giới ngày nay và đặc biệt của xã hội chúng ta đang sống cho thấy rõ nguy hại của lòng tham mê tiền của, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17). Không có lòng bác ái nghĩa là không biết yêu thương và chia sẻ với người khác những gì mình có dư thừa thì không thể ở trong tình yêu của Thiên Chúa như Thánh Gioan đã dạy: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Jn 3:17).  Không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương đồng loại. Chúa là tình yêu. Ai không yêu thì không thuộc về Thiên Chúa (x. 1 Ga 4, 16). Chính tình yêu thiếu vắng nơi người giàu có đã là nguyên nhân khiến người đó hư mất. Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Nhưng yêu thì không thể chỉ nói suông bằng lời, qua môi miệng mà phải thể hiện bằng việc làm cụ thể để chứng minh. “Ta đói mà các ngươi không cho ta ăn” (Mt 25,42).

 Sự kiện tình yêu thiếu vắng đã chôn vùi người giàu có trong sự hư mất, điều đó ta thấy rõ khi so sánh bài Tin Mừng hôm nay với Mt 25,31-46:

+ “Ta đói mà các ngươi không cho ta ăn” (Mt 25,42).  La-da-rô “thèm được những mảnh vụn trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho no” (Lc 16,21), trong khi người giào có “ngày ngày yến tiệc linh đình” (c.17).

+ “Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước” (Mt 25,43).  “Lại có một người nghèo? nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16,20).  La-da-rô không được tiếp đón nơi nhà người giàu có nên phải nằm ngoài cổng, chỉ có bầy chó đến liếm láp.

+ “Ta trần truồng mà các ngươi không cho mặc” (Mt 25,43).  Người giàu có, ngược lại “mặc toàn lụa là gấm vóc” (Lc 16,19).  La-da-rô bị loại ra ngoài cổng ăn mặc rách rưới.

+ “Ta đau yếu? mà các ngươi đã không thăm viếng” (Mt 25,43).  La-da-rô với “mụn nhọt đầy mình”, thế mà người giàu có chẳng quan tâm.  Chỉ có lũ “chó đến liếm ghẻ chốc anh ta.”  Vì vậy các người đó “sẽ phải vào cực hình đời đời” (Mt 25,46).

  1. Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo Ladarô được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, không hề than thân, trách phận, oán trời, hận đời và luôn trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ tôi “. Lazarô được rỗi chắc chắn cũng phải có đức tin, cũng phải mến Chúa yêu người, chứ không phải chỉ ở trong cảnh cùng khổ là tự nhiên hay tất nhiên sẽ được cứu độ. Hình ảnh Lazarô ngồi trong lòng tổ phụ Abraham là cha của những kẻ tin tưởng cũng đủ chứng tỏ Lazarô đã sống đức tin trong đời này.
  1. Ðức Giêsu trả lời qua tổ phụ Áp-ra-ham rằng “Chúng đã có ông Môsê và các ngôn sứ thì chúng cứ nghe lời các vị ấy” (Lc 16,29). Ðức Giêsu cũng nói điều đó với chúng ta hôm nay là: Ðừng chờ xảy ra những phép lạ để bắt đầu mến Chúa và yêu người! Hãy mở sách Phúc Âm ra sẽ thấy ở đó bài học về yêu thương. Ðức Giêsu thường khuyến cáo người ta đưa lời Người dạy ra thực thi: “Hãy làm như vậy thì sẽ được sống” (Lc 10,28-37). Nếu họ không nghe Mô-sê và các tiên tri thì dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin”. Mà toàn bộ luật Mô-sê và lời các tiên tri dạy gì, nếu không phải được tóm gọn trong tinh thần mến Chúa yêu người, đúng như Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 22 câu 40: “Toàn thể lề luật và lời các tiên tri được dựa vào hai giới răn này”. Vậy thành phần hư đi nói chung chính là thành phần không mến Chúa yêu người.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17). Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm…Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’. Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Có thể là do tự cao tự mãn, vì mình học cao biết rộng không cần ai dạy; có thể là do có quyền có chức, không muốn ai chỉ bày vì như thế là mình kém phẩm; có thể bởi những lý do khác, nhưng cái lý do mà dụ ngôn này muốn nói chính là sự giàu có, nhiều tiền, đầy đủ của cải vật chất, đủ đầy tiện nghi. Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)… sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta

  1. Người phú hộ và Ladarô trong dụ ngôn hôm nay thuộc hai thế giới khác hẳn nhau: Một bên mặc toàn lụa là gấm vóc; bên kia rách rưới tả tơi’ một bên như sống ở thiên đường trần thế; còn bên kia như sống ở hỏa ngục trần gian. Hai người ở sát cạnh nhau nhưng hoàn toàn xa cách nhau. Thiên Chúa và loài người cũng thuộc về hai thế giới khác nhau vô cùng. Nhưng Con Thiên Chúa đã ra khỏi thế giới của Ngài để bước vào thế giới chúng ta. Thật là một tình thương to lớn vô cùng! Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh chị em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.

Có rất nhiều người ở bên cạnh chúng ta nhưng thuộc về một thế giới khác hẳn chúng ta cho nên chúng ta không hiểu họ, không nhận ra họ, thậm chí không ý thức đền sự hiện diện của họ. Có khi nào chúng ta chịu khó ra khỏi thế giới của mình để bước vào thế giới của họ chưa? Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này. Vực thẳm của âm phủ, vực thẳm vô cực mà chẳng ai có thể qua lại được, đó chính là nỗi bất hạnh của những người sống tham lam, ích kỷ và thiếu lòng bác ái.

Từ nhà ông phú hộ đến chỗ người ăn mày Lazarô chỉ khoảng vài bước, cách nhau chỉ có cái cổng thôi. Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và giúp đỡ cho người hành khất Lazarô luôn nằm chờ đợi. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người. Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó bị ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng. Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận. Đời này và đời sau làm nên hai thứ khoảng cách. Khi còn sống ở trần thế, giữa hai người có một khoảng cách rất gần. Trong thế giới mai sau, khoảng cách giữa hai bên xa vời vợi, như lời tổ Phụ Abraham nói: “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16, 26).

Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo. Đọc Tin mừng, chúng ta phải ngạc nhiên, vì có những tội ta xem là lớn và quả thật nó cũng gây tai hại thế mà Chúa Giêsu bỏ qua và tha thứ dễ dàng, cả đến tội ngoại tình như chuyện người đàn bà bị bắt quả tang trong Tin Mừng Gioan thì Chúa Giêsu lại ngõ lời rất nhân từ: “Ta cũng không kết tội chị. Hãy về và đừng phạm tôi nữa”. Trái lại, Ngài mạnh mẽ lên án sự vô tâm, sự dửng dưng trước người nghèo, người khốn khổ, người tội lỗi.

Lạy Chúa, chúng con là những con người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nghĩ về mình, vơ vào mình để hưởng thụ, mà không màng chi đến nỗi thống khổ của anh chị em con. Chúng con cũng đang tự xây cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa giàu và nghèo, làm cho chúng con xa cách, không thể đến được với Chúa và tha nhân. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con biết lấp đi vực thẳm ngăn cách đó, cho chúng con đến được gần Chúa và gần anh chị em nghèo khổ, để cho cuộc sống mai sau chúng con được vào nơi mát mẻ bên cạnh tổ Phụ Abraham và trước nhan Chúa.

CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN C

Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải- chúng tôi là những đầy tớ vô dụng

Bài đọc 1

Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Chúa làm ngơ. “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu van mà Ngài chẳng đoái nghe”. Cuối cùng Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính. “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách.

Nếu bạn yêu mến Chúa thật sự, bạn có thể bày tỏ cảm nghĩ của lòng mình như vị tiên tri. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta gặp hoàn cảnh bế tắc, chẳng biết cầu cứu nơi đâu. Thì Thiên Chúa là Đấng cứu giúp duy nhất, Đấng vẫn sẵn sàng nghe chúng ta không những cầu nguyện mà cả phàn nàn nữa. Nào ai khác có quyền năng thay đổi tình thế? Giống như Kha-ba-cúc, chúng ta nhìn vào những cay đắng của thế giới với đôi mắt van xin: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, chúng con cầu cứu mà Ngài chẳng đoái thương?”.

2 Timothêô 1:6-8, 13-14-Phaolô căn dặn ta phải canh giữ đức tin và bền vững trong việc tuân giữ lời hứa khi chịu Phép Rửa tội (2Tm 1:13). Thánh Phaolô đã dặn Timôthê rằng với đức tin và đức mến của một người kết hợp với Đức Kitô thì cuộc đời của anh sẽ tốt đẹp. Nhờ Thánh Thần ngự trong mỗi người thì chúng ta sẽ không nhút nhát, được đầy tình thương và sức mạnh.

Tin Mừng (Lc 17, 5-10) Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu: a/ Về sức mạnh của Đức tin; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.

  1. Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta.

Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nói: “Vô tri bất mộ” – Không biết sẽ không yêu. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại cho thấy về phạm vi đức tin không giống như vậy: Các Kinh sư và các biệt phái tuy am hiểu Kinh Thánh, nhưng họ đâu có tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, đang khi những người ngheo đói, bệnh tật, tội lỗi… tuy ít học, nhưng lại vững tin nơi Nguời. Như vậy cho thấy đức tin không luôn đi đôi với sự khôn ngoan thế gian nhưng là một ơn ban của Chúa, như lời Đức Giê-su đã ngợi khen Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25). Do đó, muốn có đức tin vững mạnh chúng ta phải cầu xin như các Tông đồ trong Tin Mừng hôm nay đã xin với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).

Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ân Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sức mạnh của đức tin còn có một khả năng đặc biệt là chữa lành; không những chỉ chữa lành thân xác, mà còn chữa lành cả tâm hồn; đáng lưu ý nhất vẫn là khả năng chữa lành tâm hồn. Chẳng vì thế mà Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Nhờ lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,15). Cầu nguyện để củng cố đức tin. Có đức tin chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Hay nói cách khác, như trong thư Thánh Phaolô gửi cho Timôthê là người con thiêng liêng và cũng là cộng sự của ngài rằng: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1Tm 5,8).

Trong cuộc sống chúng ta cần có đức tin mạnh mẽ, vì đức tin có sức chữa lành: “Ông đã tin sao thì hãy được như vậy” (Mt. 8:13). “Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48). “Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy” (Mt. 15:28). “Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Hãy đi bằng yên!” (Lc. 7:49) “Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Mc. 10:52). “Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc. 17:19). “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn. 14:12). Khi về Nazarét, Đức Giêsu không làm được nhiều phép lạ nào. Tin Mừng Matthêu nêu rõ lý do: «vì họ không tin» (Mt 13,58). Đức Maria được bà Êlizabét khen: «Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em» (Lc 1,45). Như vậy, điều khiến cho Đức Maria có phúc chính là Mẹ đã dám tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có phúc nếu chúng ta dám thật sự tin vào Thiên Chúa như Mẹ.

  1. Khi yêu ai, chúng ta luôn tin vào người đó. Cũng vậy, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.  Tin và Yêu là hai động từ luôn gắn kết vào nhau. Trong mối tương quan trần thế, nếu muốn tin ai thì việc đầu tiên ta phải có chút cảm tình với người đó, từ cảm tình, dẫn đến niềm tin, từ niềm tin ta có thể cùng hợp tác kinh doanh, cùng làm việc chung trong môi trường nhà đạo cũng như đời; …Mối tương quan giữa Thiên Chúa và ta cũng thế, Ngài yêu, Ngài mới sinh dựng nên ta, khi ta lỗi lầm, sa ngã Ngài vẫn yêu và tin ta, bằng chứng là Ngài đã xuống trần ở cùng ta và chết vì yêu ta. Trước khi trao quyền chăn chiên cho Si-mon Phê-rô, Chúa Phục Sinh đã ba lần sát hạch ông về lòng mến dành cho Người: Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (x. Ga 21,15-17). Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng mến Chúa cho chúng ta.
  1. Tại sao các Tông đồ “Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con”? Nếu nhìn lại từ đầu đoạn 17, chúng ta sẽ tìm ra lý do. Câu 1 Chúa nói về gương mù, gương xấu: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn”. Tiếp theo là về việc sửa lỗi và tha thứ. Một công việc hết sức tế nhị và khó khăn, nó đòi hỏi cố gắng vượt bực. Luật chung là 3 lần (quá tam ba bận). Luật Do thái 4 lần. Thánh Phêrô xin 7 lần. Nhưng Chúa Giêsu nói 70 lần 7. Nghĩa là phải tha thứ luôn, đừng nuôi lòng hận thù. Công việc hoàn toàn vượt khỏi khả năng loài người! Cho nên các Tông đồ cảm thấy Đức tin của mình quá bé nhỏ để có thể theo đuổi được đòi hỏi của Chúa Giêsu. Họ cảm thấy mình bất lực. Họ xin thêm Đức tin là điều hiển nhiên. Đây cũng là trường hợp của các tín hữu mọi nơi, mọi thời.

