NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CUỘC HÀNH TRÌNH NƠI NGƯỜI TU SĨ HÔM NAY
Mỗi thời đại đều có những khó khăn và thử thách nhất định. Nhìn chung, thời đại nào người dâng hiến hoặc người thánh hiến, hay nói cách khác người tu sĩ cũng phải trải qua những dặm trường. Bởi vì chính Thầy Chí Thánh đã vạch sẵn con đường “cửa hẹp” để các môn đệ của Chúa đi vào nước của Chúa. Muốn vào được Nước Chúa, chắc chắn người môn đệ phải vứt bỏ nhiều thứ mới có thể lọt vào trong được.
- Những Thách Thức:
- Thử thách lớn nhất và khó nhất vẫn là cái TÔI
Tôi là ai? Tôi là tu sĩ linh mục hay không linh mục? Tôi đang giữ chức vụ nào? Tôi làm mà không ai ủng hộ? Tôi học cao nhưng không được trọng dụng? Tôi du học nhiều nơi nhưng vẫn bị bỏ quên? Tôi tài cán nhưng công việc lại quá tầm thường? Bề trên tôi học thấp hơn tôi tại sao? …. Vâng nhiều lắm!
Khi định nghĩa về cái TÔI có rất nhiều định nghĩa khác nhau, về cả tu đức lẫn tâm lý học.Theo cha Anthony de Mello S.J. trong quyển sách nhan đề “Taking Flight”, ngài dành một chương nói về cái TÔI (The Self) trong đó ngài thu lượm và kể lại những câu truyện khiến tôi phải suy nghĩ nhiều:
Tôi là cái TÔI của ông.
Có một ẩn sĩ sống tại vùng sa mạc bên Ai Cập. Ngày kia, ông quyết định rời túp lều của mình để đi một nơi khác vì ông không thể chịu nổi những cơn cám dỗ đang hành hạ ông. Đang xỏ đôi giầy vào chân để chuẩn bị lên đường, bỗng dưng, ông nhìn thấy cách ông không xa lắm, một người giống như ông cũng đang xỏ giầy như ông.
Vị ẩn sĩ hỏi người lạ : Ông là ai?
Tôi là cái TÔI của ông, người lạ mặt trả lời, rồi tiếp: “Nếu vì tôi mà ông phải rời chốn này, thì tôi báo cho ông biết là cho dù ông có đi đâu chăng nữa, tôi cũng sẽ theo ông”. (Anthony de Mello, Taking Flight, 1988, tr. 131-132)
Qua câu truyện trên, cho ta một nhận định: Những gì ta đang mơ hoặc đang tìm cách trốn chạy, nó đều bắt đầu từ trong chính nội tâm của mình.
Thánh Phaolô đã nói: “Những gì tôi muốn làm, tôi không làm, những gì tôi không nên làm, tôi lại làm”.(Rm 7,19)
Vì thế, trong tôi đang có một cuộc chiến giữa tôi và TÔI.
Ông Blaise Pascal đã nói: “Cái TÔI đáng ghét” (Le moi est haissable). Vậy, chắc cái TÔI của tôi thật cứng đầu và đáng tởm vì nó không nghe tôi. Ông Blaise Pascal còn nói thêm: “Cái TÔI là đáng ghét, nhưng đó là nói về cái TÔI của người khác”. Và ông nhấn mạnh thêm: “Mỗi cái TÔI là thù địch và muốn làm bạo chúa trên các cái TÔI khác”.
Còn theo Alfred de Vigny nói: “Cái chữ khó nói và khó đặt cho đúng chỗ, chính là cái TÔI. Trong quyển sách Những Vết Chân Đã Mất của nhà văn Cuba Alejis Carpenter (1904 – 1980) nêu lên sự khó khăn khi sử dụng chữ TÔI. Còn ông Graham Greene, đại văn hào nước Anh, đã viết: “Khi tôi viết về ngôi thứ nhất, tôi phải đeo chiếc mặt nạ”. Có lẽ vì thế mà ông Oscar Wilde đã nói: “Kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng sợ cái TÔi của mình”.
- Cái TÔI lấn át cả cái tội.