Các ông nghĩ rằng nếu có thêm đức tin, thì mọi sự sẽ được dễ dàng, tốt đẹp mà không còn vấn đề. Chúa Giêsu liền chỉ cho họ thấy rằng họ đã hiểu lầm về đức tin. Vấn đề ở đây không phải là người ta cần có thêm đức tin, nhưng là cần có phẩm chất của đức tin, nghĩa là cần có đức tin vững mạnh và kiên trì. Người có đức tin vững mạnh vào Chúa thì không tin nhảm nhí, không tin vào bói quẻ, vào vận may rủi. Qua dụ ngôn hạt cải, Chúa nói rõ với các môn đệ là Chúa không cần lượng cho bằng phẩm- đức tin bé bằng hạt cải thôi. Chúa không muốn các môn đệ có thêm Đức tin hay nhiều đức tin, nhưng điều Chúa muốn là Đức tin của các môn đệ phải vững mạnh, và tinh ròng. Có nghĩa là tin không chút hồ nghi, tin hoàn toàn, tin tuyệt đối.

Ðể làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ. Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.

Tin là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên. Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được (Ga 15,5). Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự, như thánh Phao-lô đã từng cảm nghiệm: “Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Ầy cũng bởi vì lúc đó, năng lực mà tôi sử dụng không phải đến từ bản thân bất toàn của tôi, mà đến từ Thiên Chúa, nguồn của mọi sức mạnh trong vũ trụ, là Đấng Toàn Năng “không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).

  1. Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không được kể công, cũng không đòi chủ biết ơn. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.

Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.

Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa. Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm.

  1. Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công. Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.

Với người tôi tớ vào thời Ðức Giêsu, việc cày bừa hay chăn chiên ở ngoài đồng cũng như việc dọn cơm và hầu bàn ở trong nhà, đó là những chuyện hết sức bình thường.  Không người tôi tớ nào lại dám nghĩ tới việc chủ phải cám ơn mình về những việc bổn phận đó.  Phương chi là các môn đệ của Ðức Giêsu trong tương quan với Thiên Chúa trong Nước của Người.  Họ càng phải tỏ ra khiêm tốn hơn biết chừng nào đối với những việc bổn phận họ đã làm. Dù là bổn phận đề phòng để tránh không nên cớ vấp phạm cho người khác (Lc 17,3-4; 11,4).

Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Ðơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm. Khó biết chừng nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp
mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu. Những việc đạo đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Ðó là sa ngã của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta. Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14). Công trạng, công đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa. Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn trước anh em. Người anh cả chỉ thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.
Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình. Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao. Thiên đàng không phải là sự trả công của Thiên Chúa. Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.
Nếu thánh Giacôbê cho rằng “đức tin không hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay lại hướng các môn đệ đến cách thức phục vụ tha nhân như là hiệu quả của lòng tin, trong tinh thần khiêm tốn: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”.

Chúa muốn các môn đệ luôn thâm tín rằng cho dầu đức tin của mình có tinh ròng thế nào đi nữa, có bảo cây nhổ lên rồi đi trồng dưới biển và cây liền vâng theo, thì cũng chớ tự hào là do tài sức riêng mình; nhưng chính là nhờ ơn Chúa. Hay nói một cách cụ thể hơn là việc chúng ta chu toàn bổn phận làm Kitô hữu không hẳn bảo đảm phần rỗi cho chúng ta, nhưng chúng ta phải luôn chân nhận rằng vận mệnh đời đời của chúng ta là do chính ơn Chúa ban, do tình Chúa yêu thương.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8) “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Điều quan yếu để đức tin mang lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta chính là nhìn nhận sự nhỏ bé, bất toàn của mình để cậy trông vào Thiên Chúa. Nhìn nhận mình chỉ là một đầy tớ vô dụng nhưng được Thiên Chúa yêu thương ân ban biết bao ơn lành hồn xác. Sức khỏe, trí tuệ, sắc đẹp, công việc đều là ân ban của Thiên Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn của mình để biết trông cậy vào ơn Chúa và biết tạ ơn mỗi khi được nhận lãnh. Được phục vụ Chúa là một vinh dự và hạnh phúc lắm rồi. Giả như ta có làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN C

Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao?

Bài đọc I Tướng Naaman không phải là người Do Thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Ông tuyên xưng Đức Tin trước mặt mọi người: “Khắp cả và thiên hạ, không đâu có Thiên Chúa, trừ phi là ở Israel, và cụ thể từ nay tôi không dâng thượng hiến và lễ tế cho thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa!” Ông đã nhận ra từ đất Israel, đất Giê-ru-sa-lem là nơi phát xúât ơn cứu độ, cho nên khi trở về Sy-ri-a, quê ông sinh sống, ông cũng chỉ muốn thờ phượng Chúa trên đất Is-ra-el, do đó ông xin ngôn sứ Ê-ly-sê ít đất bằng hai con la chở về nhà để lập bàn thờ kính Đức Chúa.

Bài đọc II (2 Tm 2, 8-13)

Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài. Phaolô khuyên nhủ Ti-mô-thê, vị lãnh đạo Giáo hội, nhớ đến Đức Giêsu Kitô. Tưởng nhớ Đức Giêsu có nghĩa là sống với Ngài, bảo đảm cho chúng ta vương quốc và ơn cứu độ của Ngài. Tưởng nhớ là dấu chỉ của sự quý chuộng và lòng biết ơn.

Tin Mừng (Lc 17, 11-19)

  1. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
  1. Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa. 9 người cùi Do Thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

Trong một chỗ khác trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman: “Cũng thế, trong thời tiên tri Êlisê có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai trong họ được chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.”, để ca ngợi lòng tin của viên sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng hỏi “Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại quốc này?”

Cả ngàn người đã được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa phải vác Thánh giá, chỉ có một người bằng lòng vác đỡ. Người đó cũng lại là người ngoại! Cả một dân tộc đã chịu ơn Chúa, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người dám công khai lên tiếng xưng – tụng là người vô tội. Người đó lại là người ăn trộm! Người ta có thể kêu cầu Chúa nhiều lần, nhiều ngày, để có càng nhiều ơn ích, bổng lộc, và may lành càng tốt, nhưng khi được rồi, người ta dễ quên, hoặc chỉ tạ ơn một cách quá đơn sơ. Khi gặp thử thách, khốn khó, người ta dễ chạy đến với Chúa để xin hết ơn này với ơn khác, nhưng khi được rồi thì có thể quên một cách dễ dàng. Câu truyện Tin Mừng hôm nay cho thấy rõ sự ít ỏi ấy, đến độ Đức Giêsu phải thắc mắc: “Không phải cả mười người đều được sạch sao?

Chúa Giê-su ngạc nhiên khi chỉ có một người ngoại bang được Ngài chữa lành bệnh trở lại cám ơn Ngài, Ngài ngạc nhiên là phải thôi, bởi vì người ngoại bang ấy là người không biết Thiên Chúa là ai, không biết lề luật Mô-se là gì, và nhất là ông ta bị người Do Thái coi là quân ngoại đạo, tội lỗi!

Người cùi Sa-ma-ri nhận ra Đức Giê-su Ki-tô, nên đã trở lại sụp lạy dưới chân Ngài, để tôn thờ Ngài là Chúa duy nhất (người Do-Thái xưa không sụp lạy ai trừ Thiên Chúa, mà người cùi Sa-ma-ri này đã làm). Anh vừa được ơn thân xác vừa được ơn Đức Tin, để cả hồn lẫn xác được sự sống đời đời, như Lời Đức Giê-su nói với anh: “Đứng dậy về đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Chính đức tin đã làm cho anh hết bệnh cả về thể xác và tâm hồn. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên Chúa. Trái lại, 9 người Dothái thì coi ơn được chữa lành là chuyện đương nhiên mà họ đáng được hưởng, nên họ không cần trở lại cám ơn, và cũng chính vì thái độ vô ơn đó mà họ không được cứu độ.

  1. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể… Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giê-su dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ. Dự thánh lễ trong tâm tình tạ ơn như thế, lòng ta sẽ tràn đầy niềm bình an và vui sướng.

Nếu tôi chỉ nói với Chúa hai chữ TẠ ƠN, rồi tôi lại cúi gập mình xuống thờ lạy bụt thần, thờ thần tài, thờ thần xác thịt, thờ thần danh vọng … thì lời TẠ ƠN của tôi thật vô ích! Tôi phải đặt Thiên Chúa lên trên hết mọi sự, trên tiền tài, danh vọng và trên tất cả những thú vui xác thịt … lúc đó thì mới gọi là lời CÁM ƠN chân thành. Tôi phải bắt chước người Sa-ma-ri! Phải khiêm tốn, sấp mình xuống trước mặt Chúa, phải đến trước Ngài diện đối diện, qua việc tham dự thánh lễ, tham dự các giờ Chầu Thánh Thể, ở đó tôi sẽ cùng với cộng đoàn mở miệng ca khen, thờ lạy và tôn vinh Thiên Chúa thì lúc đó lời cám ơn của tôi mới gọi là trọn vẹn được.

  1. Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn. Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta: do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa, mọi sự chúng ta có là do Chúa ban; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn. Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình: chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Lời tạ ơn và lối diễn tả niềm tin sẽ mang lại cho chúng ta ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những ai tin cậy Ngài.Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống. Đây là điều Giáo Hội thường thực hiện và luôn nhắc nhở con cái mình qua lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con”.
  1. Biết ơn và cám ơn không chỉ ở lãnh vực và cấp độ cá nhân, mà cả ở lãnh vực và cấp độ quốc gia. Lễ Tế Đàn Nam Giao của các vua triều Nguyễn là nét đẹp của văn hóa Việt Nam: Ngày đầu năm nhà vua dâng lễ vật và lời tạ ơn lên Trời Đất, thay cho bá quan văn võ và thần dân. Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) cuôi tháng 11, là nét đẹp của văn hóa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lễ này đã có từ thời những người Anh đến lập nghiệp trên mảnh đất mênh mông và trù phú này.

Người Việt Nam gọi là hiếu nghĩa, hay là chữ Hiếu. Điều răn thứ IV dạy chúng ta phải có hiếu, phải biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên. Ân nghĩa là một truyền thống luân lý đạo đức được truyền từ ngàn xưa đến nay. Bất cứ dân tộc nào, đất nước nào cũng đều lấy ân nghĩa làm trọng yếu. Cho nên tục ngữ có câu: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. “Công cha như núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. “Ai mà phụ nghĩa quên công, Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với nhau. Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng biết ơn. Văn hóa cám ơn được thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người khác giúp đỡ, dù chỉ là nhỏ bé thôi. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe. Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói. Xưa lẫn nay và bất cứ xã hội nào, người ta đều lên án kẻ vong ân, “ăn cháo đá bát”, “vắt chanh bỏ vỏ”…  

  1. Người ngoại đạo xem ra bị coi là tội lỗi là xấu xa trước mắt người Do-thái, đối với Chúa Giê-su họ lại là những người thực thi đạo. Họ chưa được nghe rao giảng, nhưng lòng họ đã rất gần Chúa, Ðấng họ tin chắc chắn sẽ giúp họ. Bài đọc 1 và bài TM đều đề cao lòng biết ơn của những người ngoại giáo. Chúa Giê-su đã quả quyết viên sĩ quan bách quản, người ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ hơn bất cứ người Ít-ra-en nào. “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, Tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế” (Lc 7, 9). Hay nói về người đàn bà “ngoại” Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a, Chúa khen bà: “Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (Mc 7, 29). Hoặc bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su đã biết rõ người đàn bà đang nói với mình là ai, Người thấy hết cả cõi lòng của người đàn bà, đến nỗi người đàn bà đã chạy vào thành và nói với người ta: “Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðức Ki-tô sao?” (Ga 4, 29). Còn đối với người Sa-ma-ri nhân hậu, Chúa đã quả quyết: chính ông ta là người đã chạnh lòng thương và bác ái với người đồng loại chứ không phải là vị tư tế, thầy Lê-vi hay bất cứ người Do-thái nào khác. (Lc 10, 29- 37).