Đoạn Tân ước nói về một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8, 3-11), khi Chúa Giêsu bảo người biệt phái và luật sĩ: “Ai trong các ông không có tội thì ném đá trước đi”… Kết quả: họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Nhưng trước đó ít phút, đám người đông đảo cả già lẫn trẻ đang hung hăng tố cáo và đòi ném đá người phụ nữ mỏng dòn không một vị thế để bảo vệ mạng sống. Vậy mà chỉ sau một câu nói của Chúa Giê-su, người ta lặng lẽ rút lui từ từ. Một lời mời gọi từ trong chính nội tâm, đánh thức cái TÔI ích kỷ và đám người đông đúc đó đã nhìn ra chính bản thân cũng đáng phải chịu ném đá, và họ đã phải xuôi tay trước sự hùng hổ của bản thân “ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá ném trước đi”.
Người Hy lạp đã từng gắn trên cổng đền thờ Delphes câu châm ngôn: “Bạn hãy biết chính mình”, còn đối với Thalès de Milet bảo rằng: “Công việc khó khăn nhất là nhận biết chính mình”.
Sự thật nơi bản thân ta, cái gần ta nhất ta lại khó thấy nhất như cặp lông mi, lông mày, cái mũi, cái miệng … muốn thấy nó phải nhờ đến đối tượng là cái gương mới có thể thấy được; đó là sự thật nơi chính bản thân ta.
- Cái TÔI thật tồi tệ :
Chính cái TÔI làm cho con người trở thành nô lệ cho chính mình, không thể vượt ra khỏi cái vỏ bọc của thân xác và tâm hồn, từ tâm tư tình cảm đến cách đối nhân xử thế, từ việc làm đến mối quan hệ … chính cái TÔI làm cho mình bị thất bại thảm thương như nhà tâm lý học Hàn Cư Sĩ nhận định:
Trong giáo dục nhân bản, lòng tự trọng và sự tôn trọng người khác, cũng như tôn trọng những quy luật trong đời sống là then chốt của mọi vấn đề, tạo nên nhân phẩm, nhân cách của con người. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn nữa là do chính cái Tôi quá lớn của mỗi người không muốn phục tùng, nên mới nảy sinh nhiều xáo trộn, làm đảo lộn trật tự cuộc sống cho chính họ và với mọi người. Lòng tự trọng được thay bằng tự ái, còn sự tôn trọng biến mất trở thành ngông cuồng, phản kháng và chống đối.
Trong việc đối nhân xử thế, để thuận hợp và được lòng người (đắc nhân tâm), yếu tố quan trọng hàng đầu là phải dẹp bỏ hoặc hạ bệ cái Tôi của mình xuống mới có thể hòa hợp được với người khác, mới biết lắng nghe và chấp nhận người khác. Nếu để cái Tôi làm chủ, sẽ sinh ra chuyện mỉa mai, cợt nhả, chỉ trích, cướp lời, tranh khôn, lý sự, đề cao mình, chê bai, thiếu lễ độ, than vãn, trách cứ, bắt bẻ… Đó là những điều tối kỵ trong giao tiếp (thất nhân tâm).
Nhiều người thất bại trong đời sống, từ giáo dục, lãnh đạo, làm ăn, tổ chức… phần lớn do cái Tôi của người đó làm hại chính họ. Khi cái Tôi làm chủ sẽ bị người khác bất mãn, bất hợp tác, xa lánh, không ai có thiện chí giúp đỡ, không ai cảm thông, không ai tin tưởng. Những thất bại nối tiếp nhau ở đời nằm trong vấn đề mấu chốt này, trở thành số phận cho một con người. Nếu họ hạ bệ được cái Tôi vĩ đại này, đừng tự xem mình như cái RỐN của vũ trụ thì số phận họ sẽ thay đổi ngay. Một người luôn nói về mình, đề cao mình, coi thường người khác, chắc chắn người đó sẽ bị ghét bỏ và họ chẳng học điều gì khôn cả. Vì ai dám góp ý cho người đã thấy mình đã đầy đủ rồi (tự mãn).
Vì vậy người ta có thể đo lường sự nhận thức và tu dưỡng của một người qua sự giao tiếp, bằng cách xem người đó thể hiện cái Tôi như thế nào. Nếu người đó luôn nói về mình, luôn phô trương, đề cao mình, luôn quy chiếu về mình, như vậy chứng tỏ người đó rất kém về trình độ tu dưỡng, kém đức, không thể lãnh đạo hay làm việc phục vụ lý tưởng, đạo đức được, và người này chắc chắn có nhiều thất bại trong cuộc sống. Người ta gọi điều này là « tâm tướng » – thích gì thì nói về cái đó – nên Khổng Tử rất chú trọng đến việc « Tu ngôn ». Nếu quan sát những vị tu hành, rất hiếm khi thấy họ thể hiện cái Tôi.
Cái Tôi của con người rất phức tạp, nó ao ước nhiều thứ. Ao uớc được người ta khen ngợi, được đề cao, được danh dự, được trọng dụng. Họ ước muốn những gì thoải mái, dễ dãi, và không muốn ai động chạm đến những gì của riêng họ, dù là vật chất hay tinh thần. Cái Tôi luôn chê bai người hơn, coi thường người kém họ. Cái Tôi luôn ao ước được một tiếng khen, tìm cách để được khen, nhưng rất sợ hãi và nổi khùng lên vì tiếng chê. Chính những tiếng khen hay tiếng chê sẽ làm cho người ta nhận ngay ra được cái Tôi của một người ở mức độ nào. Một ý tưởng, một năng khiếu thông thường, một chút tài vặt, nhưng cái Tôi có thể thổi lớn lên thành cái vĩ đại, tài ba lỗi lạc hơn người, thậm chí thành thiên tài. Và ảo tưởng này đeo bám vào cái Tôi suốt đời, nếu không biết tu dưỡng.Cái Tôi không dám nhận hoặc không nhìn ra bộ mặt thật của mình mà mang một bộ mặt giả dối, bởi vì con người thật của họ có nhiều yếu kém, nết xấu, không muốn cho ai biết. Do đó, chỉ khoe bộ mặt con người ảo chứ không phải con người thật. Để che đậy, sợ cái Tôi bị bóc trần, nhiều khi quá bỉ ổi đến đớn hèn, người ta thường tạo nên những cái Tôi giả tạo, ảo tưởng, vô tội và đáng kính : tôi không như ai, tôi không thế này, tôi không thế nọ, tôi đã làm được cái này cái nọ… thật là tuyệt vời, là tài năng hơn người. Nên Chocarne mới nói: “Chỉ tin tưởng mình, chỉ nghe lời mình. Đó là nguồn sai lầm khốn nạn nhất”.
Cái tôi không dám thẳng thắn nhận những khuyết điểm, những dốt nát, yếu kém của mình chỉ vì tự ái, sợ bị lột trần. Cái Tôi tìm cách đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh, cho xui xẻo chứ không chịu lỗi nơi mình.
Cái Tôi có quá nhiều lớp vỏ bao bọc : lớp vỏ của xã hội, nghề nghiệp, chức quyền, tiền tài, của cải, nhất là ảo tưởng về chính mình… Nó được nuôi dưỡng bằng tự ái, tự mãn, mặc cảm…
Đại hiền triết Socrate một đời chỉ truyền dạy : “Hãy tự biết mình”, nghĩa là đừng ảo tưởng về mình, đừng tô bóng, phóng đại mình lên mà hãy chân thật để nhận biết về mình, biết thân phận hạn chế, yếu kém, dốt nát của mỗi con người trước thiên hạ và trời đất. Cách khác là hãy thành thật nhìn vào bên trong của mình, nhận ra cái Tôi của mình để làm chủ lấy nó, lúc đó mới gặp được đạo – đạo sống làm người. Cũng như Lão tử nói : “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (nói thì không biết, biết thì không nói – ham nói về mình, biểu dương sự hiểu biết).
Nhưng người nói “tôi chẳng là gì cả”, chưa chắc đã là người thành thật với chính mình, mà phải xem lời nói và việc làm có đi đôi với nhau không, cũng như xem họ có bảo vệ, quy chiếu về mình không. Đức Giê-su đã sống và dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt. 11, 29). Lúc đó cái Tôi sẽ bị triệt tiêu.
Tài năng, tốt xấu, hay dở, đáng khen, đáng chê … tự người khác biết và đánh giá, chứ không cần phô diễn hay bào chữa. Nhưng khi cái Tôi làm chủ thì không như thế, nó cầu tiếng khen và sợ tiếng chê, nên phải thị oai quảng cáo, hoặc bào chữa để củng cố và bảo vệ cái Tôi vĩ đại này. (Hàn cư Sĩ)
Thầy Giê-su đã dạy chúng ta phải hiền lành thật, hiền lành như Thầy Giê-su “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha” hoặc “ Lạy Cha, xin đừng theo ý con một vâng theo ý Cha” . Có nghĩa là đứng trước bất kỳ mọi sự kiện, biến cố nào, con người luôn phải đặt mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa, không khoe khoang, không tự phụ, không tự ái … Nếu con người tu sống được như vậy, thì cái TÔI không còn là cơ hội làm nên tội nữa mà làm nên Phúc, không còn tồi tệ mà trở nên tốt lành.