Người Ki-tô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn các tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt bằng họ hoặc không hơn họ, thì việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có phần nào nực cười! Đạo Phật dạy cho chúng ta về Tứ trọng ân – bốn ân quan trọng và cao quý thức tỉnh người con Phật phải đền đáp cho vuông tròn. Bốn ân ấy được coi là những đạo lý quan trọng của con người, là nền tảng đạo đức căn bản của con người. Người Phật tử thường được các sư tăng nhắc nhở, nhất là vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha mẹ, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn tổ quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Những người lương dân luôn tỏ lòng thành kính với Thần Phật. Hằng tháng họ luôn luôn sửa soạn mâm hoa quả, chén cơm, bát chè cúng vái để tỏ lòng biết ơn trời đất. Một người vô ơn, thường xuyên vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và đúng đắn. Nhưng mỉa mai thay, biết bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô ơn với những người làm ơn cho mình nhiều hơn người thường!

  1. Khi chúng ta sinh ra, Chúa Cha trìu mến gửi đến một thiên thần bản mệnh để cầu nguyện cùng ta. Khi chúng ta nhận phép rửa, Chúa Cha ban cho ta một thánh quan thầy để ngài nâng đỡ ta. Khi chúng ta chịu phép thêm sức, Chúa Cha cử Thánh Linh đến để thánh hóa ta. Khi chúng ta biết xưng tội, Chúa Cha gửi Ngôi Hai đến hòa giải tội lỗi cho ta. Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt máu Ngài, bằng Lời hằng sống. Chúa chết để đền tội cho chúng ta… và muôn vàn ơn lành Chúa ban xuống trên chúng ta. Ngài luôn quan phòng, giữ gìn ta trong mọi nơi, mọi lúc… Thiên Chúa còn ban cho ta biết bao điều cao cả qua cha mẹ, qua anh chị, qua thầy cô, qua bạn hữu, qua tất cả những người đã giúp đỡ và làm ơn cho ta… Thể hiện lòng biết ơn là một nghĩa vụ hàng đầu trong cuộc sống con người. Hãy tạ ơn Chúa trong suốt cuộc đời.

Chúng ta không thể tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Thiên Chúa nếu chúng ta không biết ơn Ngài, không yêu mến Ngài, không nhớ đến ân huệ của Ngài. Càng biết ơn Chúa, chúng ta càng gắn bó với Ngài. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa… Trước khi đi ngủ, …. Ước mong càng thêm nhiều người có tâm tình tạ ơn Thiên Chúa ngay từ lúc hừng đông. Vì có thể nói, mỗi ngày là một sinh nhật cho mỗi người. Buổi sáng được sinh ra, để sống, ban đêm lại về trong giấc ngủ, hình ảnh của sự chết. Phải tạ ơn Thiên Chúa, sáng mai thức dậy biết ta còn, biết ta lại được sinh ra, được sống thêm một ngày mới…. Cả bạn và tôi đều không thể quyết định được sự sống còn của chính mình trên đời này.

  1. Tạ ơn bằng cách sám hối. Người con hoang đàng, ông Gia kêu, người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Phêrô… Những người này đã bày tỏ lòng biết ơn bằng cách sửa sai, phấn đấu hoàn thiện bản thân.

Tạ ơn bằng cách bác ái. Thánh Phaolô nói: “Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa” (2Cr 9,11-12).

Tạ ơn bằng cách suy gẫm. Mỗi giây phút qua đi trong đời ta, chính là ân sủng của Chúa ban, nhờ đó ta có thể nhận ra Thiên Chúa tốt lành dường bao, từ bi thế nào và tình yêu của Ngài ra sao đối với con người. Rồi ta cũng nhận ra sự nhỏ bé yếu đuối và tương đối của mình, cùng với những tật xấu cần được ơn Chúa tẩy rửa. Và cũng nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa đang hiện diện nơi tha nhân, trong vũ trụ thiên nhiên. Đức Mẹ siêng năng suy gẫm Lời Chúa. Ta cũng được mời gọi để làm như thế, khi tích cực lắng Nghe Lời Chúa trong Phụng vụ, trong Thánh kinh, trong kinh nguyện…để cầu nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

  1. “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,20). Có rất nhiều Thánh vịnh tạ ơn… “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107,1) Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi (Tv 88). “Tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ vẫn một niềm thành tín” (Tv 99,5). Thánh vịnh 135 diễn tả rất hay: “Hãy tạ ơn Thần các thần, Chúa các chúa, vì chỉ có Ngài mới làm nên những kỳ công vĩ đại. Tv.75:2: Lạy Thiên Chúa, chúng con xin tạ ơn Ngài, tạ ơn Ngài và cầu khẩn Thánh Danh, kỳ công Ngài, chúng con xin kể lại. “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3:16); Mẹ Maria tạ ơn Chúa: Kinh Magnificat. Khi tạ ơn, ta cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa. Tất cả là hồng ân. Tập tạ ơn khi ta gặp đau khổ… Hội Thánh dạy chúng ta năng đi dâng lễ là để Tạ ơn Chúa. Thánh lễ là trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa. Cảm tạ hồng ân Chúa cũng phải là trung tâm điểm của đời sống tín hữu của chúng ta. Vậy Thánh lễ có một tầm quan trọng như thế bởi vì chỉ trong Thánh lễ, chúng ta mới tìm được một Tư tế xứng đáng, một bàn thờ trong sạch và một của lễ vẹn toàn. Vị Tư tế ấy, bàn thờ ấy, của lễ ấy chính là Chúa Giêsu. Chúng ta có tâm tình tạ ơn, chúc tụng Chúa khi dâng thánh lễ không?

Hãy bắt chước ông Gióp, sau khi Chúa cho phép satan cướp hết tài sản, con cái, và sức khỏe của ông, thì ông vẫn tạ ơn: “Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng danh Chúa” (G 1,21b) ; rồi ông nói với vợ : “Chúng ta biết đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận hay sao?” (G 2,10)

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta có nhận ra, không phải chỉ trong một ngày nhưng là mọi ngày, lòng biết ơn đối với Chúa và biết bao hồng ân Chúa ban cho chúng ta? Chúng ta kiểm điểm xem chúng ta có tỏ ra biết ơn những người đang sống chung quanh? Trong giao tế đời thường, người đời luôn biết xử đẹp với nhau. Vậy mà trong tương quan với Chúa, Chúa ban cho chúng ta vô vàn phúc lộc, chúng ta đã làm gì để đáp lại ân lộc Chúa chưa? Chúa ban cho chúng ta một tuần 7 ngày, mỗi ngày có 24 giờ, vậy mà chúng ta vẫn còn tiếc xót dâng lại cho Chúa một vài giờ mỗi tuần để cùng ca tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa. Nếu một ai đó cho chúng ta một món qùa dù rất nhỏ, chúng ta sẽ vui vẻ nhận lãnh và cám ơn rối rít. Thiên Chúa quan phòng sự sống của chúng ta từng giây từng phút, thì chúng ta làm như mình được quyền hưởng mà không cần mang ơn như 9 người phong cùi trong bài TM hôm nay. Mỗi người hãy dừng lại đôi phút dâng Chúa lời cảm tạ.

Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện.

Hồng ân Thiên Chúa bao la.

Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người.

CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN C

Cầu nguyện với niềm tin sắt đá

Bài đọc I (Xh 17, 8-13) Chuyện này kể về thời dân Do Thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc: Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện. Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng. Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê. Mặc dù mệt mỏi, Môsê vẫn cứ kiên trì cầu nguyện, nhờ sự giúp đỡ của bè bạn ông.

Bài đọc II (2 Tm 3, 14–4, 2): Khi khuyên nhủ Ti-mô-thê, Thánh Phao-lô nhắc nhở môn đệ thân tín của mình một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động truyền giáo: đó là lòng kiên định trong những giáo huấn và lời hứa của Thiên Chúa đã được trình bày trong Thánh Kinh. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ môn đệ thân tín của mình là Timôthê hãy can đảm và kiên nhẫn trong việc rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi, trong mọi lúc và bằng mọi cách.

Tin Mừng (Lc 18, 1-8) Tin tưởng và kiên trì sẽ được toại nguyện

  1. Một người bất công như viên thẩm phán trong bài Tin mừng hôm nay mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì. Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, là gặp gỡ Chúa, là sống hiệp thông sự sống của Chúa, là thưa chuyện với Chúa, là “vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy”, là nếm trước hạnh phúc thiên đàng. Cầu nguện để củng cố đức tin, giữ vững đức tin cho tới khi Chúa đến. Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc. Trong thời gian dài từ khi Đức Ki-tô về trời đến khi Người lại đến vào ngày tận thế, các tín hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của người Kitô hữu. Một đức tin không có cầu nguyện thì chỉ là một niềm tin vô ngã, vật chất.

Kiên trì chứng tỏ sự phó thác của ta trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta. Trước khi chúng ta làm việc gì, chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa để xin Chúa giúp chúng ta làm theo thánh ý Chúa và để kết hiệp với Chúa. Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình. Chúa hứa nhậm lời ta cầu nguyện nhưng là theo đường lối của Chúa như Người xin với Chúa Cha cất chén đắng khỏi Con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha (Lc 22:42).

  1. Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả chúng ta nữa. Nhiều lúc chính chúng ta đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin. Khi gặp khổ đau hoạn nạn, chúng ta thường hay than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa nâng đỡ. Cũng có những lúc chúng ta chỉ cậy vào sức riêng mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay của những kẻ nhiều quyền lực… mà không cậy dựa vào ơn của Chúa. Một thách đố lớn đối với đức tin của người tín hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Những con người khốn cùng, đau khổ, dường như Ngài không biết, không thấy; khi con người kêu cầu Ngài dường như Ngài không nghe không đáp lại. Chính vì biết rõ thách đố lớn lao đó, Chúa Giê-su không ngừng nhắc đi nhắc lại cho chúng ta cần phải kiên trì cầu xin, không nản lòng thất vọng. Nhiều lúc chúng ta chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý chúng ta xin. Tuy nhiên cần khẳng định rằng cầu nguyện không phải là để bắt Chúa thực hiện ý muốn của chúng ta, nhưng là để chúng ta biết cách thực thi thánh ý Chúa, nghĩa là để sống đức tin. Và xin đừng quên đức tin chính là chìa khoá dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giê-su: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
  1. Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì việc cầu nguyện được chia làm 4 giai đoạn: Ca ngợi và Tán Tụng Chúa vì những việc lạ lùng bao la vĩ đại Chúa đã thực hiện, Cảm tạ Chúa vì những ơn lành Ngài ban nhất là sự sống, Ăn năn vì những lỗi phạm hoặc quên sót và Cầu xin những sự cần. Như thế sự xin ơn là sau cùng trong việc cầu nguyện. Cầu nguyện đúng mực là kết hợp hài hòa giữa tiếng ngợi khen, chúc tụng, thống hối, cầu xin, tán tụng và lòng cảm tạ sâu sắc Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Cầu nguyện là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa. Cầu nguyện là tin yêu tuyệt đối vào Tình Yêu hải hà của Chúa.

Nếu hiểu sự cầu nguyện chỉ có nghĩa là cầu xin mà thôi, thì chúng ta sẽ không thể kiên trì trong sự cầu nguyện, không thể ưa thích đi dâng lễ cầu kinh lâu được. Đức Giê-su thì hiểu sự cầu nguyện một cách khác. Phúc âm đã nói đến việc Chúa cầu nguyện, ít nhứt là 20 lần. Chúa Giêsu cầu nguyện để biết được thánh ý Chúa Cha và suốt cuộc đời Chúa làm theo thánh ý Chúa Cha: Của ăn của Ta là làm theo ý Cha Ta. Này con đến để thực thi thánh ý Chúa…. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Ga Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người. Phần lớn sự cầu nguyện của Ngài là những lời chúc tụng, tán tạ ngợi khen Thiên Chúa Cha. Lần cuối đời, trong vườn Cây Dầu, trước viễn ảnh thập giá, Ngài đã cầu xin: “Lạy Cha, xin cho con được qua chén đắng nầy.” Nhưng rồi Ngài vội thêm liền: “Con xin vâng theo ý Cha, không phải theo ý con.” Hiểu được ý nghĩa sự đọc kinh cầu nguyện là như thế, chúng ta mới ưa thích sự cầu nguyện, mới kiên trì trong sự cầu nguyện được.

  1. Khi nói dụ ngôn này, Đức Giê-su không có ý nói phải cầu xin cho thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhậm lời, làm như thể Ngài cũng giống như ông quan kia, cứ phải để cho người ta xin cho thật nhiều thật lâu thì mới ban cho. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, chứ không phải khuyên ta cầu xin cho dài hay phải lập lại cho thật nhiều lần lời cầu xin của mình. Chính Ngài cũng đã khuyên: «Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin» (Mt 6,7-8). Phẩm chất của lời cầu nguyện nằm ở chất lượng chứ không phải số lượng hay thời gian cầu nguyện. Một lời cầu nguyện có giá trị trước mặt Thiên Chúa là một lời cầu nguyện thấm nhuần tinh thần tin yêu, xuất phát từ niềm tin tưởng và phó thác vào tình yêu, vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đồng thời từ tâm tình yêu thương đích thực của mình đối với Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể thành hành động. Một lời cầu xin rất ngắn, thậm chí không được phát thành lời, mà chỉ là tâm tình yêu thương tin tưởng như trên, thì giá trị gấp triệu lần những lời cầu xin dài dòng mà thiếu những tâm tình cần thiết ấy. Không khéo, chúng ta sẽ biến đạo của mình thành một «đạo xin», và tự biến mình thành những «kẻ ăn mày».
  2. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người. Trong thực tế, có nhiều điều chúng ta cố nài xin Chúa ban cho mình, vì tưởng là điều tốt cho mình, nhưng thực ra lại có hại cho phần rỗi đời đời của ta, nên vì tình thương mà Chúa đã không ban theo ý ta như Đức Giê-su đã nói: “Có người cha nào đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá?….”. Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Chúa ban cho ta con bọ cạp, trong khi có thể chính chúng ta lại xin con bọ cạp mà không hay biết. Con cá Chúa cho, nhưng nhiều lúc ta lại tưởng là rắn. Chỉ có Chúa mới biết rõ điều gì là tốt, là cần thiết, là thích hợp cho ta, và Ngài luôn yêu thương và quan phòng cho ta những điều “tốt đẹp và thích hợp.” Nếu Ngài ban cho, thì việc ban cho ấy chắc chắn là điều có lợi cho ta. Nếu Ngài không ban cho thì việc không ban cho ấy chắc chắn cũng vì ích lợi cho ta.

Cũng có người phải chịu những thử thách quá lớn trong cuộc sống, những đau khổ dồn dập khiến cho họ gần như mất đức tin, không còn tin rằng Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.  Họ đã kêu gào lên Chúa nhưng chỉ thấy Chúa thinh lặng. Đau khổ đã làm họ quên đi tiếng kêu xin của Đức Giêsu trên thánh giá: “Lạy Cha! sao Cha bỏ con?” Tiếng kêu xin ấy vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay. Ngài có thấy nỗi khổ của tôi không? Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thánh giá giúp ta tìm lại được niềm tin, giúp ta hiểu được phần nào mầu nhiệm của đau khổ. Chúa không hành động như người phù thủy đọc thần chú lập tức đau khổ biến mất. Nhưng Chúa luôn nâng đỡ chúng ta, ở ngay bên cạnh để cùng ta chịu đựng đau khổ của kiếp người như trước đây Chúa đã chịu đựng. Khi sống với niềm tin như thế, chắc chắn chúng ta cảm thấy bình an, có thêm sức mạnh để vượt qua đau khổ. Điểm nổi bật đáng nhớ trong bài đọc 1 đó là hậu quả của việc Môsê cầu nguyện. Hễ bao lâu ông dang tay cầu nguyện thì dân Do Thái thắng còn khi nào ông bỏ tay xuống và không cầu nguyện nữa thì dân Do Thái sẽ bị thua. Như thế dân Do Thái đã không chiến đấu một mình, trái lại có Chúa ở bên cạnh và cùng chiến đấu với họ.

  1. Hãy cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phao-lô đã dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là xin ơn theo kiểu vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là sự liệt kê những nhu cầu để xin Chúa ban theo ý riêng của ta. Nhưng cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng ta vâng theo thánh ý Ngài, noi gương Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Điều bảo đảm lời cầu xin của chúng ta sẽ được Chúa đón nhận đó là bởi vì Ngài chính là Cha nhân từ chắc chắn “sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài.” Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến. Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo. Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng.
  1. Nếu hiểu cầu nguyện là một cuộc tâm sự, là một cuộc trò chuyện, thì quả thực cầu nguyện là một điều rất dễ dàng và dành cho mọi người. Khi đến với Chúa, chúng ta cũng có thể trình bày về những niềm vui, những nỗi buồn, những đắng cay và những băn khoăn lo lắng chúng ta đã gặp phải. Và chắc chắn khi niềm vui được chia sẻ, thì niềm vui sẽ được nhân rộng hơn lên. Nỗi buồn được chia sẻ, nỗi buồn sẽ vơi đi. Chính những lời kinh xuất phát từ giữa lòng cuộc đời, từ những biến cố xảy ra hằng ngày, sẽ dễ làm cho chúng ta cầm trí và tránh đi thói quen máy móc chiếu lệ trong cầu nguyện. Như vậy, cầu nguyện là một việc rất dễ dàng mà bất cứ ai cũng đều có thể và phải làm được. Cầu nguyện là kết hiệp với Chúa, sống với Chúa, ý thức được sự hiện diện của Chúa.

Có nhiều cách để chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa của chúng ta. Có nhiều người cầu nguyện với Chúa qua kinh kệ được đọc râm ran cả ngày. Có người cầu nguyện cùng Chúa qua những bài hát Thánh Ca, hát theo hay nghe hát, để đem tâm hồn của mình lên cùng Chúa… Cầu nguyện theo thánh Augustinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau. Cầu nguyện không phải là vấn đề của kiến thức hay kỹ thuật. Cầu nguyện luôn đi đôi với đức tin và lòng mến. Vì thế phải cầu nguyện trong Thánh Thần (Rm 8,1), đơn sơ (Lc 18,15-17), khiếm tốn (Lc 18,14), trong thầm kín (Mt 6,6). Nhưng phút giây thinh lặng là những phút giây quan trọng để lắng nghe Chúa nói. Đỉnh cao của cầu nguyện là thinh lặng kính thờ Chúa.

CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN C

Hai người lên đền thờ cầu nguyện

Bài đọc I (Hc 35, 12-14. 16-18) “Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn”. Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.

Bài đọc II (2 Tm 4, 6-8. 16-18) Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết:

    * Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.

    * Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.

    * Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.

Tin Mừng (Lc 18, 9-14) Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống:

  1. Pharisêu -còn gọi là Biệt phái, là những người rất được dân chúng kính trọng vì đời sống đạo đức của họ. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật. Ngược lại, hạng người thu thuế thường bị mọi người coi khinh, vì họ phục vụ cho đế quốc Rôma và vì những gian lận có thể có của họ khi hành nghề.

– Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (kể tội người khác, “tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh. Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác.  Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt.  Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông, nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? (1Cr 4,7). Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa điều gì, bởi vì ông thấy mình không thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.

– Người thu thuế: xã hội Dothái thời Chúa Giêsu luôn xem là loại người tội lỗi cách công khai, bởi họ cách nào đó đã phục vụ quân Rôma xâm lược, bắt chẹt dân đen. Thu thuế, vì thế được xếp vào một trong những nghề bất hảo nhất, hết thuốc chữa của thời đại, không còn niềm hy vọng gì. Hơn ai hết, người thu thuế biết thân phận mình. Chính vì thế, bước vào nơi linh thánh, anh không dám tiến gần đến nơi cực thánh, chỉ tìm nơi khuất từ xa xa như thể ẩn mình trước Đấng tuyệt đối. Không giống như người Pharisêu vênh vang, kênh kiệu, anh chẳng dám ngước mắt lên trời như những người Do Thái khác khi cầu nguyện, tay không ngừng đấm ngực, miệng không ngớt lời thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế đứng đó và nói lên sự thật, rằng anh là con người tội lỗi, cần được Chúa xót thương. Anh đứng nơi ẩn khuất từ xa trong đền thờ vì cho rằng mình không xứng đáng để được bước đến gần thánh nhan Thiên Chúa. Anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”), giống như Tv 50, 17-19: “Lạy Chúa trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngượi khen Ngài. Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm. Con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giầy vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê…”. Chúa Giêsu cũng nói với các người Pharisiêu trong bữa ăn tại nhà ông Matthêu: “Hãy về học cho biết ý nghĩa câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần của lễ” (Mt 9:13).

Điều khiến cho một người nên công chính không phải là những việc tốt lành mà họ làm được cho bằng động lực đã thúc đẩy họ làm những việc ấy. «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,1-2). Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở nên một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Ðấng yêu thương tha thứ. Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công nghiệp của mình.  Chúng ta được cứu độ nhờ công nghiệp của Ðức Kitô. Mọi việc chúng ta làm, mọi sự chúng ta có đều là do Chúa ban. Người Pharisêu nhấn mạnh đến chuyện “tôi làm”.  Nhưng nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”, mà là chuyện “để Thiên Chúa tự do làm nơi tôi”.  Sau khi được thiên thần truyền tin, Ðức Maria đã nói: “Xin hãy xảy ra cho tôi như lời thiên thần truyền”, nghĩa là xin Thiên Chúa hãy làm nơi tôi điều Ngài muốn.  Ðó là tiếng xin vâng của Mẹ.

  1. “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14). Chúa Giê-su đã minh chứng cho lời Ngài dạy bằng chính đời sống vô cùng khiêm hạ của Ngài. Tiến trình hạ mình, tự huỷ và được vinh thăng của Chúa Giê-su đã được thánh Phao-lô tóm gọn trong thư gửi cho Phi-lip-phê: ” Ðức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người… và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Ðức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Pl 2, 6 – 11). Ðức Kitô được sai đến để “Loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Lc 4,18). Người tuyên bố rằng họ có phúc, bởi vì “Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Chúa Cha đã thương mạc khải cho những kẻ bé mọn điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết.  Ðức Giêsu đã chia sẻ kiếp sống của những người nghèo hèn, từ máng cỏ cho tới thập giá.

 

  1. Mục đích của dụ ngôn trong bài Phúc âm hôm nay là dạy cho chúng ta biết sự khác biệt giữa đạo đức thật và đạo đức giả. Như chúng ta nghe trong bài đọc 1: Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhượng vượt quá trùng mây. Nó luôn thấu đến tòa Chúa và mang lại kết quả. Thánh Luca nói rõ, Chúa dạy dụ ngôn này cho những kẻ tự hào cho mình là người công chính mà khinh khi người khác.

Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.

Kiêu ngạo khi dựa vào lề luật: “Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần, có nộp một phần mười hoa lợi. Tôi cũng không bất chính tham lam, không ức hiếp dân chúng, không làm những gì lỗi luật… Kiêu ngạo khi khinh thường người khác: Tôi không như…Người Pharisêu tưởng rằng ông có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô cho biết, «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rm 3,20; Gl 2,16). Nếu Chúa không nâng đỡ thì không ai có thể tồn tại và phát triển. Không có ơn Chúa thì chúng ta sẽ chẳng làm được sự gì tốt đẹp (x. Ga 15,5). Sự lầm lẫn khiến người biệt phái đã xa rời sự thật nền tảng này. Vị biệt phái không nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ vì ông ta không thấy mình cần được xót thương.