Vâng, có những sa ngã đau thương nơi con người, đặc biệt nơi người tu sĩ, chính bởi cái TÔI quá lớn đã làm mất đi bản chất của họ, thay vì sống cho người khác, thì lại sống cho mình, nhưng lại không nhận ra mình nữa; một cái chết dai dẳng chỉ vì cái TÔI quá lớn.
- Cuộc Hành Trình Nơi Người Tu Sĩ Hôm Nay
Ta có thể tóm tắt cuộc hành trình nơi người tu sĩ theo những bước sau:
- Hiện diện và dấn thân:
Sự hiện diện và dấn thân trong sứ vụ người môn đệ Chúa Ki-tô như lời mời gọi của Thầy Chí Thánh “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân”; nghĩa là ở khắp mọi nơi không phân định biên giới. Cuộc ra đi này muốn được hiệu quả tốt, muốn thu lượm nhiều thành tích, muốn gặt hái thành công, người chiến sỹ của Chúa phải biết dẹp bỏ cái TÔI để hạ mình, ngồi vào chỗ rốt hết. “khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời … Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14, 8 – 9).“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 14, 11).
“Anh em hãy học nơi tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Chỉ có Thầy Giê-su mới dám tuyên bố điều này. Chúng ta phải học và bắt chước con đường Chúa đã đi, việc học và bắt chước này không được phép dừng, một khi ta dừng lại thay vì làm chứng sẽ trở thành phản chứng, bởi sự kiêu căng và cái TÔI quá lớn đang thôi thúc ta làm chủ chứ không muốn làm đầy tớ.
- Lời loan báo:
Trong cuộc sống thường ngày, ta bắt gặp hai loại hình loan báo: Một bằng lời và một không bằng lời, ở đây tôi muốn đề cập đến loại hình không bằng lời.
Đời sống thánh hiến đi ngược dòng với thời đại. Con người ai cũng muốn có một đời sống sung túc, đầy đủ tiện nghi, trong khi người tu sĩ lại khoác trên mình một giây ràng buộc của sự nghèo khó tự nguyện. Họ sống một đời sống khác thế gian; hưởng thụ và khoái lạc bị loại bỏ, thay vào đó bằng đời sống đơn sơ phó thác, cải thiện đời sống từng ngày để nên “đồng hình đồng dạng” với Thầy Chí Thánh. Ba lời khuyên Phúc Âm đã làm nên một đời sống nghịch chiều khi mà xã hội đang bị tục hóa bởi sự văn minh của nó, lấy vật chất làm nền tảng cho cuộc sống, sự giàu có, xa hoa quyền lực là tiêu chí cho sự thành công trong cuộc đời. Trong khi đó, đời sống thánh hiến lại mời gọi sống nghèo, sống thanh bần và trinh sạch, dấu chỉ lời loan báo không bằng lời.
- Nẩy mầm và phát triển:
Như hạt lúa gieo vào lòng đất, hạt lúa đó phải chết đi để rồi mới đâm bông và kết trái.
Cuộc đời người thánh hiến cũng phải trở nên như hạt lúa được gieo vào lòng đất, chết cho lý tưởng, chết cho anh em, chết đi những đam mê trần tục … hình ảnh người tu sĩ phác họa chính hình ảnh của Thầy Giê-su, từ đó phát sinh những mầm non, chồi non xinh tươi và kết trái.
- Biến hình:
Cuộc biến hình của Chúa Giê-su đã làm ba môn đệ phải ngây ngất, không muốn trở về với trách nhiệm và công việc, nhưng sau đó các ông đã nhận ra và tiếp tục sứ vụ được trao ban.
Người tu sĩ cũng đang được mời gọi trong từng cuộc biến hình, biến hình để trở nên một nhân chứng mẫu mực, biến hình để không còn là mình mà trở nên hình ảnh của Chúa Ki-tô, biến hình để cái TÔI của tôi trở thành cái TÔI nơi anh em.
Vâng, dù là ai, cái TÔI quá lớn sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của chính mình, đặc biệt nơi người tu sĩ, nếu không bỏ được nó, thì sự hiện diện sẽ không thể đơm bông và kết trái, sẽ không có sự sống và nẩy mầm, không còn chứng tá và lời loan báo, sẽ không thể có cuộc biến hình lần hai cho cuộc đời vì TÔI vẫn là tôi.
Louis G. Phạm Thế Nhung, fsf.