Khi chúng ta thành công hoặc đạt được những kết quả mặt này mặt kia thì chúng ta dễ bị cám dỗ sinh tự mãn, tự kiêu. Người tự kiêu, tự mãn không chỉ lên mặt coi thường tha nhân mà vô tình hay hữu ý còn bất cần cả Thiên Chúa.

Dữ kiện người thu thuế không dám tiến gần chính điện, cũng không dám ngước mặt lên trời muốn khẳng định thái độ khiêm nhu nhìn nhận sự bất xứng, bất toàn của anh. Anh lại còn đấm ngực thú nhận thân phận tội lỗi của chính mình. Với thái độ khiêm nhu, người thu thuế đã sống trong sự thật. Và sự thật đã giải thoát anh (x.Ga 8,32). Ông đứng trước mặt Thiên Chúa và với tất cả sự khiêm tốn, ông nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Kết quả là khi ông trở về nhà, ông đã được nên công chính, nghĩa là đã được Chúa xót thương. “Lời cầu xin của người khiêm tốn sẽ vọng tới các tầng mây” (Bài đọc 1).

Ðạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Làm việc lành là một điều tốt, nhưng nếu việc lành khiến tôi khinh miệt tha nhân thì thật là nguy hiểm. Dụ ngôn trên đây cho thấy hai khuôn mặt trái ngược: Thiên Chúa sẽ nghiêng về phía ai? Ngài không nghiêng về người pharisêu, kẻ tự hào mình công chính và khinh rẻ tha nhân, nhưng Ngài cúi xuống người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh không cậy dựa vào công đức của mình nhưng vào lòng thương xót Chúa.

Chúng ta không thể làm cho mình nên thánh thiện chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức nào đó. Chúng ta cũng không thể mua được Nước Trời chỉ nhờ những cố gắng của bản thân. Trở nên thánh, nên công chính là việc Chúa làm nơi tôi, là quà tặng Ngài ban cho tôi. Tôi chỉ cần khiêm tốn mở ra, để cho Ngài chiếm lấy mọi khoảng đời của mình, chi phối mọi khoảnh khắc của ngày sống.

  1. Chúng ta hãy bắt chước người thu thuế, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn, nghĩa là những người đón nhận với lòng khiêm hạ. Nhiều khi chúng ta cũng giống như người Phariseu: Tôi thế nầy, tôi thế nọ, tôi không như người nầy, không như người khác… Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều này nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào tội lỗi của chính mình. Khi chỉ trích người khác, chúng ta còn phạm tội lỗi luật yêu thương. Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.

CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN C

ÔNG DA-KÊU

Kn 11,22-12,2: Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.

 

2Tx 1,11-2,2: Xin Thiên Chúa giúp chúng ta làm cho anh em mình xứng đáng với ơn gọi; xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin.

 

Lc 19,1-10

  1. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” Đó là thông điệp tác giả sách Khôn Ngoan (bài đọc 1) gửi đến cho con cái Israel ở Ai Cập khi họ sinh lòng thù ghét những tay sai của đế quốc thống trị, đến nỗi họ muốn Thiên Chúa trừng phạt, tru diệt bọn chúng ngay tức khắc. Thiên Chúa không xử trí với con người tội lỗi theo cách của con người, đúng như thông điệp sách Khôn ngoan đã dạy. Không chỉ trong thời Dân Thiên Chúa lưu đày, mà ngay hôm nay, người gian ác, kẻ tội lỗi, người hô to đã đảo Thiên Chúa, cấm cách bức bách đạo Chúa…. vẫn sống nghênh ngang, vênh vang, tự phụ. “Chúa sửa dạy từ từ. Ngài cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kng 12, 2).

Người dựng nên mọi sự vì yêu mến. Chính tình yêu của Chúa ban cho mà mọi loài được hiện hữu và bảo tồn mọi loài trong sự hiện hữu ấy. Không gì xuất hiện và tồn tại được nếu Người không muốn. Thế nên kẻ dữ còn đó là vì tình thương của Thiên Chúa. Người không ghét bỏ những gì đã tạo ra. Thái độ của Thiên Chúa có vẻ thong thả là để kéo dài việc sửa dạy những kẻ sa ngã, giúp chúng trở lại mà được sự sống đời đời.

Khác với con người, Thiên Chúa không có lòng thù. Thiên Chúa chỉ có lòng thương. Đức Giêsu Kitô đã đến và mặc khải tình thương bao la ấy. Đức Giêsu đến để tìm và cứu kẻ có tội. Người chính là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Chúa đến để thực hiện những điều mà sách Khôn ngoan đã viết: bằng tấm lòng nhân ái, Người sẽ làm cho tội nhân trở lại. Ơn cứu độ là hiệu quả của tình yêu Thiên Chúa. Ta hiện hữu vì Thiên Chúa yêu thương ta. Tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn tội lỗi loài người vì Chúa “nhắm mắt làm ngơ” trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chính vì Người yêu ta nên Người muốn ta tồn tại mãi mãi. Đó chính là ơn cứu độ! “Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được.” Thật là tuyệt đẹp trang sách Khôn Ngoan ta nghe trong bài đọc 1 Chúa Nhật hôm nay.

  1. Khi sinh ta ra, Thiên Chúa Cha đã nhìn ngắm Con chí ái của Người là Đức Giêsu và Người đã tạo thành ta theo hình ảnh của Người Con chí ái đó: “Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29). Người giao cho ta nhiệm vụ suốt đời phải thể hiện hình ảnh Đức Giêsu, mỗi người theo mức độ Chúa Cha đã ấn định. Hình ảnh đó của Đức Giêsu mà mỗi người phải thể hiện chính là nhân cách riêng của từng người, là cái tôi đích thực của mỗi người. Ta có thể dùng hình ảnh mà tông đồ Phaolô đã dùng (1Co 3,10-15) là mỗi người chúng ta phải xây dựng bản thân bằng cách sử dụng cũng những vật liệu từng hình thành nên Đức Giêsu. Đây chính là cách mà ông Da-kêu đã làm. Nhờ cuộc viếng thăm của Đức Giêsu, ông đã trở nên một con người mới, “con người sống động”: vì ông đã bắt đầu trở nên một con người qui về Thiên Chúa và tha nhân, như Đức Giêsu. Ông bắt đầu xây dựng lại cái tôi của ông từng bị méo mó do tính ích kỷ.
  1. Thời đó, đế quốc Rôma, đánh thuế rất nặng trên dân Do thái, nước họ đô hộ. Những người Do Thái yêu nước hoặc sùng đạo như người Pharisêu, chủ trương không nộp thuế. Dakêu là quan thuế vụ của đế quốc, nghĩa là ông cộng tác với một dân tộc ngoại giáo đang đô hộ dân tộc mình cách khắc nghiệt. Là người Do Thái chính gốc nhưng ông lại làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc và tôn giáo mình. Thêm vào đó, những người thu thuế như ông thường hay lạm quyền, bóc lột dân chúng: thay vì thu thuế đúng như luật định, thì bắt dân đóng nhiều hơn để đút túi riêng (x. Lc 3,12-13). Vì thế, Ông Da-kêu dưới con mắt của quần chúng là một kẻ tội lỗi vì làm nghề thu thuế. Ông bị dân chúng khinh bỉ, xa lánh như hạng người ô uế, phản quốc, bội đạo, tội lỗi. Theo quan niệm của người Do thái thời bấy giờ thì việc giao du và lui tới nhà người tội lỗi cũng bị nhiễm tội (Lc 5:30; 7:34; 15:2).

Ðứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ. Ðó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Da-kêu. Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Chúa Giêsu đã nặng lời lên án họ như sau: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình. Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào.” (Mat 23: 13).

Còn về phần Chúa Giê-su, Ngài có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao thượng này có một sức cảm hoá thần diệu. Da-kêu được biến đổi từ một cuộc đời tội lỗi thành cuộc sống quảng đại, phục vụ nhờ “gặp gỡ Ðức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình”. Chúa Giê-su thừa biết Da-kêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giê-su không nhìn Da-kêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương. Chúa đến để tìm và cứu những gì đã mất. Chúa kêu ông bằng chính tên của ông. Da-kêu kinh ngạc. Rồi Chúa lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Da-kêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông”. Đấng nhận ông cũng là “con cháu của tổ phụ Abraham” mà bấy lâu nay đồng bào của ông và chính ông tự coi như mình bị lọai trừ. Và Da-kêu vô cùng sung sướng đón tiếp Ðức Giê-su vào nhà mình. Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Ðức Giê-su đối với Da-kêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai dám mong đợi. Bấy giờ Ông Da-kêu đứng lên thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Số tiền bồi thường này nhiều hơn luật buộc gấp đôi. (Xh 22:3). Chính tiếp sau lời tuyên bố tự nguyện đó, ông và gia đình ông đã được một cơ may vô cùng quí giá là được nghe lời phán quyết từ chính miệng Ðức Giê-su: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”, điều mà chỉ do lòng nhân từ của Thiên Chúa đã thương ban cho ông. Ðời ông đã đổi mới hẳn. Ông sẳn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Ðức bác ái của ông dâng cao. Ðức công bằng cũng không kém. “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn.” Bởi tin vào Chúa Giêsu, người thâu thuế thành Giê-ri-khô đã chứng tỏ mình là con cháu của Áp-ra-ham, “Cha của mọi kẻ tin”. Lòng tin cậy nơi Chúa Giêsu đem lại ơn cứu rỗi dành cho tất cả mọi người, cả cho những kẻ thấp hèn, tuyệt vọng và khinh miệt nhất.

Hình ảnh của Đức Giêsu cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

  1. Dakêu đã từ bỏ «cái tôi» của mình để được thấy và biết mặt Đức Giêsu. Ông là một người lùn, thấp bé, làm sao thấy được Đức Giêsu giữa đám đông? Không chịu bó tay, leo lên một ngọn cây ở ngoài đường như trẻ nhỏ hay như hạng người bình dân. «Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó». Như thế ông có thể nhìn rõ Đức Giêsu. Giầu có và sang trọng, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Ðức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được khi Ðức Giêsu đi qua. Ông có mặc cảm với tầm vóc nhỏ bé, và mặc cảm bị người đời khinh chê. Hôm nay ông lại có vẻ lăng xăng như đứa trẻ con: trèo lên cây để được xem thấy Chúa đi qua. Lòng mong mỏi muốn được xem thấy Chúa khiến ông quên đi việc giử tư cách người lớn của mình. Gia kêu hôm nay đã chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Chúa Giê-su cũng nói với những người biệt phái: “Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông” (Lc 11, 41)

Còn chúng ta, không phải Chúa Giêsu chỉ ghé qua, nhưng Ngài luôn ở trong tâm hồn mỗi người. Ngài không chỉ nhìn và kêu gọi, nhưng Ngài hằng hoạt động và kêu mời liên tục. Hằng ngày chúng ta dễ dàng được gặp Chúa qua Tin Mừng, hằng ngày diện kiến, hội ngộ Chúa qua Bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, thế mà chúng ta lại cứng lòng, chai đá, lạnh lùng, vô cảm trước nghĩa vụ phục vụ tha nhân, trước nhu cầu cấp bách của những người hoạn nạn, đau khổ, túng bấn, cùng cực, những thân phận dật dờ sống bên lề xã hội. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở thành không xứng đáng, khi đó chúng ta cũng được nghe Chúa Giêsu nói như đã nói với Giakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”.

  1. Chúa đến để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ hầu dẫn đưa mọi người vào Nước Thiên Chúa là Vương Quốc của bình an, yêu thương và công chính. Chúa cũng đến để kêu gọi những người tội lỗi hoán cải để được tha thứ: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tín Mừng” (Mk 1, 15) Chúa không đến để tìm những người công chính, tốt lành, không cần thống hối vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần” (Mt 9:12). Vì thế, Chúa đã không lên án những người bị coi là tội lỗi công khai hay thầm kín. Ngược lại, Chúa tỏ lòng thương xót và khoan dung với họ, mong họ sám hối ăn năn để được tha thứ như Người đã nói rõ trong bài Tin Mừng hôm nay: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lk 19, 10).

Thế giới ngày nay còn quá nhiều những người đang bị xã hội lên án là tội lỗi, xấu xa. Và cũng còn rất nhiều “Biệt phái” khinh chê hạng người này và không muốn cho họ được thông cảm và hòa giải để sống trong bình an và thân tình với những người khác. Thánh Giacobê tông đồ khuyên chúng ta: “Kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình” (Gc 5, 20). Ngoài ơn Chúa tác động trên bình diện siêu nhiên, thì trên bình diện tự nhiên, việc trở lại của Dakêu cũng như những người tội lỗi khác phần lớn đến từ cách xử sự đầy tình nghĩa của người làm tông đồ. Thống kê cho thấy đa số những trường hợp trở lại Kitô giáo hay con đường ngay chính là do họ cảm kích thái độ yêu thương và cách sống gương mẫu của người tông đồ. Ngược lại, nhiều Kitô hữu đã bỏ đạo chỉ vì cách xử sự bất công, khinh người, ích kỷ, «ngôn hành bất nhất» của người làm tông đồ. Văn hào Victor Hugo viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables) đã kể câu chuyện về Văn Giang (Han Valjean), một tên sát nhân bị tù 19 năm. Khi được tha về, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi; vào nhà trọ, vừa thấy mặt anh, người ta đóng cửa lại; vào ổ chó, chó sủa inh ỏi; vào trọ nhà Ðức Giám mục Myriet được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp cây đèn bạc rồi trốn đi. Chính quyền bắt được, giải tới Ðức Giám mục. Ngài nói: “Chính tôi tặng anh và tặng thêm hai cây đèn nữa.” Rồi Ngài nói với anh: “Anh cầm lấy, anh hãy bỏ ác theo thiện. Tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa.” Từ đó, Van Giang suy nghĩ, hối cải và sau này trở thành một Thị trưởng rất đạo đức.

Lạy Chúa, xin cho chúng con học được nơi Chúa lòng bao dung rộng mở, không phê phán, lên án, óan trách người khác. Biết gần gũi, tạo tình thương mến đối với nhau trong cuộc sống này. 

  1. Nếu hôm nay Thiên Chúa tỏ cho tôi biết là Người sẽ đến thăm viếng gia đình tôi, thì tôi hãy tự hỏi xem tôi đã sẵn sàng đón rước Chúa chưa? Xưa ông Giakêu đã quá sung sướng và xúc động khi biết được Chúa sẽ đến nhà mình, nên ông đã thực lòng ăn năn hối cải, thực lòng muốn quay về với tình yêu thương của Chúa. Nhờ lời của Chúa, ông Giakêu đã nhận ra những sai trái của mình mà thành tâm hối lỗi. Phần chúng ta, biết bao lần chúng ta đã lỗi phạm, biết bao lần chúng ta đã làm ngơ trước những kêu mời của Chúa. Hãy bình tâm và trả lại cho tâm hồn mình sự yên tĩnh, để trái tim ta có thể nghe rõ tiếng Chúa kêu mời mà quay về với Người.

Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thay đổi chúng ta trở nên tốt hơn, cũng như Người đã thay đổi ông Giakêu. “Hãy lắng nghe! Ta đứng ở ngoài cửa và gõ; nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ đi vào nhà của họ và ăn với họ, và họ sẽ ăn với Ta” (Kh 3:20). Thật hạnh phúc cho con cái Chúa nơi trần gian. Con nhận ra được lòng Chúa thật bao la. Người sẵn sàng đi đến, sẵn sàng ngước nhìn, sẵn sàng mời gọi và sẵn sàng vào cư ngụ trong mỗi căn nhà, mỗi gia đình, mỗi tâm hồn cụ thể của con cái Chúa, bất kể con người ấy như thế nào, tội lỗi, xấu xa ra sao. Chúa chỉ mong muốn chúng con trở về, đón nhận tình yêu thương, đón nhận ơn cứu độ vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất “.

Nhưng rất nhiều lần Chúa đứng trước cửa lòng chúng con và gõ cửa, chúng con đã không mở ra. Chúa biết chúng con nhiều tội lỗi và Chúa chờ chúng con sám hối để Chúa tha. Nhưng chúng con vẫn thờ ơ. Nhiều lần Chúa nhìn chúng con và lên tiếng kêu gọi chúng con như Chúa đã nhìn và kêu gọi ông Dakêu. Nhưng chúng con không đáp lại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn, can đảm như Gia- Kêu, dám từ bỏ những gì mình có:  lợi lộc, của cải, sở thích, quyền lực và những đam mê bất chính, đền trả những gì gây thiệt hại cho người khác, để bước theo Chúa, hầu được đón nhận ơn Cứu độ Chúa đem lại cho chúng con.

  1. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình như lạc lõng giữa cộng đoàn vì tội lỗi hay vì lý do nào đó. Không còn ai hiểu mình, mọi người đều xa lánh. Những lúc ấy chúng ta hãy tin tưởng đặt trọn con người mình vào vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy noi gương ông Dakêu vượt qua số phận và dự luận để đến múc lấy nguồn ơn của Chúa Giêsu. Và rồi chúng ta cũng được kêu mời noi guơng Chúa Giêsu dùng tình thương mà đến với anh chị em mình.

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN C

Bảy anh em cưới một bà

2Mcb 7,1-2.9-14: Một bà mẹ và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa. Chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.

Sách 2 Mác-ca-bê được biên soạn vào khoảng năm 124 trước Công nguyên, có một tầm quan trọng đáng chú ý vì sách này chứa đựng những khẳng định rõ ràng về sự phục sinh, về thưởng hạt đời sau, về việc cầu nguyện cho người chết, về công trạng của các vị tử đạo, sự chuyển cầu của các thánh. Bài đọc 1 là câu chuyện tử đạo của bảy anh em của một gia đình đã chết dưới bàn tay vua An-ti-ô-khô vì họ nhất quyết tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa và xác tín rằng: sau khi chết, họ sẽ được Thiên Chúa cho sống lại. Ðó là niềm tin vào sự sống lại của người xưa. Đây là lần đầu tiên các vị tử đạo của thời Cựu Ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ sống lại.

2Tx 2,16-3,5: Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó. Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói thêm: dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.

Lc 20,27-38

  1. Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng không tin xác loài người ngày sau sống lại. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như bài đọc 1 thuật lại, có 7 anh em 1 nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển.

Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Xa-đốc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa.  

Nhóm Xa-đốc là một nhóm tư tế cao cấp trong Do-thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo lẫn chính trị, từ trước thời Ðức Ki-tô. Họ chỉ chấp nhận 5 sách của ông Mô-sê (Ngũ Kinh). Trong những sách này, Môsê không hề đề cập đến việc sống lại, nên họ chủ trương không có sự sống lại. Việc sống lại để sống vĩnh cửu chỉ được đề cập đến trong những sách Cựu ước khác, chẳng hạn trong quyển thứ hai Macabê (như bài đọc 1 của Chúa Nhật này; xem thêm 2Mcb 12,43-44), sách ngôn sứ Isai (x. Is 26,19). Nhóm Pharisêu không chỉ công nhận giá trị mặc khải của 5 cuốn sách do Môsê viết, mà còn công nhận những sách khác nữa, nên họ chủ trương có sự sống lại. Do đó, hai nhóm luôn tranh luận và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này.  

  1. Nhóm Xa-đốc dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Xa-đốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, lần lượt lấy 1 người đàn bà làm vợ rồi đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Xa-đốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao? Trả lời câu đó không xuôi thì ai chủ trương có sự sống lại sẽ bị đuối lý.

Đức Giêsu cũng dựa vào chính lời của Môsê– mà họ công nhận có giá trị mặc khải – để chứng minh lập trường của Ngài, khiến họ phải câm miệng. Nếu họ dựa vào Môsê để xác nhận không có sự sống lại chỉ vì ông không minh nhiên đề cập đến sự sống lại, thì Ngài cũng dựa vào chính Môsê để minh chứng ngược lại. Đức Giêsu dùng chính lời của Môsê tường thuật về việc Thiên Chúa hiện ra với ông lần đầu trên núi Sinai: Ngài là Chúa của tổ phục Abraham, Isaac và Giacóp (Xh 3,6), mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. “Ðức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.

Đức Giêsu còn cho phái Xa-đốc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta sẽ không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa. Ý Ngài muốn nói: sau khi sống lại, thân xác con người không còn những nhu cầu như khi còn tại thế nữa. Vì thân xác con người sẽ được biến đổi, tuy vẫn là chính là thân xác cũ, nhưng lại rất khác với thân xác cũ. Chúng ta có thể ví đời sau khác với đời này, như đứa trẻ khác với khi nó sống trong bào thai, như con bướm khác với lúc nó là con sâu, như cây xanh tốt khác với hạt mọc nên nó. Tuy vậy, có sự tiếp tực từ bào thai sang đứa trẻ, từ con sâu thành con bướm, từ hạt giống mọc lên cây. Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy. Sự phát triển của chúng ta đang diễn ra ngay bây giờ, đặc biệt là qua sự tiếp nhận Thánh Thể. Chúng ta lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa, Đấng đã chết và sống lại. Đó là Chúa của sự sống lại vinh quang, Đấng đã nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta, duy trì và làm phong phú ân sủng cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể chúng ta hãy nhớ rằng, lời hứa đã được củng cố bởi Lời của Chúa Giêsu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ cho chúng sống lại vào ngày sau hết”. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, mà chính Ngài còn là sự sống lại. Sự Phục Sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục Sinh của Ngài mà niềm tin của chúng ta được xây dựng.

Làm sao người chết sống lại được, với thân xác nào người chết sống lại? Và thánh Phaolô đã trả lời: “chỗi dậy là thân thể có thần khí”: Thánh Phaolô minh họa tương quan giữa thân xác cũ và thân xác sống lại như hạt lúa và cây lúa do hạt ấy mọc lên (x.1Cr 15,35-38). Cây lúa là chính hạt lúa ấy biến đổi mà thành, nhưng lại rất khác với hạt lúa. Về sự khác biệt nhưng vẫn chính là một giữa thân xác sống lại và thân xác hiện nay, thánh Phaolô viết tiếp: «Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí» (1Cr 15,42-44).

Đức Giêsu cũng cho phái Xa-đốc biết thêm rằng: Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nòi giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy. Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).

Từ những vấn nạn của nhóm Xa-đốc, Ðức Giê-su đã xác quyết rõ Giáo Lý của Ngài: có đời sau, có sự sống lại, có thiên thần, ở đời sau không còn có chuyện dựng vợ gả chồng. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn.

  1. Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên Thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được. Và mọi thụ tạo mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22). “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,11) Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Trời, hay Thiên Ðàng, là nơi hưởng phúc thanh nhàn vui vẻ vô cùng và cái phúc lớn nhất trên Thiên Ðàng chính là xem thấy mặt Ðức Chúa Trời. Trời cũng là nơi chúng ta được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa mãi mãi, hay nói cách khác: “Chúng ta được sống trong sự sống của Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô diễn tả bằng những hình ảnh sau: “Ðiều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nhận đã được Chúa dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài. Ðây là điều Chúa dùng thần khí mặc khải cho chúng ta” (1Cr 2, 9 10a).

  1. Ðối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vì yêu thương, Thiên Chúa dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người, ban sự sống và tình yêu của Người cho chúng ta. Thiên Chúa không thể nào chết được. Nếu chúng ta sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của Chúa, chúng ta cũng sẽ sống mãi. Vậy sự chết bởi đâu mà có? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5, 12; 6, 23). Nhưng Thiên Chúa, “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24).
  1. Chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi. Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại, vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào?

Theo những bảng thống kê về niềm tin của con người ở thời đại hôm nay vào cuộc sống trường sinh bất diệt mai sau, thì có tới quá phân nửa không tin gì ở cuộc sống mai hậu. Đối với họ, chết là hết. Đối với những người không tin có sống lại thì còn sống bao lâu hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi.

Những người không tin có sự sống lại đó, họ vẫn xây những ngôi mộ thật đẹp, những lăng tẩm thật vững chắc. Họ kỷ niệm ngày chết tổ tiên, anh hùng long trọng. Chẳng lẽ họ lại tô điểm cho cái xác đã rữa thối? Tôn vinh những ngôi mộ bằng đất đá? Như vậy, miệng thì chối không có sự sống lại, nhưng việc họ làm chứng tỏ lòng họ tiềm ẩn một niềm tin sống lại. Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp. Đối với người Việt Nam, chết không phải là hết, nhưng người chết vẫn còn quanh quẩn bên người sống để che chở cho con cháu. Bởi đó, người Việt Nam thường khấn xin tổ tiên ông bà phù hộ cho con cháu. Và khi chết người Việt Nam lại về với ông bà, tổ tiên. Chúng ta tin có ông Trời, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ

Còn hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp… Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy! Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

Thế nhưng có những người có đạo mà cũng chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

  1. Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta. Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta. Người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Nhưng thật hạnh phúc cho người Công giáo chúng ta, vì chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Ðấng đã chết và đã phục sinh khải hoàn. Đấng có thể cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. (Ga 11: 25-26). Chúng ta bám víu vào cây thánh giá, chúng ta nắm chắc cây thánh gía trong tay, nắm chắc vào sự chết và phục sinh của Chúa. Như thế chúng ta không còn sợ gì nữa.

Thánh Phalô còn nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng Người phục sinh; nếu ta chịu khổ với Người, ta sẽ cùng Người thống trị.” Đây chính là con đường chúng ta phải đi. Thật vậy, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Niềm tin này là sức mạnh để chúng ta đương đầu với cái chết. Niềm tin này đã chiếu soi cuộc sống chúng ta, soi sáng cho tất cả hành động, ý nghĩ, tâm tư tình cảm của chúng ta. Nhờ vậy, khi chúng ta gặp thử thách gian nan, khi sức khỏe chúng ta hao mòn, khi chúng ta bị bệnh tật dày vò thân xác, … chúng ta luôn cảm thấy được bình yên và hạnh phúc, vì chúng ta luôn hướng về quê trời, quê hương thật sự của chúng ta. Niềm tin căn bản đó phải là kim chỉ nam cho tất cả cuộc đời tại thế: “Nếu anh em đã đựơc cùng sống lại với Đức Kitô, hãy tìm kiếm các sự trên trời, chính nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Hãy trìu mến những việc trên trời, chớ xu hướng sự vật dưới đất.” (Cl 3: 1-2)

Ở số 999, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo còn xác tín rõ hơn: “Chúa Kitô đã sống lại với thân xác của Người… Thế nên, trong Người, ‘tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay’, song Chúa Kitô ‘sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người’, nên một ‘thân xác thiêng liêng’ (Công Đồng Chung Latêranô IV năm 1215: DS 801; Pl 3:21; 1Cor 15:44)”.

  1. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Giê-su, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. «Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. Cv 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Ki-tô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là người Ki-tô hữu.

Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, đã chọn chúng ta, yêu thương chúng ta như các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp để chúng ta sống hạnh phúc trong gia đình đầy yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải để chúng ta chết. Lời tung hô Allêluia đã reo vang lên: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại, Người vinh hiển quyền năng, vạn vạn tuế!”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.

Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, «cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rô-ma và sách Khải huyền viết: «Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm» (Rm 2,6; Kh 2,23).

CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN C (x. CN 33 năm B, 19 năm C)

Sống theo năm Phụng vụ giống như làm một cuộc hành trình. Hôm nay đã gần hết năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, còn được gọi là ngày tận thế.

Bài đọc I (Ml 3, 19-20a) Trích đoạn này nói về “Ngày của Chúa”: Khi đó Thiên Chúa sẽ tiêu diệt những thế lực gian tà và Ngài sẽ cho những người công chính được vinh quang.

Bài đọc II (2 Tx 3, 7-12) Nhiều tín hữu trong giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, cho nên họ lười biếng không muốn làm gì nữa cả. Thánh Phaolô khiển trách điều đó. Ngài lấy chính bản thân ngài ra làm gương: không bao giờ sống vô kỷ luật, không ăn bám vào ai, trái lại luôn làm lụng vất vả. Phaolô đã nói một câu rất nặng: “Ai không làm việc thì đừng ăn”

Tin Mừng (Lc 21, 5-19)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nói về ngày cùng tận của thế gian và những điềm báo trước ngày ấy. Điềm Ngài nói tới trước hết là các ngôn sứ giả đội lốt chiên (x. Mt 7,15) mạo danh người của Thiên Chúa (x. Lc 21,8) để lường gạt nhiều người (Mt 21,11), nhờ thế họ được thế gian trọng vọng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Điềm kế tiếp là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, cùng với các thiên tai (động đất, bão lụt, dịch tễ, đói kém…). Trong thời gian ấy, những người công chính hay các ngôn sứ thật bị bắt bớ, ngược đãi, bách hại, cầm tù, hãm hại… Theo lời Đức Giê-su, thời này là một cơ hội tốt để người Ki-tô hữu làm chứng cho Thiên Chúa, cụ thể là làm chứng cho công lý và tình yêu của Ngài. Chính vì làm chứng như thế mà họ «bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp», kết án, làm mặt lạ, «bị mọi người thù ghét», bỏ rơi, thậm chí bị giết. Nhưng không một sự gì xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa: «Dù chỉ một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!» Người khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin, vì Thiên Chúa luôn quan phòng chở che cho những ai cậy trông nơi Người. Đối với Chúa Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tin hữu có dịp “làm chứng”: để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu, và để người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách. Chúa đòi hỏi chúng ta phải sống đức tin. Chúa muốn chúng ta chứng tỏ đức tin của mình bằng lối sống can đảm, và hãy coi đó là một cơ hội hơn là một bất hạnh.

Nếu Chúa Giêsu “đã hoàn tất” (Jn 19:30) sứ vụ của Người bằng thập giá và trên thập giá thế nào, thì Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, với thân phận “tôi tớ không thể hơn chủ nhân” (Jn 15:20), Giáo Hội cũng sẽ hoàn tất thời điểm của mình trong quằn quại thương đau. Giáo Hội đã cảm nhận qua Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675 thế này: “Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn2:18,22)”.

  1. Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta về sự kết thúc sự sống đời này—có thể là cái chết riêng từng người, hay cái chết chung của toàn thể vũ trụ, đó là ngày tận thế. Nói về sự chết, có lẽ không ai trong chúng ta muốn nghĩ đến cái chết của chính mình, dù chúng ta đã được chứng kiến những cái chết của người thân yêu, của bạn hữu, hay được nhìn thấy trên truyền hình những hình ảnh thê lương đau khổ của nạn nhân chiến tranh hay thiên tai. Thực tế thì không ai thoát được cái chết, dù muốn hay không, và cái chết đến rất bất ngờ. Bởi vậy, chúng ta phải biết chuẩn bị cho cái chết của chính mình. Nếu không, chúng ta sẽ đánh mất sự sống đời đời.

Đời sống chóng qua như thế, nếu ta cứ tìm và thu gom cho mình những thứ vô thường tạm bợ, thì khi đời sống này qua đi, ta sẽ hoàn toàn trắng tay khi bước vào đời sống vĩnh cửu. Coi chừng kẻo ta chỉ được giàu có trong chốc lát để rồi muôn đời phải khổ đau! Còn gì dại dột bằng. Người khôn thì nhắm lợi ích lâu dài, còn kẻ dại chỉ nhắm lợi ích trước mắt. Nguyên tắc ấy ai cũng biết, nhưng trong thực tế người ta vẫn sống ngược lại nguyên tắc khôn ngoan ấy do bị lóa mắt vì những lợi ích trước mắt. Chúng ta là người khôn hay người dại?

  1. Nhưng Chúa Giêsu không cho biết khi nào ngày đó xảy ra. Ngài còn khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Bởi vậy, lo lắng để dọn mình sẵn sàng cho ngày Chúa đến là điều cần thiết và rất quan trọng; vì Chúa đã nói: “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày giờ Chủ các ngươi đến. Hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ vào, hẵn ông đã tỉnh thức và không để chúng đào ngạch khoét vách nhà ông. Vì thế các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:42-44).

Những biến cố hân hoan vui mừng cũng như buồn phiền đau khổ chúng ta đều nhìn ra bàn tay yêu thương và quyền năng của Chúa trên cuộc đời chúng ta. Những ai vẫn kết hiệp với Chúa trong cuộc sống hằng ngày cũng sẽ được kết hiệp với Chúa trong ngày Chúa đến. Nếu chúng ta sống trong tâm tình phó thác cậy trông vào sự quan phòng của Thiên Chúa thì không có điều gì đáng cho chúng ta phải lo ngại. Quá khứ, hiện tại, và tương lai của chúng ta đều nằm trong vòng tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.

  1. Không có gì là vĩnh cửu dưới bầu trời này. Chúng ta đang sống trong một thế giới vô thường, tạm bợ, mọi sự đều thay đổi, mọi sự đều qua đi (x. 1 Cr 7,31b; 1 Ga 2,17). Không một điều gì sự gì thuộc thế giới này tồn tại mãi, cho dù hiện tại chúng có vẻ kiên cố vững chắc tới đâu đi nữa. Đức Giê-su đã nói lên chân lý ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người Do thái nhìn ngắm và khen ngợi đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, được xây cất bằng đá cẩm thạch nguyên khối, mỗi cây cột cao hơn 12 mét. Đền thờ được trang trí với cây nho lớn bằng vàng ròng, quyên góp từ các tín hữu (2 Mcb 2, 13). Chính vẻ huy hoàng lộng lẫy của đền thờ mà người ta tưởng nó sẽ tồn tại vĩnh viễn. Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm sai lầm đó. “Những gì các ngươi đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào“. Quả thật, tiên báo này đã hoàn toàn ứng nghiệm năm 70 sau Công nguyên, khi vua Titô đem quân bao vây, tàn sát dân chúng, bắt những tù binh, và thiêu huỷ đền thờ thành ra hoang vu tiêu điều.

Nhưng sự sụp đổ của thànnh Giêrusalem chỉ là hình bóng của ngày thế tận. Rồi đây, sẽ chẳng còn thứ gì tồn tại. Thời gian sẽ hủy diệt tất cả. Điều chúng ta cần chuẩn bị là sẽ mất tất cả những gì thuộc đời này: của cải, sự nghiệp, gia đình thân yêu, sự sống, sắc đẹp, sức lực,… Mọi sự đều tiến về cái chết, dù nhanh hay chậm. Vì thế, thánh Anphong từng nhắc đi nhắc lại: “Chỉ có một việc ta phải lo là việc rỗi linh hồn, vì mỗi người chỉ có một linh hồn mà thôi.”  

Không có tâm tình nào thích hợp cho chúng ta trong những ngày cuối năm này cho bằng Cảm Tạ và Phó Thác. Cảm Tạ và Phó Thác tất cả cho Thượng Đế, vì Ngài là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và quan phòng cuộc đời chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Thượng Đế của Tình Thương, của sự Sống. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Đường, là Sự Thật và là Lẽ Sống của chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác cho Thượng Đế, vì nhờ Ngài cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

  1. «Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích» (Tv 103,15-16).

Thánh Gio-an: «Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi» (1 Ga 2,17). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài! “Trời đất này sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc 21, 33) Do đó, «hãy sống như giữa ban ngày» (Rm 13,13), «sống trong ánh sáng» (1Ga 1,7), «không sống trong bóng tối kẻo ngày ấy như kẻ trộm đến bất chợt không hay biết» (1Tx 5,4). «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người» (Lc 21,36). «Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13; Mc 13,13).

Tóm lại, biết lắng nghe, biết suy niệm và luôn biết tỉnh thức, sẵn sàng thực hành theo Lời Chúa dạy, “hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2Tx 3, 13), thì mọi kẻ thù hung ác, mọi thử thách nghiệt ngã, mọi chông gai nguy hiểm, cũng đều có thể vượt qua, bởi “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.” (Lc 21, 17-18). Câu kết của bài giảng (“Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”– Lc 21, 19) đã cho thấy ai kiên trì cầu nguỵên thì có thể kiên trì đối diện với mọi thử thách nghiệt ngã, vượt thắng được nghịch cảnh, vượt thắng được chính mình, thậm chí hy sinh cả tính mạng mình cho chân lý mình đang theo đuổi.

Các Ki-tô hữu được thánh Phê-rô và thánh Phao-lô dạy rằng quê hương của họ ở trên trời: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20) và họ ở trần gian này như lữ khách: “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đàm mê xác thịt vốn gây chiến với linh hồn”. (1Pr 2,11)

Giáo hội mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa; đồng thời ra sức tỉnh thức, siêng năng thực thi những điều Chúa truyền dạy, sống công bình bác ái, chu toàn bổn phận trong yêu thương và trách nhiệm đối với gia đình, giáo hội và xã hội.

CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN C

CHÚA KITO VUA

Sách Sa-mu-en quyển 2 (2 Sm 5, 1-3) thuật lại việc vua Ða-vít được xức dầu tấn phong làm vua toàn thể Is-ra-en. Ðây là vị vua sáng giá nhất trong lịch sử dân Chúa. Chính nơi dòng dõi vị vua này, Chúa Cứu Thế, Ðấng muôn dân mong đợi, đã giáng sinh.

Thư Cô-lô-sê (Cl 1, 12-20) nhấn mạnh hình ảnh Chúa Giê-su là Ðầu. Ngài là Trưởng Tử của vương quốc ánh sáng. Nơi Người muôn vật được tạo thành, trên trời cũng như dưới đất, hữu hình với vô hình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập gía mà muôn loài được hòa giải với mình, và Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài.

Hội thánh, khi xếp lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua vào cuối chu kỳ phụng vụ, cũng có ý nhấn mạnh vai trò của Ðức Ki-tô, Ðấng là đầu và là sau hết (An-pha và O-mê-ga). Ngài là trung gian duy nhất giao hòa loài người tội lỗi với Thiên Chúa.

Tin Mừng Thánh Lu-ca (Lc 23, 35-43)

  1. Các bài đọc hôm nay đều quy hướng về chủ đề “Ðức Ki-tô là vua vũ trụ”. Chúng ta được mời gọi hướng về ngày cánh chung, tức là ngày tận thế, ngày tận cùng của lịch sử nhân loại. Khi ấy, mọi quyền bính trần thế sẽ chấm dứt; mọi chia rẽ hận thù và chiến tranh tàn khốc sẽ không còn. Chỉ còn vương quốc yêu thương và an bình tồn tại. Vương quốc ấy là vương quốc của Chúa Giêsu. Vị Vua Giêsu vẫn đang hiện diện trong cuộc sống của Chúng ta. Một vị vua không thực thi quyền thống trị. Người đang tiếp tục đi qua các ngả đường và ngõ xóm, ngồi trên lưng một chú lừa con, như trên đường phố Giêrusalem xưa. Người đang gõ cửa tâm hồn chúng ta, dù chúng ta không đón tiếp Người.

Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách tàn ác? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài lang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.

  1. Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh Ðức Giê-su trong thân phận giống như một tội nhân. Ngài chịu sỉ nhục, đánh đòn, các thủ lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục mạ và kết cục là cái chết trần trụi trên thập gía. Một vị vua đang phải uống giấm chua trong cơn khát của người sắp tắt thở với lời thách thức phạm thượng: “Nếu ông là Vua Dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi”. (Lc 23,37).

Phía trên đầu Người có bản án viết:” Ðây là vua người Do Thái.” Trong tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa, thánh Gioan đã dừng lại ở một số chi tiết đáng cho chúng ta suy nghĩ về vương quyền của Đức Kitô. Trước tiên là tấm bảng mà Philatô đã cho viết và được treo trên thập giá: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Ông nhấn mạnh đến tính cách phổ biến của tấm bảng ấy, vì được viết bằng tiếng Do Thái, Latinh và Hy Lạp, mà nhiều người có thể đọc được vì nơi đó gần thành. Tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ của nền văn hóa đương thời; tiếng Latinh là ngôn ngữ của chính trị; tiếng Do Thái là ngôn ngữ của tôn giáo. Tước hiệu vương đế của Đức Giêsu được giới thiệu và tuyên xưng trong mọi lãnh vực, cho cả thế giới, mọi nền văn hóa và ý thức hệ chính trị. Danh hiệu vua dân Do Thái đã được lặp đi lặp lại như một chủ đề trong suốt cuộc xử án. Philatô hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái hay không? Vậy ông là vua sao? Các người có muốn ta thả vua dân Do Thái cho các người không? Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Sự nhấn mạnh của Philatô như thể diễn tả sự châm biếm hay tố giác sự lo âu của ông? Nhưng chính vì danh hiệu này, mà cuối cùng người Do Thái đạt được bản án: Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda.

Một nghịch lý lạ lùng. Đó là một người ngoại giáo đại diện của quyền bính Xêda, lại ban cho Đức Kitô cái danh hiệu mà các thủ lãnh của dân Ngài thì lại khước từ. Những người dân thấp cổ bé miệng lại cũng đã tung hô Ngài là vua Israel, khi Ngài long trọng tiến vào Giêrusalem. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ bánh hoá nhiều. Vương quyền của Đức Kitô không phải là một vương quyền thuộc thế gian này. Vì thế, Ngài đã trốn lên núi để tránh đi sự hiểu lầm ấy. (x. Ga 6,15). Bây giờ, Ngài không ngại gì nữa. Bị lính tráng đánh đòn, Ngài là một vị vua khiêm nhường và nghèo nàn, theo lời tiên tri Giacaria: Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ, này vua ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con. Đây là một vị vua đội mương miện là một vòng gai, mặc một cẩm bào là chiếc áo đỏ để rồi bị chế giễu. Philatô có lý: Đây là vua các ngươi. Điều ông viết là được viết cho muôn đời.

Khi người ta muốn suy tôn Ngài lên làm vua, Ngài đã từ chối một cách quyết liệt. Ngược lại, ngay lúc thập tử nhất sinh, lúc mà mỗi lời nói đều có thể đem đến bản án tử hình cho Ngài thì Ngài lại công khai tuyên bố: Quan nói đúng, tôi là Vua, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi. Chúa Giêsu là Vua, nhưng trong tước hiệu Vua của Ngài có cái gì không ổn, có cái gì ngược đời, có cái gì khác thường như bản án Philatô ghi trên cây thập tự: Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.

Bị treo trên Thập giá, Ðức Giêsu nghe những lời mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu “Nếu ông là Ðức Ki-tô thì hãy cứu lấy mình. Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Chỉ cần xuống khỏi thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin. Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ. Nhưng Ðức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con thật của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như trước đó Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Ðền Thờ. Ðức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác. Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Ðóng Ðinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23,43). Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được Ơn Cứu Ðộ nhờ cái chết thập giá của Ðức Giêsu.

Thói thường khi quân Rômma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua dân Do thái.” Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là Hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).

  1. Quan niệm bình thường của con người là gắn liền ông vua với ngai vàng, với quyền lực, với thống trị. Người ta phải dùng tới bạo lực để đạt được ngôi vua, để rồi bắt mọi người phải quy phục mình và ngày đăng quang sẽ là một ngày chiến thắng. Thế nhưng ngày đăng quang của Đức Kitô lại là một ngày thê thảm nhất. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá, vương miện của Ngài chỉ là một vòng gai làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng chính lúc ấy: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết Ta là ai và Đấng đã sai Ta ở với Ta. (Ga 12:32) Chúa kéo mọi người lên không phải bằng bạo lực, nhưng bằng tình yêu tha thứ, bất bạo động và công chính hóa.

Chúa Giêsu không mạc khải Ngài là vua khi Ngài giảng dạy, khi Ngài làm các phép lạ, khi làm cho sóng gió phải yên lặng, khi xua trừ ma quỷ, tranh luận với người Pha-ri-sêu và Xa-đốc. Chỉ khi bị bắt, lúc quyền hành không còn, Chúa Giêsu mới xác nhận với Philatô Ngài là Vua, nhưng nước Tôi không thuộc thế gian này.

Vua Giê-su Ki-tô tỏ vương quyền của mình trên thập giá, vì ở đấy Tình Yêu đạt mức độ cao nhất, tuyệt hảo nhất. Vua Giê-su Ki-tô đã đổ hết máu mình ra mà cứu độ chúng sinh. Vua Giê-su Ki-tô cai trị là để cho vũ trụ hài hòa với thiên nhiên đã được Thiên Chúa tạo dựng trong tình thương và quyền năng. Vua Giê-su Ki-tô cai trị là để mọi người, nhất là những người nghèo và bị loại trừ- vui hưởng bình an, hạnh phúc. Cái yếu tố thúc đẩy Ngài lên ngôi vua không phải chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng chính vì Ngài là tình yêu: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Thập giá là dấu chứng của tình yêu, của phục vụ. Ngài dùng tình yêu và hy sinh để cứu độ nhân loại khỏi vòng tội lỗi. Yêu thương đồng nghĩa với trao ban. Trao cho nhau một tặng vật, là trao một phần yêu thương. Trao cho nhau chính mình, là trao trọn vẹn tình yêu, là tận hiến, là yêu đến cùng. Chúa Giêsu đã nói về tình yêu ấy: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga. 15,13). Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá diễn tả hùng hồn và sâu sa nhất tình yêu tận hiến, tình yêu đến cùng. Chúa Giêsu quả là Vua tình yêu.

Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.

  1. Giáo lý dạy chúng ta rằng: khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta trở thành chi thể của Ðức Giê-su Ki-tô và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Người. Tham dự vào chức vụ vương đế của Ðức Giê-su Ki-tô không có nghĩa là chúng ta có quyền “làm vua làm chúa” thiên hạ, sống trên đầu trên cổ người khác. Trái lại tham dự vào chức vụ vương đế của Ðức Giê-su Ki-tô có nghĩa là chúng ta được tham dự vào sứ mạng phục vụ của Người. Tham dự vào chức vụ vương đế của Ðức Giê-su Ki-tô có nghĩa là chúng ta có nghĩa vụ bênh vực người nghèo, người cô thế cô thân, người bị đàn áp bóc lột bởi cường quyền ác bá. Tham dự vào chức vụ vương đế của Ðức Giê-su Ki-tô có nghĩa là chúng ta được mời gọi trở thành kẻ hầu người hạ, tôi tớ của anh em đồng loại. Tham dự vào chức vụ vương đế của Ðức Giê-su Ki-tô còn có nghĩa là chúng ta hoạt động hết sức, hết khả năng để mở mang Nước Chúa, tức mở rộng phạm vi cai trị của Vương Quyền Chúa. Muốn được như thế, chúng ta phải có tinh thần khiêm tốn, quên mình, phục vụ tha nhân và Nước Chúa của chính Ðức Giê-su Ki-tô. Chúng ta càng hy sinh cho người khác, càng phục vụ người khác thì chúng ta càng sống vai trò làm vua theo nghĩa Thánh Kinh, theo nghĩa mạc khải. Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin Chúa làm vua tâm hồn con, để lòng trí con luôn hướng về Chúa, con mắt con luôn nhìn ngắm Chúa, miệng lưỡi con hằng chúc tụng ngợi khen Chúa, tâm trí con luôn suy niệm Lời Chúa, cuộc sống con luôn lấy đời sống của Chúa làm mẫu mực noi theo! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin Chúa làm vua gia đình con, để mọi người thân của con sống mật thiết gắn bó với Chúa, sống luật Phúc âm của Chúa!

Mừng Lễ Chúa Giêsu Ki-tô, Vua Vũ trụ, người Ki-tô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn để Ngài làm vua vũ trụ của lòng mình. Vương quyền của Đấng đã từng phán: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20.27-28).

  1. Ngay trên khổ giá của mình, Người trộm bên hữu đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những lời nhạo báng. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42). Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình yêu. Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.

Quả thật anh trộm lành đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến thắng. Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: Trở ngại thứ nhất là những lời thách thức của những người đòi một vị vua uy quyền. Họ đòi Ngài dùng quyền năng xuống khỏi thâp giá. Trở ngại thứ hai là cái chết khổ đau. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, đã nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”. (Cl. 1,20).

Người trộm lành là hình ảnh của cả nhân loại hư đốn và sa ngã, nhưng được cứu thoát nhờ biết nhìn nhận ra Đấng Cứu Chuộc là Vua đầy tình lân ái. Đúng như thánh Phaolô đã ca ngợi trong thư gửi cho tín hữu thành Colossê: “Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tội. Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi thụ tạo, vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình… Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người, Người là đầu thân thể tức là Hội Thánh, là nguyên thủy và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hòa vạn vật nhờ Người và vì Người, nhờ máu Người đã đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hòa bình trên trời dưới đất.”

Bài viết liên quan